Trung Quốc là nước luôn luôn chủ trương tiêu diệt các quốc gia láng giềng để bành trướng lănh thỗ.  Chiến lược là làm suy yếu, xâm chiếm và đồng hóa. Chiến thuật th́ thay đổi theo từng giai đoạn. Khi th́ vũ lực, khi th́ văn hóa, khi th́ mua chuộc, gây chia rẽ phân hóa, di dân chiếm đất theo lối tằm ăn dâu...  Những chiến thuật thâm độc này đă làm các quốc gia  Nam Việt, Liêu, Kim, Tây Hạ, Nam Chiếu, Đại Lư… biến mất trên bản đồ thế giới.

Trong suốt chiều dài lịch sử, Trung quốc đă áp dụng tất cả những chiến thuật tàn khốc đó với Việt Nam, một dân tộc phương Nam bé nhỏ nhưng kiêu hùng.

Và họ đă thất bại thê thảm!

BBT xin được giới thiệu một bài viết của BS Trần Như Luận về thiền sư Tuệ Tĩnh. Có thể nói hoàn cảnh và tâm tư của sư Tuệ Tĩnh cũng là hoàn cảnh và tâm tư của kiến trúc sư Nguyễn An, người xây Tử Cấm Thành Trung Hoa, của Hồ Nguyên Trừng, người chế súng hỏa pháo thần cơ cho nhà Minh, của hàng vạn nhân tài Việt Nam bị bắt về Tàu, bị cưỡng ép phục vụ cho các Hán triều, và suốt đời khóc thân vong quốc “chim Việt đậu cành Nam” nơi xứ người. Đọc, như một nhắc nhỡ, rằng Trung Quốc không bao giờ ngưng ngh cuộc chiến tranh xâm chiếm tiêu diệt đối với Việt Nam. Đốt sách, cưỡng dụng chất xám, tiêu hủy tất cả những di sản văn minh để làm dân tộc Việt Nam kiệt sức, mất năng lực đề kháng…là một phần của cuộc chiến ấy.

Trân trọng.

BBT

 

BẠCH HẠC

 

1.

                                                                       

Câu chuyện xảy ra vào tháng ba năm Ất Sửu 1385, tức là năm Xương Phù thứ chín. Lúc này, tại triều đ́nh Thăng Long, nhà vua Đế Hiển(1) mới 25 tuổi, quyền hành nằm cả trong tay Thượng hoàng Trần Nghệ Tông và Hải Tây đô Thống chế Lê Quư Ly. Ở đất Bắc, Minh triều đang mạnh. Chiêm Thành nhiều lần đánh phá kinh sư. Thượng hoàng sai tướng Nguyễn Đa Phương trấn giữ kinh đô rồi rước vua về Đông Ngàn lánh nạn.

 

Vị danh y Tuệ Tĩnh, năm mươi lăm tuổi, đang tu tại chùa Hải Triều làng Yên Trang. Mặc dù 10 năm về trước, nhà sư thi Đ́nh đỗ tới Hoàng giáp nhưng không ra làm quan. Sư say mê Phật sự, tạo dựng hằng chục ngôi chùa, hăng hái đi hết làng nọ tới làng kia chữa bệnh, âm thầm viết y văn để lại cho đời.

 

Tài chữa bệnh bằng thuốc nam của sư được tôn lên hàng thánh. Hằng trăm người nằm liệt giường, sư chữa xong, đứng bật dậy đi lại được. Hằng chục người bị cấm khẩu lâu ngày, sư châm cứu, cho uống thuốc, chỉ sau ba ngày là nói được. Có lắm trường hợp, người nhà khóc lóc chuẩn bị mộ phần, sư đến chữa bằng thảo dược, xông và cứu(2), người bệnh từ từ ngồi dậy được.

 

Y nghiệp của sư dựng nên không phải chỉ trong ngày một ngày hai. Mới 6 tuổi, mất cả cha lẫn mẹ, cậu bé mồ côi để chỏm ấy được vô chùa học chữ. Năm 10 tuổi, chú tiểu được các sư phụ đưa sang chùa Dũng Nhuệ, hăng say học sách thuốc và kinh kệ. Hai mươi hai tuổi, nhà sư trẻ đi thi Hương, đỗ nhất bảng. Tṛn ba mươi, sư quay về trú tŕ(3) chùa làng Yên Trang. Càng trưởng thành, tài năng chữa bệnh của sư càng phát huy. Y thuật của sư thực chất là y đạo. Sư dành trọn thời gian để chữa bệnh cho dân, chẳng bao giờ nghĩ tới bạc tiền. Tên tuổi của sư lan truyền đến tận kinh sư(4) và nước Đại Minh bên đất Bắc.

 

Bỗng có tin nhà sư phải đi xa không rơ đến lúc nào được quay về, chuyến đi không hẹn ngày về, dân trong phủ nghe thế rất đỗi ngậm ngùi. Ai cũng tiếc đến rơi lệ, v́ quê hương từ nay khuyết đi một nhân tài.

 

Trời đang tiết thanh minh.

 

Rời khỏi cái cười hả hê của phú ông, Bờm chạy thẳng một mạch về tới cổng chùa. Sân chùa đông hơn mọi lúc. Dường như mọi người đang t́m đến để được gặp sư phụ lần cuối cùng. Lăo Bộc từ bên gốc cây đa bước ra, chặn đường lại hỏi:

 

- Này, Bờm! Ngươi đi đâu năy giờ? Sư phụ hỏi ngươi tới hai bận mà ta chẳng biết trả lời sao!

 

Đằng sau cánh cửa tăng pḥng đang khép hờ, vị thánh y đang ung dung ngồi trên tấm chiếu trải rộng. Nhà sư lúc nào cũng như đang hành thiền. Khi chú tiểu Bờm đứng ngấp nghé ở cửa, trên tấm chiếu ấy đang có thêm nhiều vị khách. Nh́n cách ăn vận, có thể đoán họ không phải là những người quyền cao chức trọng ǵ. Hầu hết họ là những người dân dă trong làng.

 

Có tiếng thưa rằng xin ngài cáo bệnh đừng đi. Lại có ai đó bảo rằng sư phụ là người của làng, của phủ, sư phụ ra đi th́ hằng trăm người bệnh biết nương tựa vào ai. Lại có người vừa khóc vừa thưa: “Chúng con biết sư phụ chẳng bao giờ nhận tiền nhận bạc. Nhưng đây chỉ là chút ít để đi đường. Nếu sư phụ không chịu nhận, hằng trăm người dân trong phủ sẽ mất ăn mất ngủ v́ âu lo.” Ông Cửu Dượng, ông Tám Sài, ông Bảy Hói cũng hết lời năn nỉ v́ đường từ đây sang tận nước Đại Minh đâu phải thuận lợi ǵ.

 

Sắp bước sang giờ Ngọ.

 

Tiểu Nho và tiểu Phụng được lệnh theo thầy. Thằng Bờm chen chân măi mà vẫn không lại gần được v́ chung quanh quá đông, lớp trước, lớp sau nườm nượp. Khi đoàn sư săi ra tới bờ sông, thiên hạ tề tựu đông gấp mấy trăm lần. Hàng hàng lớp lớp môn đồ của thầy Tuệ Tĩnh tại 24 tăng y xá(5) đă tề chỉnh đứng chờ. Các sư bên chùa Giao Thủy ở tận hạt Sơn Nam cũng sang đưa tiễn. Bà con làng Yên Trang và các làng kế cận đều có mặt. Người ta đứng sát rạt bên nhau, từ rặng tre dọc đường làng cho đến mép sông

 

Nhưng hầu như tất cả đều im lặng.

 

Sư Tuệ Tĩnh vận thường phục, tiểu Nho và tiểu Phụng gánh hành lư theo sau. Ông Cửu, ông Tám, ông Bảy, mỗi người mỗi túi vải cùng theo chân bước lên thuyền. Chiếc thuyền tṛng trành nhẹ. Người lái thuyền nghe đâu là một người cùng quê với sư phụ, làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai. Ba vị bô lăo khỏe mạnh ấy được sư phụ cho phép đi theo tiễn chân, cho đến khi gặp được mười chín vị tăng nhân khác tại Ải Nam quan để rời Đại Việt.

 

Người ta thấy một chú tiểu vẻ mặt vừa ngây ngô vừa sầu thảm lao xuống mạn thuyền. Nước sông bắn tung tóe, những người bùi ngùi đứng sững nơi mép nước đều bị ướt. Người chú tiểu ướt đầm đ́a. Hai người phụ nữ đứng cạnh đó trờ người tới, họ quàng tay giữ chú lại, một người nói to:

 

- Bờm ơi! Đừng làm thế. Chú phải b́nh tĩnh, không được khóc!

 

Nhưng vô ích. Bờm khóc rống lên:

 

- Sư phụ. Ngài đừng đi!

 

Vị sư phụ cảm thấy ḷng xốn xang. Ngài đứng hẳn lên ở một nơi rất cao giữa khoang thuyền. Nắng trên đầu ngài vô cùng rực rỡ.

 

Bạch hạc ơi!

Bạch hạc bay đi

biết bao giờ quay trở lại

Ḍng sông quê nhà

ṃn mỏi ngóng trông!

 

Thần tiên! Thần tiên!

Cốt cách thần tiên

bạch hạc xây tổ nơi làng Yên Trang

bạch hạc xây tổ ở trời Nam

rồi sẽ bay đi biền biệt

 

Sao bầu trời không u ám hẳn đi

Sao khoảng không kia chẳng tối mịt hẳn đi

Bày chi những tia sáng ngập trời

Để phải nh́n nhau qua ḍng nước mắt!

 

Với đôi bàn tay ấm áp đặt lên vai chú tiểu, vị sư ân cần nói:

 

- Này Thiện Minh! Hăy nghe lời sư phụ. Đừng để tâm ḿnh bi lụy. Dù ở bên Đại Minh hay ở Đại Việt, trong ḷng ta lúc nào cũng nghĩ tới con và nghĩ tới mọi người.

 

Nghe gọi tới pháp danh của ḿnh, Bờm tỏ ra vô cùng ngoan ngoăn. Cậu bé lễ phép đứng lên, hai bàn tay bẩn của cậu chụm lại như búp hoa sen ngay trước ngực. Nước mắt đă ráo hoảnh, cậu thưa:

 

- Bạch sư phụ. Tại sao sư phụ phải ra đi?

 

Vị thầy từ tốn đáp:

 

- Con ạ. Có lệnh của triều đ́nh. Triều đ́nh cũng bất đắc dĩ phải cống nạp hai mươi tăng nhân sang Bắc địa(7). Ở bên ấy người ta đang cần tạo dựng các đạo tràng, củng cố nền đạo đức nơi xă tắc. Đây là một việc cần cho sự bang giao lâu dài của hai nước, con hiểu chưa?

 

Thằng Bờm hiểu không th́ chẳng ai biết được, nhưng mọi người vừa lau nước mắt, vừa ngậm ngùi. Chú tiểu Thiện Minh ôm chầm lấy vị thầy tu trụ tŕ chùa Hải Triều. Toàn bộ áo xống sũng nước bẩn của chú thấm cả sang người sư phụ.

 

Mặt trời trên cao tỏa ánh nắng hừng hực. Đă quá giờ xoải cánh, nhưng cơi ḷng bạch hạc vẫn không nrời quê hương.

 

 

2.

 

Câu chuyện đến đấy chưa khép lại. Người dân phủ Thượng Hồng và ngay cả tại kinh sư đều không ngớt truyền tụng hai câu thơ nhắc tới cụ:

 

Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa
Thánh sư diệu dược trấn Nam bang.

 

Tạm dịch là:

 

Thi đỗ hoàng giáp tiếng lừng Đại Minh
Thuốc Tiên  thầy Thánh tài vang Đại Việt(8).

 

Hai bộ sách thuốc đồ sộ của cụ Tuệ Tĩnh là Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm đă được nâng niu, trân trọng trong một thời gian dài. Đông đảo lương y nhiều thế hệ, nhờ kế thừa phương cách trị liệu của cụ, đă cứu được dân vượt qua nhiều vụ dịch lớn.

 

Nhưng năm tháng chất chồng lên năm tháng. Không ai biết được cụ đă sống ở đâu, làm ǵ bên nước Đại Minh. Cũng không ai hiểu được cụ có thường ngẩn ngơ nhớ tới ngôi làng mộc mạc mà nặng t́nh nặng nghĩa này chăng. Những đứa trẻ ngây thơ như thằng Bờm, thằng Cù, cái Nhớn, cái Minh lần lượt lớn lên, già đi, rồi qua đời. Dù mọi người suốt đời kính cẩn, trọng vọng và thương nhớ cụ, dù nhiều người không ngớt nghĩ về vị ân nhân cứu mạng của ḿnh, th́ thời gian vô t́nh vẫn cứ dần dà khỏa lấp đi tất cả.

 

Bạch hạc ơi!

Bạch hạc bay đi

biết bao giờ quay trở lại

Ḍng sông quê nhà

ṃn mỏi ngóng trông!

 

Ngót ba thế kỷ kể từ khi cuộc chia ly bùi ngùi ấy ch́m dần vào quên lăng. Một buổi xế chiều. Trời đang tiết cốc vũ. Mưa như rải bụi trắng giữa bầu trời Giang Nam. Cỗ xe hai ngựa của Hữu Thị lang Nguyễn Danh Nho đang lóc cóc đi trên một con đường đất gồ ghề. Hai bên mé đường là nghĩa trang đ́u hiu, vắng vẻ. Bỗng đâu một cánh hạc trắng vụt bay vẩn vơ giữa không gian u tịch. Hạc lẻ loi lượn lờ quanh bầu trời rồi nhẹ nhàng đậu lên mái khung xe. Nó vừa đậu tại đó, vừa vỗ cánh đành đành.

 

 

Vị đại quan vén rèm, nghiêng người ngước mặt ngạc nhiên. Sau khi cho quân hầu dừng xe lại, ngài khẽ bảo:

 

- Các vị. Tại sao con hạc ấy không chịu bay đi mà lại vỗ cánh kỳ lạ thế? Ta linh cảm có điều ǵ rất lạ!

 

Dường như vừa nghe tới đó, hạc tung cánh bay lên, lượn đôi ṿng rồi nghiêng đôi cánh mỏng khẽ đậu lên một nấm mộ bên đường. Đó là một ngôi mộ cổ, khá khác biệt so với nhiều ngôi mộ xung quanh. Ngay giữa mộ là một cái tháp cao, đầy rêu phong. Kiến trúc của tháp y hệt như những ngôi tháp lục giác bảy tầng mà ngài thường trông thấy nơi các ngôi chùa ở quê ḿnh. Hai bên tả hữu của tháp là hai cây sứ trắng cao lêu nghêu đang độ ra hoa. Phía sau ngôi tháp là một cây đa lớn. Ngôi mộ hướng đầu về phương Nam.

 

Lại gần, Hữu Thị lang nghe thoang thoảng mùi hoa sứ thơm tho xen giữa mùi đất ẩm ướt. Chợt ánh mắt ngài dừng lại nơi tấm bia trước mộ. Đây là một tấm bia đá cũng hết sức khác lạ so với những tấm c̣n lại trong nghĩa trang. Đỉnh bia tṛn. Đế vuông. Nơi hoa văn viền quanh có nhiều h́nh hạc. Chữ khắc khá công phu, nhưng nhiều chỗ đă nḥe đi. Vị đại quan cùng hai người hầu cận trố mắt đọc.

 

Ông hết sức ngạc nhiên. Người nằm dưới mộ là thiền sư Tuệ Tĩnh, người làng Nghĩa Phú đồng hương với ông. Thiền sư đă từng nhậm chức tại Thái y viện triều Minh, từng chữa bệnh cho Tống thị, một trong các bà vợ của Minh Thái tổ. Nhà sư đă được Thái tổ Cao hoàng đế tôn lên hàng Đại y. Sư đă lặng lẽ qua đời khi tuổi già sức yếu, tại đây, nơi mảnh đất Giang Nam này.

 

Nguyễn tiên sinh ứa nước mắt nói:

 

- Này hai vị. Thật là hy hữu! Ta không ngờ có ngày được gặp vị tiền bối lỗi lạc và đức độ ấy ngay tại đây, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt như thế này. Th́ ra, kể từ khi xa quê, vị Thánh y vẫn không thôi nhớ về quê hương. Di nguyện của cụ tha thiết quá.

 

- Dạ, quả đúng như vậy. Người đồng hành tóc hoa râm nói, nếu được, chúng ta hăy di dời hài cốt của cụ về quê, ư quan lớn thế nào?

 

Vị thị lang trang trọng đứng chắp tay ngay trước mộ phần. Gương mặt ông vô cùng ưu tư. Hai người đồng hành nghe giọng ông trầm đi trong gió:

 

- Ta rất thiết tha với điều đó. Nhưng ngôi mộ cổ đă “kết” yên ổn tại đây gần ba trăm năm. Mộ lại xây thật kiên cố. Dân địa phương vô cùng ngưỡng mộ cụ. Làm sao họ có thể đồng ư cho di dời được? Nhưng việc chúng ta có thể làm là ở lại đây vài ngày, thuê thợ Giang Nam dùng đá tại đây khắc ngay tấm bia, mang di nguyện của vị Thánh y về nước.

 

Nói đoạn, Hữu Thị lang lâm râm khấn:

 

- Kính bạch cụ! Con là Nguyễn Danh Nho, người cùng quê với cụ. Con vô cùng cảm động khi hiểu được tâm nguyện của cụ lúc nằm xuống tại đây. Xin cụ hăy phù hộ để chúng con hoàn thành tấm bia đá và đem về thờ tại làng Nghĩa Phú, quê nhà của cụ. Đó là ước nguyện của chúng con.

 

Lời khấn nguyện vừa dứt th́ ào một tiếng, hằng ngàn giọt mưa hối hả dội xuống đầu ba người như cố níu chân cả ba ở lại bên ngôi mộ. Hữu Thị lang liền sai quân hầu che chắn một chỗ đơn sơ bên mộ để tá túc. Tảng sáng, khi trời c̣n mù sương, ngài đích thân sao lục văn bia một cách cẩn thận rồi thúc giục mọi người nhanh chóng t́m thợ thầy để lo việc làm bia.

  

Vị Thị lang quả là một người đầy nhiệt tâm và tận tụy. Ông thận trọng theo dơi từng chi tiết khắc đẽo, cho sửa đi chữa lại tới khi nào thật hoàn hảo mới thôi. Người thợ lăo luyện đất Giang Nam phải thức trắng bốn đêm liền để hoàn thành công việc.

 

Bia được chở về quê bằng đường bộ trên cỗ xe song mă của vị Thị lang, sau đó tiếp tục đi đường thủy trên một chiếc thuyền. Ba người ngày đi đêm nghỉ. Phải mất tới sáu ngày năm đêm thuyền mới về tới khúc sông rộng nằm giữa Văn Thai và Nghĩa Phú. Trời đang quang, mây đang tạnh. Vậy mà bỗng dưng giông gió nổi lên. Hai người hầu cố loay hoay măi mà không chèo chống được ǵ. Hữu thị lang phải cho thuê năm thanh niên lực lưỡng h́ hà h́ hục măi mới khiêng được bia lên bờ.

 

Ngó đi ngó lại, đây quả là một nơi có địa cục rất tốt. Mặt đất cao ráo, bằng phẳng. Chung quanh là đồi thông và rặng liễu. Tiếp liền sau đó là một lũy tre xanh mướt mắt. Bên bờ sông là một lối đi khá rộng, cỏ mượt mà mọc tràn ra hai bên.

 

- Đắc địa rồi! Vị Thị lang vừa chắp hai bàn tay lên trước ngực, vừa nói như reo.

 

Vị đại quan sai người báo với vị già làng về ư định của ḿnh. Cũng may mọi chuyện suôn sẻ. Ba tuần sau, một ngôi đền được cất lên hướng mặt ra bờ sông.

 

Trên văn bia, di nguyện của Đại y thiền sư được khắc đẽo rất rành rọt:

 

“Về sau, có ai bên nước nhà sang, nhớ cho hài cốt tôi về với!”

 

Dân làng Cẩm Văn ngậm ngùi nhớ tới vị thần y c̣n lưu truyền trong sử sách, họ cử người ngày đêm nhang khói. Đền được gọi là đền Bia. Con bạch hạc chẳng bao giờ quên đất tổ.

 

Thần tiên! Thần tiên!

Cốt cách thần tiên

Bạch hạc xây tổ ở trời Nam

Thần tiên! Thần tiên!

Cốt cách thần tiên...

 

 

 

Trần Như Luận, YKH 14

Quy Nhơn. Jan 2014

 

                                   

(1) Về sau bị bác là Thượng hoàng phế truất, nên sử sách gọi là Trần Phế Đế.

(2) Dùng ngải nhung quấn thành điếu, đốt rồi hơ trên huyệt.

(3) T cổ, nay gọi là trụ tŕ.

(4) T cổ, chỉ kinh đô Thăng Long.

(5) Những túp lều tranh tre do thầy Tuệ Tĩnh cho người dựng lên trên đất của chùa để chữa bệnh cho dân nghèo.

(7) T cổ, chỉ Trung Hoa

(8) Lời dịch của tác giả (TNL)

 

Mục Lục 99Độ                       Trang Nhà YKHHN