Có lẽ quư anh chị em đă quen thuộc với những câu truyện nổi tiếng của nhà văn Phạm Tín An Ninh từng đăng trước đây trong Mục 99 Độ.
Dưới đây là bài "50 Năm - Nỗi Buồn C̣n Đó"của nhà văn quân đội, nhân 50 năm Ngày Quốc Hận. Khi đọc, không những anh chị em sẽ đồng cảm với những nhận định về cuộc chiến Quốc Cộng mà sự chiến bại không nằm trong tay những quân nhân Miền Nam Việt Nam xông pha ngoài trận tuyến, mà quư vị c̣n t́m thấy văn phong chân thật của một quân nhân tác chiến, đi từ cấp trung đội trưởng lên đến Trưởng Ban 3 Trung Đoàn, từng chảy máu trên chiến trường, và ḷng luôn trĩu nặng v́ sự hy sinh của bao đồng đội thân quen, bao gồm cả quan lẫn quân . Nay dù không c̣n cầm súng, nhưng ng̣i bút của nhà văn An Ninh c̣n mạnh và sâu sắc hơn những viên đạn trước đây.
Bài viết này đă được dịch ra tiếng Pháp và đăng trong một diễn đàn tại Canada, với mục đích cho thế hệ con cháu hiểu biết thêm về lịch sử của cha ông.
BBT YKH Hải Ngoại chân thành cám ơn anh An Ninh chia sẻ bài viết. Thân mến chúc anh và chị nhà sức khỏe và an vui.
50
năm – c̣n đó nỗi buồn.
Phạm Tín An Ninh
Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ
đă quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu
hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính
thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những
nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị
quyết lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp
thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua
quân vào lănh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại
bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ
đă tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi,
bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt
sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp,
từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đă vậy,
Tổng thống Mỹ c̣n đ̣i phải được
khai thác khoảng sản, đất quư, tài sản quốc
gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện
trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm
ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt,
trở thành trận cải vă nặng nề ngay tại Ṭa
Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump
cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước
sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện
diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền
h́nh. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi
Pḥng Bầu Dục, TT Trump cũng đă quyết định
ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự
cũng như cung cấp tin tức t́nh báo, nhằm áp lực
Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự
sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết
quả hội đàm tuy chưa chính thức ngă ngũ,
nhưng ai cũng đă nh́n thấy trước số phận
của Ukraine!
***
Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đă cùng bắt tay thỏa thuận kư kết hiệp định mạo danh Ḥa B́nh vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.
Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau ḷng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đă lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ th́ rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng t́nh huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đă có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đă bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không c̣n ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đă không chiến đấu hết ḷng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lănh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn c̣n được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết ḷng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris kư kết, VNCH gần như cô thân độc mă. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!
***
Vào thời gian này,
đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu
vực Kontum - Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến
thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng
hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS
Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử
Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người,
đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh
niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập
ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận
địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm
được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn
11 Nhảy Dù, mở cánh cửa ngơ xua chiến xa T-54 với
hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập
BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm
cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực
lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư
Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm
Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn
biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc
công 400, 2 trung đoàn Pháo, 6 tiểu đoàn Pḥng không và 1 tiểu
đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành
phố Kontum, trong ư đồ tiến chiếm Pleiku, nơi
có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp
tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng
đă bị thảm bại trước một lực lượng
VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng
3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ
hữu, đặc biệt được Không quân (giai
đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ.
Điều này đủ để chúng tỏ khả
năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.
Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không c̣n khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Ṭa Giám Mục, Bệnh Viện 2 Dă Chiến và ṿng đai phi trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đă phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đă phải công nhận qua chính các hồi kư, quân sử của họ)
Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với B́nh Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đă bẻ găy ư đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đă phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đă thỏa hiệp, kư kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.
Ủy Ban Nobel Ḥa B́nh NaUy năm 1973 đă phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vă, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất măn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đă phải từ chối nhận giải, v́ hơn ai hết, chính cá nhân y và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có ḥa b́nh, bởi họ đă mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.
Hiệp định mang tên Ḥa B́nh, nhưng kỳ thực chỉ là h́nh thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng t́nh h́nh này, CSBV đă ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường ṃn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.
Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù t́nh huống tương tự đă xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn c̣n tiếp tục…”
Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đă phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của ḿnh ngă xuống mỗi ngày trong t́nh trạng tức tưởi, oan khiên như thế!
(trên đường ra trận - ảnh từ Internet)
Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh b́nh thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn h́nh như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “găy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết ǵ về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài g̣n.
***
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường t́nh. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đă đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đă phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đă hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra ḿnh bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xă hội chủ nghĩa” của ḿnh.
Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đă kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đă bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích c̣n sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đă làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đă từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn c̣n sót lai, dù trong t́nh trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Ḥa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút ǵ cái “t́nh dân tộc” trong chiêu bài “ḥa hợp ḥa giải”.
Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng B́nh Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em c̣n nặng tấm ḷng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia găy đổ. Vậy mà, sau đó họ đă bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng v́ đó mà đành phải hủy bỏ.
Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần ṃn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đă biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố th́ đă được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ c̣n mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.
(mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái - ảnh từ youtube)
Một chứng tích đau ḷng khác, những thương binh VNCH bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đă chết do nghèo đói, bệnh tật. Số c̣n lại cũng đă già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, t́nh tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa t́nh cùng ḷng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Ḍng Chúa Cứu Thế Sài g̣n, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đă hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đă t́m mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.
(thương phế binh VNCH - ảnh Dân Làm Báo)
Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đă phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đă nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương ḿnh. Tương lai chỉ c̣n là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ c̣n biết nh́n ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và c̣n ǵ đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm t́m chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do - mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đă thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lănh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quư báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.
Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đă cố t́nh biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đă có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ t́m vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài g̣n ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa băi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đă trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.
50 năm, nền giáo dục “xă hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đă làm cho bao thế hệ học tṛ trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái B́nh) đă công khai trong một chương tŕnh trên truyền h́nh Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là t́nh trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc tṛ, Chuyện thầy giáo gạ t́nh, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học tṛ, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường t́nh.
Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học tṛ cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đă thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do ḿnh “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không c̣n nữa. (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật h́nh tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đă công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005, nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
50 năm, nền văn học “xă hội chủ nghĩa” c̣n lại những ǵ, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút...” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương ḿnh thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai c̣n muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!
Nhưng 50 năm với những bản t́nh ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đă từng bị đàn áp, tù đày để người phải bỏ ḿnh, người th́ gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lănh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngơ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc t́nh ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.
Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đă viết:
“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Ḥa b́nh đă đến sau mấy thập niên tang tóc v́ bom rơi, đạn nổ.
Thế nhưng, người Miền Nam đă không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không c̣n được tự do tŕnh bày suy nghĩ, không c̣n được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đă từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ư thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…
Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài G̣n cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm t́m kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đă chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng t́m kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đă đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh b́nh giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:
“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.
(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)
Tuy đây chỉ mới
là một hành động đơn lẻ nhưng đó là
một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không c̣n bao lâu nữa ḍng Văn
chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được
đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường,
nó xứng đáng được trả về với
đúng vị trí của nó trong tiến tŕnh phát triển
văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không
một thể chế nào có thể bôi xóa một thời
đại lịch sử của nước nhà. Giữ
ǵn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho
đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và
các bạn những người yêu tiếng Việt, những
người yêu văn chương Việt Nam”
Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đă khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, th́ nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có ǵ cả!”
Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đă kết luận:
“…nh́n một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đă dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng ḿnh” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….
Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến tŕnh “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đă đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”
***
Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đă có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn c̣n tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đă công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài g̣n) để chữa bệnh, giờ th́ ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”
Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:
-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk
-Nhật Bản : 35,611 Mk
-Đài Loan : 34,944 Mk
-Malaysia : 14,423 Mk
-Thái Lan : 7,754 Mk
Tệ hơn, Việt nam c̣n thấp hơn nhiều so với
cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có
đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung
b́nh của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.
Điều đặc biệt đáng chú ư hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giă từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).
-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk
-Hung Gia Lợi (Hungary) = 25,703 Mk
-Ba Lan (Poland) = 25,040 Mk
-Lỗ Ma Ní (Romani) = 21,570 Mk
-Bảo Gia Lợi (Bulgari) = 18,456 Mk
Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đă làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đ́nh và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dă man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rơ chiêu tṛ lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên h́nh một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.
Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đă kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xă Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng - tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lănh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lănh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước - như là một thứ quốc nạn không c̣n thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đ́nh trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai tṛ kế vị.
Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân th́ cũng đă chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người t́nh sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ t́nh dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đ́nh, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động măi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đă “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đă vậy vẫn cứ tiếp tục những ḍng người t́m mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, v́ không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đă bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đă từng trở thành nỗi ô nhục.
***
Sau đúng 50 năm, tại Sài g̣n, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dược một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đă có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra ḿnh bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn ḿnh, giàu đẹp) giờ cũng đă tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh B́nh Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:
Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi
ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!
Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm
lạnh!
Mẹ c̣ng lưng vắt kiệt sức, mỏi ṃn, thao thức
đợi con về!
“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê
Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải
phóng!”
Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!
Không hiểu ḿnh đi Giải phóng cho ai?
Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xă hội, nhiều “dân oan!” mất đất.
Những nghịch lư, tai ương…chồng chất!
Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng măi ra.
Người ở “quê” không c̣n tha thiết với “ao nhà”.
Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng,
chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”
Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người
“ngoài ấy”.
...
Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ
hoang???
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đ́nh, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu v́ sao nhiều người “bỏ tất”
để vào Nam chen lấn, đua đ̣i?
Riêng tôi!
…
Đă mấy năm nay, tôi đă làm kẻ “chạy trốn!”
Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đă
đi qua!
…
Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!
Xin lỗi ! “tháng Tư!”
Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đă làm!
Xin lỗi tất cả!
Cả những người “bên thua cuộc!”
Biết sao được !
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn
được thời cuộc
Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân
minh!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Hăy tha thứ cho ḿnh! Rất chân thành, chứ không phải lời
giả dối.
Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ
Tạ Lỗi Miền Nam
Tôi sinh ra ở miền bắc
Không h́nh dung ra giặc thế nào
Người ta hô hào
Phải căm thù giặc…?
Người ta dạy tôi là người miền bắc
Phải biết thương yêu đồng bào miền nam
Bà con ruột thịt đang lầm than
Dưới gót giày của Mỹ Diệm…
Những người con nông dân thật thà như đếm
Mặc áo lính vai khoác súng lên đường
Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê
hương
Đánh đuổi quân xâm lược…
Thống nhất đất nước
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân ḿnh
Miền nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi
dân ḿnh là giặc!
…
Sám Hối
Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập
đầu
Nh́n con cháu ḷng muôn hổ thẹn…
Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh
Thắng lợi mang về là làm khổ dân ḿnh
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác
Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc
Quên dân tộc ḿnh theo chủ nghĩa Mác Lê Nin
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nh́n
Gieo thù hận trong ḷng con cháu
Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu
Chẳng ư nghĩa ǵ khi dân tộc điêu linh
Chẳng ư nghĩa ǵ khi đất nước tanh bành
Lănh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm
Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm
Mất chính ḿnh mang tội ác với tương lai
***
Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đ́nh ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu c̣n sống sót giờ cũng đă trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn măi luôn âm ỉ trong ḷng. Một quăng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cơi vô cùng.
Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống ḿnh hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt ḿnh. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi v́ đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ư nghĩa về cuộc đời của chính ḿnh, thế hệ chúng ta, qua những việc đă làm, những đau thương đă trải…thực sự là ǵ, hoặc chẳng là ǵ hết?”
Cuối tháng 4-2025
Phạm Tín An Ninh