Xin mời quư Anh Chị Em đọc “Chuyện Đi Tây” của tác giả Bs. Lê Đ́nh Thương, Chủ Tịch Hội YKH Hải Ngoại, để hiểu thêm chuyến du lịch thật sự xẩy ra như thế nào, và nguyên nhân đơn giản v́ sao cuối cùng gia đ́nh anh lại dời qua Mỹ sinh sống rồi hành nghề tại New Jersey. Đây là một câu chuyện thuộc loại “cột đèn cũng phải vượt biên” sau 30 tháng 4, 1975.
Trong bài viết, quư bạn c̣n t́m thấy vài tấm h́nh từ năm 2001, rất quư báu với những khuôn mặt c̣n trẻ măng và nụ cười rất tươi, trong đó có quư Thầy Cô Nguyễn Văn Tự, Thầy Đinh Văn Tùng (RIP) và Cô, Thầy Nguyễn Văn Vĩnh (RIP) và Cô, quư Anh Chị: Lê Đ́nh Thương, #1, Lê Quốc Bảo, #1,Tôn Thất Viên, #1, Nguyễn Văn Thuận (RIP), #1 và Chị, Vơ Văn Cầu, #2, Anh và Chị Tạ Quang Hát (đều RIP),#2, Hậu Mạc Sửu, # 1, Nguyễn Văn Bách , #5, Hoàng Anh Tuấn, #5, Vũ Văn Trọng, #8, Và…
Khi đăng bài này với những tường thuật và h́nh ảnh của Đại Hội Y Sĩ VN tại Hoa Kỳ tổ chức trong năm 2001 tại New Jersey, BBT muốn nhắc nhở BCH Hội YKHHN cần phải có một Đại Hội cho chúng ta trong năm 2025 này.
BBT Hội YKH Hải Ngoại trân trọng cám ơn Bác sĩ Lê Đ́nh Thương.
Nhân Kỳ Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Tại Paris 2000
Chuyện Đi Tây
LDT
Thời xa xưa tôi đọc chuyện "Đi Tây của Nhất Linh mấy lượt, thích cái trào phúng của một tác giả tôi luôn khâm phục. Từ bé bố mẹ cho tôi theo học trường tây, chữ nghĩa quốc ngữ không được mấy, nhiều lần làm tṛ cười cho bạn bè. Nhất là anh bạn "Già Thuận” nói tôi “đă không biết chữ mà đ̣i dùng chữ”!
Vâng, oái ăm thật. Chương tŕnh trung học tôi dùng toàn tiếng Pháp. Tôi được phép chọn 2 sinh ngữ là Anh văn và Việt văn, mỗi tuần hai giờ. Cha Bính, người dạy lớp Việt Văn, cứ mỗi lần bực ḿnh khi đọc bài vở lai căn của chúng tôi, thường hay mắng: tụi bây là Việt gian. Tôi không quên ông hay đọc truyện Tiêu Sơn Tráng Sĩ trong lớp, nhắc khéo chúng tôi đừng quên Tây là thực dân. Vâng, con xin cám ơn Cha. Nhờ Cha mà nhiều đứa bạn tôi sau này làm báo, viết văn khá chững chạc như Bùi Xuân Quang, Nguyễn Xuân Hồng là những bạn sinh sống ở Pháp bao nhiêu năm trường. Nhờ Cha mà tôi cũng quyết tâm xử dụng tiếng mẹ đẻ cho ra hồn, cũng rặn ra được vài bài thơ lục bát. Nhưng tôi vẫn biết ḿnh c̣n yếu lắm. Nhiều lúc đang làm việc, sực nhớ một từ ngữ, gọi điện thoại để hỏi anh BS Lê văn Lân, người có vốn văn chương vô cùng sâu rộng. May là lúc đó anh làm cho Sở Y Tế Tiểu Bang NJ, tương đối nhàn rỗi.
Trở lại chuyện Đi Tây, thực ra đó cũng là một ước mơ của tôi, hồi đó nó xa vời quá. Cuối năm 1959, tôi ra bến tàu Sàig̣n tiễn đưa người bạn thân Nguyễn Xuân Hồng đi Paris học mà ḷng xốn xang. Bà thầy bói đă nói tôi chưa có số xuất ngoại mà. Lủi thủi về Đại học Khoa học Saigon theo lớp PCB. Năm sau, lại tiển thêm một bạn thân khác là Hà Thúc Đạt đi Le Havre học về hàng hải. Hai đứa nó gặp nhau ở Paris, chụp h́nh gởi về có tháp Eiffel, h́nh vườn Luxembourg có kèm câu văn của Anatole France, làm tôi thêm tủi phận. Không hiểu khi ấy v́ ấm ức không đi Tây được hay v́ mới biết yêu mà tôi đă hỏng kỳ thi cuối năm PCB ở Saigon! Thôi đành thú thực: v́ ham chơi th́ đúng hơn. Vào Saigon học, tôi ở nhà người d́ ruột. D́ lấy Dược sư Hồ Đắc Ân cũng xuất thân Trường Dược ở Pháp, hồi đó có Viện Bào Chế tư đặt tên các thuốc đều có chữ AN ở cuối cùng như Eucalyptan, Algan, vv.. Trong nhà có người giúp việc là các xẩm, ngồi vào bàn ăn theo kiểu Tây, muỗng nĩa đàng hoàng. Dượng tôi tính t́nh phóng khoáng, con trai lớn HDK cùng tuổi với tôi, 2 đứa chơi thân lắm. Thỉnh thoảng dúi tiền vào túi con th́ cũng không quên dúi vào túi tôi, bảo: mấy đứa bây học nhiều rồi phải đi chơi "faire la bombe”, giải trí. Nhưng không bắt buộc lúc nào cũng giải trí lành mạnh đau. Thời ấy, một số gia đ́nh khá giả ở Sàig̣n sống mới mẻ như vậy, hơi tây một chút đấy, Con trai đang thời phong độ, không cần khuyến khích tụi tôi cũng đă quá trời rồi! Lúc đó, mấy đứa bạn trong nhóm em họ tôi, cứ lái xe toàn là MGA, Triumph TR3, MG Midget Sprite ...mà tôi lại là thằng mê xe, lúc ấy chỉ có chiếc Lambretta mua rẻ một ông già vừa mới thua bạc ở trường đua Phú Thọ. Rốt cuộc chơi hơi nhiều, học hơi ít. Mất đi một năm, ba mạ tôi điệu ngay về Huế để tham gia lớp PCB đầu tiên. Lúc ấy trường Y Khoa Huế mới ra ḷ. Thể là mộng đi Tây tan thành mây khói. Ngay cả sống như Tây cùng không c̣n; hết có báo Paris Match, Ciné Revue hàng tuần. Về nhà ngồi trên phản ăn cơm chén đũa quanh cái mâm đồng. Tự an ủi ḿnh: Ta về ta tắm ao ta. Cũng nhờ không khí trầm lặng ở Huế và nhóm bạn bè thân t́nh cùng nhau chia xẻ những khó khăn của một Đại Học Y Khoa buổi ban đầu nên bẵng đi một thời gian tôi không hoài vọng chuyện đi Tây nữa.
Khổ nổi, cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng!. Băo táp tháng tư đen 1975, trại tù cộng sản không biết sống chết ra sao, cho tới lúc liều lĩnh vượt biển, chỉ cầu xin đến bến tự do, tôi không hề nghĩ tới Tây hay Mỹ, Gia nă Đại hay Úc Châu cho đến khi may mắn cập vào đảo Pulau Bidong ở Mă Lai vào cuối tháng 4 năm 1979. Thời cao điểm nhất với dân số 40,000 trên ḥn đảo 1 dặm vuông này. Số thứ tự đến của chiếc tàu chúng tôi là 402. Lúc ấy trên đảo, người ta chỉ mới giải quyết cho đi hết tàu thứ 6 mà thôi. Vợ tôi lại mang bầu 3 tháng! Bối rối băn khoăn, chẳng biết làm sao. Thêm nữa, trong thân chẳng mang giấy tờ ǵ, chỉ có mảnh bằng Tú Tài Pháp mang theo v́ nghỉ nếu lỡ đi đường bị bắt, th́ giấy tờ ấy là ít tai hại nhất.
Thế rồi sau nhiều ngày theo dơi giờ giấc làm việc của phái đoàn Pháp trên đảo, một đêm khuya nọ, tôi đột kíck một đoàn viên trong phái đoàn. Dùng tiếng Pháp hay nhất của ḿnh, tôi chỉ xin anh ta cho tội 2 phút để tŕnh bày hoàn cảnh khó khăn của vợ tôi. Rằng, với văn hóa nhân bản của Pháp mà tôi đă bao năm theo học, tôi mong sao con tôi được sinh ra yên ổn ở trên đất Pháp tự do thay v́ ở nơi thiếu thốn khó khăn trên đảo tỵ nạn. Tôi c̣n chuồi mănh bằng duy nhất của tội kèm tấm giấy tên họ cả gia đ́nh tôi cho anh ta. Trời đất xui khiến, anh ta sinh ḷng cảm động thật sự và hứa sẽ giúp tôi.
Quả nhiên hai tuần sau tôi được kêu lên phỏng vấn, và chưa đầy hai tháng sau gia đ́nh tôi đă rời đảo Pulau Bidong qua Kuala Lumpur làm thủ tục đi Pháp. Thế là mộng đi Tây của tôi nay mới thành tựu, tuy trong bối cảnh hơi đau ḷng. Không phải đi du học, hay du lịch, mà là bỏ đất nước, bỏ lại cha mẹ già đi t́m đất dung thân. Cũng vào lúc ấy, vị đương kim Tổng Thống Pháp, Jacques Chirac, nguyên Thị Trưởng thành phố Paris, đang o bế cảm t́nh của dân Pháp đối với đám dân tỵ nạn người vượt biển gọi là boat people. Chuyển máy bay đưa nhóm 300 người tỵ nạn từ Kuala Lumpur đến Paris là do Ông Chirac thuê cho. Lúc máy bay đáp xuống phi trường Charles de Gaulle ngày 15 tháng 7 năm 1979, đích thân Ông Chirac ra đón, dĩ nhiên với phóng viên TV ầm ĩ. Không hiểu từ đâu có người chạy tới kéo tay tôi: anh vui ḷng đại diện cho cả nhóm nói vài câu với Ông Thị Trưởng đi! Thể là không những tôi được đặt chân tới đất Pháp, mà c̣n bắt tay Vị tổng thống tương lai của nước Pháp trước mặc đài truyền h́nh, báo chí. Bà d́ của vợ tôi ở Bordeaux đang xem TV chợt thấy mặt tôi: có phải Thương, chồng Túy đấy không? Bà hỏi chồng, BS Nguyễn Ngọc Giao. À, té ra tụi nó vượt biên thoát khỏi CS được rồi! Mấy bạn thân của tôi cũng nhờ đó biết tin, chạy đến Centre Debrousse đón chúng tôi. Nguyễn Xuân Hồng, Hà Thúc Đạt, trong bộ tứ chúng tôi thường hay gọi nhau là Les Mousquetaires, nay đúng là 20 năm sau mới gặp lại nhau như tiểu thuyết nhan đề " Vingt ans apres” của Văn hào Alexandra Dumas. Chỉ c̣n thiếu một tay là Vơ đ́nh Ngọc, đang trong lao tù cộng sản VN. Mặc dầu thoát hiểm, đến đất lành, gặp bạn thân, nhưng không hiểu sao Paris lúc đó không hấp dẫn như trong trí tưởng tượng của tôi thuở nào. Hà Thúc Đạt đón chúng tôi về nhà, khỏi ở trại tạm trú. Sophie, vợ Đạt, bà đầm tóc vàng chính cống, tuy mới quen, đă ân cần sốt sắng, vừa lo làm thủ tục giấy tờ, vừa đem đi xem Paris cho thỏa chí mấy mươi năm chờ mong.
Thất vọng đầu tiên; tôi đến nộp đơn tại Sở Y Tế để thi lại bằng hành nghề bị trễ ba ngày. Phải chờ 1 năm sau mới nộp lại được cho kỳ thi tới. Nhiều nhân vật ngay trong Bộ Y Tế cố gắng xoay sở cho cũng không thay đổi được guồng máy. Để an ủi, tôi được cấp giấy cho phép hành nghề y tá trong khi chờ đợi. Người ta giúp t́m việc cho tôi cũng nhanh và giúp thuê nhà ở Sceaux cách Paris độ 10 km. Mấy tháng đầu làm ở Bệnh Viện Bligny cách Paris 30 km, sáng sớm dậy 5 giờ sáng, lái xe mất 1 tiếng, bắt đầu ca lúc 6:30 sáng. Sau được về làm y tá Trưởng Viện Dưỡng Lăo Renaudin ở Sceaux, chỉ đi bộ về nhà. Phụ tá cho tôi th́ có 6 vị y tá và 1 bà xơ quản lư. Trên đầu chỉ có Bác sĩ Giám đốc, mỗi tháng xoẹt qua một lần. Tháng 9 năm 1979, thằng con út của tôi ra đời làm dân Tây nửa mùa.
Đời sống cũng tạm ổn định, với bốn đứa con, tiền trợ cấp gia đ́nh (allocation familiale) cũng gần bằng tiền lương. So với lương một bác sĩ mới vào nghề th́ lương tôi cũng không thua bao nhiêu. Biết tiếng Pháp cũng như văn hóa Pháp, chúng tôi không có khó khăn ǵ hoà ḿnh vào đời sống xă hội nầy. Tuy nhiên, h́nh như tôi không có th́ giờ hay nói đúng hơn, không có tâm trạng để đón nhận những món ăn tinh thần mà tôi hằng mong tưởng: thưởng thức những kho tàng nghệ thuật, văn hoá, kiến trúc của nước Pháp. Lái xe trong Paris ồn ào rộn rịp, tôi lại nhớ Saigon, đi xem các lâu đài vùng sông Loire, tôi lại nhớ các lăng tẩm ở Huế, ăn foie gras ở Toulouse tôi thấy không ngon bằng nem Huế, đi trên con đường lát đá cục thấy gồ ghề không bằng đường lát gạch ở làng tôi, bách bộ trên bờ sông Seine th́ ôi thôi làm sao bằng sông Hương thơ mộng của cố đô, muốn hát nhỏ bài Sous les ponts de Paris th́ lại văng vẳng tiếng ḥ Huế.
Vợ tôi cũng cùng một tâm trạng, nhân chuyện nộp đơn thi lại bị trễ năi, ngỏ ư muốn qua Mỹ sống. Với một lư do toán học dản dị: ở Pháp vợ tôi chỉ có một người em, ở Mỹ bà có tới 8. Đối với tôi lúc ấy ở đâu cũng là lưu lạc, cũng là tha hương. Mộng Đi Tây đă thành tựu mà tôi cũng tĩnh mộng. Thôi th́ Pháp cũng vậy, Mỹ cũng vậy. Chứ nếu không, giờ này tôi chắc đang h́ hục giúp các anh chị ở Paris tổ chức Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Kỳ III thay v́ đang lo sốt vó chuẩn bị cho Đại Hội Y Sĩ VN tại Hoa Kỳ năm 2001 tại New York.
Lê Đ́nh Thương
*** Nhân nhắc đến Đại hội Y sĩ VN tại Hoa-Kỳ năm 2001 tại NJ, xin thêm một chi tiết lịch sử: Là trưởng BTC, tôi may mắn tính sổ lời được 5,000 dollars, sau khi chia 1/2 cho Hội VAMA, c̣n lại tôi đăi BTC một chuyến dạo quanh NYC trên sông Hudson ăn tối trên thuyền Spirit of NJ, đúng vào đêm mồng 10 tháng 9 năm 2001.
Những h́nh ảnh chụp Twin Towers hôm đó coi như là h́nh ảnh cuối cùng để sáng mai 11 tháng 9 bị khủng bố phá sập, một thảm kịch nước Mỹ không bao giờ quên được!