Như bao thanh niên thanh nữ trong thời chiến có trách nhiệm với non sông chống giặc xâm lăng phương Bắc, Bs. Đồng Sĩ Nam, khóa 5 YKH, lên đường gia nhập Quân Y Trưng Tập Y Nha Dược khóa 14.

Mời quư ACE đọc bài "Đời Quân Ngũ" để hiểu thêm cách làm việc của một quân y sĩ tại một Liên Đoàn Quân Y phục vụ cho toàn bộ Quân Khu I. BS. Nam cũng gặp may mắn khi rời Đà Nẵng trong ngày cuối.

Do được cấp trên giao phó, Bs. Đồng Sĩ Nam có mặt tại hiện trường trao đổi tù binh 2 bên năm 1973. Dù ngắn, nhưng sự tường thuật của Bs. Nam rất thật. Khiến cá nhân Vĩnh Chánh nhớ ḿnh cũng tháp tùng một lần theo đoàn sinh viên vụ của Viện ĐH Huế ra tận sông Thạch Hăn để chào mừng và ủy lạo các tù binh VNCH do CS Bắc Việt trao trả. Cũng những sự việc xẩy ra y như trong tường thuật của Bs. Nam, nhưng hỡi ơi! Sau khi cả mấy trăm tù binh CS được phép lên thuyền vượt sông Thạch Hăn qua phía bờ Bắc, ngược lại chỉ có 1 quân nhân Miền Nam VN được thả về bờ Nam, nhưng phải khiêng lên bờ bằng cáng. Trước sự chất vấn của phái đoàn VNCH, bên kia cho biết danh sách hàng trăm tù binh VNCH bị bắt tại Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 sẽ được trao trả chỉ sau khi có cuộc ḥa đàm trực tiếp giữa các phe liên hệ với Pathet Lào. Thật là một lật lọng khó tin xẩy ra vào phút chót, cho thấy bản chất lừa dối, lưu manh của CS.

BBT vô cùng cám ơn Bs. Đồng Sĩ Nam và mong Bs. Nam tiếp tục sinh hoạt trong Mục 99 Độ.      

 

Đời Quân Ngũ

 

Sau lễ trình luận án, khóa 5 chúng tôi đã phải một người một ngã, phân tán khắp mọi phương trời miền Nam Việt Nam.

Ngoại trừ ba nữ bác sĩ được miễn dịch một số không ít nam bác sĩ được hoãn dịch hay miễn dịch vì lý do gia cảnh (có anh được hoãn dịch vì lý do trên 60 tuổi mà chúng tôi hay nói giỡn là không bị đi lính vì có vợ già trên 60. Anh ni phùng mang trợn mắt khi bị diễu như thế), bệnh tật. Thêm vào đó có khoảng vài bác sĩ xuất sắc được Trường giữ lại làm giảng nghiệm viên (corps ensegnant, cũng bị nói trại ra là corps caverneux). Số còn lại, xếp ống nghe theo việc kiếm cung.

 

Trước khi vào Saigon, chúng tôi ba đứa Trần Nhật Trí, Phan Xuân Tứ, Đồng Sĩ Nam, ghé Nha Trang dự lễ cưới của đôi uyên ương Tường-Minh vào ngày 27 tháng 12,1971.

 

Trường Quân Y, nằm trên đường Nguyễn Tri Phương, gần góc đường Trần Quốc Toản. Nguyễn Sĩ Đức (qua đời) và Nguyễn Cửu Sao thuê một căn gác trọ để tiện đi bộ qua trường. Một đám chúng tôi thường xuyên cưa mấy chai rượu ông Già nhức mỏi, vừa rẻ, vừa ngon, để giết thì giờ, chờ ngày mãn khoá.

 

Sau thời gian khoảng sáu tháng tham gia khoá huấn luyện hành chánh, đồng thời sau khi xong tập bẳn bia với 20 viên đạn, Y Nha Dược Sĩ khoá Trưng Tập 14 đã được làm lễ mãn khoá vào khoảng tháng Tám 1972, dưới sự chủ toạ của Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân. Kế đến,một buổi họp để chọn đơn vị. Y sĩ với khoảng 30 mạng đã được bổ nhiệm về các cơ sỡ quân y tùy theo thứ hạng, được sắp xếp theo kiến thức hành chánh hơn là nghề nghiệp. Trong số những bạn bè cùng khóa, thấy có Phan Tiên Thái, Phan Bá Em (qua đời) ghi danh về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế. Hà Nguyên Huýnh (qua đời) chọn bệnh viện Dã Chiến I, Quảng Ngãi. Tới người hạng 10 hay 11 là Đặng Tứ Đại chọn Liên Đoàn 71 Quân Y (LĐ71QY), Đà Nẵng (ĐN).Tôi hạng 12, thấy còn một chỗ ở LĐ71QY, nên thung thướng chọn ngay. Vừa về chỗ ngồi thì được ông Y Sĩ đại úy trưởng khoá huấn luỵện khóa 14 Trưng Tập cho biết tin tức nghe rụng rời tay chân. “Anh có biết LĐ71 QY ở đâu không? Hậu cứ ở Đà Nẵng nhưng các bác sĩ không được ở Đà Nẵng mà sẽ phải tăng phái đến các cơ sỡ trực thuộc Liên Đoàn, như y sĩ làm việc ở bộ tư lịnh tiền phương, Thiết kỵ, và bất cứ cơ sỡ nào cần y sĩ.

 

Tiếp tục việc chọn đơn vị, Nguyễn Sĩ Đức (qua đời) bạn này đậu thủ khoa kỳ thi lâm sàng và Trần Nhật Trí chọn Sư Doàn 1 Bộ Binh ở Gịa Lê, cách Huế 7 cây số. Có hai bạn thiệt ngầu là Big Minh (Nguyễn Văn Minh, người có anh làm lớn trong phủ tổng thống, nhưng muốn đi lính cho oai) chọn Nhảy Dù. Trương Minh Trừng (qua đời) chọn Thủy Quân Lục Chiến.

 

Sau khi nghỉ xã hơi vài ngày, ai nấy vội vã đi ra nhiệm sở, sợ bị phạt vì trễ hẹn thì đời sẽ không khá. Vào một ngày đẹp trời tháng Chín, Đặng Tứ Đại và kẻ hèn này đến trình diện tại hậu cứ Liên Đoàn QY 71, ngay trung tâm thành phố Đà Nẵng. Thiếu tá hành chánh niềm nờ chào hỏi, và ông ta điện thoại ngay cho chỉ huy trưởng Liên Đoàn 71, Y sĩ Trung Tá Bùi Thế Cầu, lúc đó đang đóng bản doanh tại bộ tư lệnh tiền phương Quân Đoàn I, ở Cửa Trài, Mang Cá Nhỏ, Huế.

Tức thì, qua máy nói vang lên một giọng oang oang: “Bảo chúng nó ra trình diện ngay”.

 

Thế rồi, sáng hôm sau, chúng tôi lên xe GMC trực chỉ Huế. Đến bộ chỉ huy liên đoàn một nhà hai tầng. Dưới là phòng chỉ huy, trên lầu là nơi ăn ở của y dược sĩ. Y sĩ Trung Tá Bùi Thế Cầu (Ông ta muốn được gọi là Trung Tá, chứ không anh em gì cả), không khách sáo chào hỏi, bắt ngay vào công việc “anh nào có kinh nghiệm về giải phẩu” Đại đưa tay lên , và được gởi ngay qua quân y viện Nguyễn Tri Phương nhận công tác. Còn anh này, qua bên lều ngoại chẩn chờ lịnh. Rồi không mất thì giờ, ông cúi đầu vào các văn thư, bỏ kẻ hèn này đứng ngẩn tò te. Một phần không biết lều ngoại chẩn ở đâu; không biết phải làm gì. Ông ta lại nói tiếp, không ngẫn đầu lên: ”sao còn chưa đi”. Ra ngoài, gặp một anh trung sĩ đưa tay lên chào; kẻ hèn vội lóng cóng chào lại, hỏi đường đi qua bịnh xá, khoảng vài trăm thước cách bộ chi huy. Vào đó gặp trung úy Y sĩ Trần Tuấn Phong (y sĩ hiện dịch, phục vụ ở liên đoàn cũng đã hai năm. Anh đã tham gia hành quân Lam Sơn 719 đánh qua Hạ Lào), vui vẻ chào hỏi, và bảo đừng để ý đến thái độ của liên đoàn trưởng. Có vậy mới sống lâu ở đây được.

 

Để cho quý vị dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày rõ ràng về hệ thống Quân Y Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Mỗi quân đoàn đều có 1 Liên Đoàn Quân Y (LĐQY) yểm trợ về y tế. Quân Đoàn I có LĐ1 QY, hoạt động theo hệ thống hàng ngang. LĐ1QY có bộ chỉ huy đóng tại Đà Nẵng. Đại Đội 712 trực thuộc LĐ với nhiệm vụ là chuyên môn tăng phái đến các đơn vị thuộc QĐ I không có cơ hữu y tế như Thiết kỵ, bịnh xá QĐ, hay đảm nhận công tác tăng phái tùy theo nhu cầu của Quân Đoàn. Ngoài ra LĐ1QY còn có các đơn vị trực tiếp điều hành bởi LĐ như Trung Tâm Hồi Lực, Bệnh Viện Dã Chiến, Bệnh Viện Tiểu Khu.

 

Cơ duyên nào không rõ nhưng Đại Đội 712 Quân Y đều do Y Khoa Huế chỉ huy. Lúc đó Đại đội trưởng là anh Nguyễn Tăng Miên, YKH3. Dưới trướng là Đặng Tứ Đại (YKH5), Đồng Sĩ Nam (YKH5), Vĩnh Chiến (YKH6), Lê Văn Chỉnh (YKH6). Bệnh Viện Dã Chiến 1 có anh Võ Văn Cầu (YKH2), Hà Nguyên Huýnh. Bệnh Viện Tiểu Khu Quảng Trị có anh Bùi Xuân Định (YKH2), Nguyễn Trung Trinh (YKH 2).

 

Khi ra nhiệm sỡ vào cuối tháng 9,1972, tình hình quân sự đã bớt sôi động. Vào khoảng 31 tháng 3, 1972, Bắc Việt phát động Chiến Dịch Nguyễn Huệ, xử dụng xe tăng, bộ binh, hổ trợ bỡi pháo binh hạng nặng, đồng loạt tấn công Kontum, An Lộc, Quảng Trị. Quảng Trị bị lung lay vì những cuộc tấn công vũ bão của Bắc Việt.

 

Vào cuối tháng 5, 1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lịnh thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm bằng Tướng Ngô Quang Trưởng làm tư lịnh quân đoàn I. Ngay sau khi nhận chức,Tướng Ngô Quang Trưởng đã trực tiếp chỉ huy trận đánh kéo dài 4 tháng rưởi, với sự tham dự của Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn 1, 3 Bộ Binh. Sau bốn ngày công hãm cổ thành, với 977 chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa tử thương,  và 8135 lính cọng sản “sinh Bắc tử Nam”, Tướng Ngô Quang Trưởng đã tái chiếm cổ thành Quảng Trị vào ngày 15 tháng 9, 1972 (4). Tuy nhiên, VNCH chỉ chiếm lại Cổ Thành và phần đất phía Nam sông Thạch Hãn.

 

        Ngồi ở lều vải bệnh xá, ngáp vắn ngáp dài được vài ngày thì có lịnh của Đại Tá Cầu gọi đi làm Dân Sự Vụ. Ngày nào, khoảng 8 giờ sáng là thầy trò khoảng 5 mống lên xe jeep cứu thương (biến chế để bỏ băng ca) đem thuốc men thông dụng đi làm công tác. Đi xa lắm cũng tới quận Phú Vang, vì những địa điểm khác, dân chưa hồi cư.

 

Mấy ngày đầu, khoảng buổi trưa là phái đoàn về lại Mang Cá Nhỏ. Thế là bị xếp xì nẹt, nói sao về sớm thế. Bảo là không có bệnh khám, xếp ra lịnh là 6 giờ chiều mới được về!! Thôi thì cứ theo lịnh mà làm.

 

Sau hơn ba tháng trấn thủ lưu đồn, kẻ hèn này được cho về hậu cứ Đà Nẵng. Thời thế cũng thay đổi. Đại Tá Cầu (thăng cấp) lên chức phó cục trưởng cục Quân Y, phụ tá Lục Quân. Y sĩ Đại Tá Bùi Thiều, Nhảy Dù, vừa mới du học Mỹ về (ông có bằng ECFMG nên khi qua Mỹ năm 1975, ông được ngay giấy phép hành nghề bác sĩ ở tiển bang Arkansas) lên làm Liên Đoàn Trưởng. Cuộc sống dưới chỉ huy mới thật là thoải mái. Kẻ hèn này sau khi đi thanh tra với Quân Đoàn ở các đơn vị công binh, tăng phái Thiết Kỵ, đã được cho tăng phái dài hạn ở Trung Tâm I Hồi Lực (TT1HL), Phước Tường, cách ĐN khoảng nửa giờ xe Honda.

 

         Ngày 27 tháng 1, 1973, Hiệp Định Paris được ký kết. Không ai bảo ai, nhưng người nào cũng ra vẻ vui mừng vì chiến tranh đã chấm dứt và dân Việt Nam lại có hòa bình.

Quán cà phê nào cũng bỏ bài Tôi Sẽ Đi Thăm (Trịnh Công Sơn)

 

Khi đất nước tôi thanh b́nh, tôi sẽ đi thăm,
tôi sẽ đi thăm, cầu gẫy v́ ḿn,
đi thăm hầm chông và mă tấu.
Khi đất nước tôi không c̣n giết nhau
Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường.

Hay là bài Một Mai Gỉa Từ Vũ Khí (Nhật Ngân)

 

Để có một ngày, có một ngày cho chúng ḿnh
Ta lại gặp ta, c̣n ṿng tay mở rộng thương mến bao la
Chuông chùa làng xa chiều lại vang
Bếp ai lên khói ấm t́nh thương
Bát cơm rau thắm mối t́nh quê
Có con trâu, có nương rau
Thiên đường này mơ ước bao l
âu

 

Ngày 29 tháng 3, 1973, Mỹ hoàn toàn rút khỏi Việt Nam. Ước mơ hoà bình quá ngắn, khoảng đầu tháng 4,1973, cọng sản lại tiếp tục mở nhiều trận giao tranh. Cùng lúc, chương trình trao trả tù binh được thi hành theo đúng hiệp định.

 

Vào khoảng đầu năm 1973, anh Bùi Xuân Định đang bị lưu vong ở Đà Nẵng, vì bệnh viện tiểu khu Quảng Trị (cơ hữu của Liên Đoàn 71 Quân Y) sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 đã phải di tản vô Phước Tường, Quảng Nam.

Cái kiếp chuyên nghề tăng phái nên Anh Định và kẻ hèn này được chỉ định đi trao trả tù binh bằng chiến hạm 500 Hải Quân VN. Lịnh lạc rõ ràng là QĐ I sẽ đảm nhân trách nhiệm giám sát trao trả tù binh cọng sản ra Bắc (trên biển, khoảng Quảng Bình), và trách nhiệm yễm trợ y tế đã sẽ do LĐ71QY phụ trách. Lúc đó là Y Sĩ Đại Tá Bùi Thiều chỉ thị cho ĐĐ 712 QY phải được huấn luyện để làm quen với sóng gió, cũng như săn sóc tù binh kỹ lưỡng cho đến khi họ được trả về Bắc. Anh Định thở vắn thở dài, không biết đi bao lâu, nguy hiểm ra sao. Lúc đó anh Định có mở phòng mạch rất đông khách ở An Hải. Đi công tác như vậy thì lỗ sở hụi quá.  

 

Hai anh em than thở, nào phải đi tàu ra Quảng Bình nguy hiểm, nào là bão tố (đang xảy ra lúc đó). Tuy nhiên, vì lý do nào đó chuyến trao trả tù binh đã bị đình hoãn. Thế là chúng tôi vui mừng trở về nhà.

 

Vào khoảng 12 tháng 3, 1973 cho đến tháng 4, 1973, có nhiều đợt trao trả tù binh được diễn ra ở Lộc Ninh và Quảng trị. Công tác yễm trợ y tế trong việc trả tù binh cọng sản đã chia làm nhiều đợt do nhiều toán luân phiên đảm trách. Khoảng thượng tuần tháng 3, 1973 kẻ hèn này lại nhận được lệnh đi theo nhóm quân y LĐ71QY yễm trợ y tế cho việc trao trả tù binh tại sông Thạch Hãn, Quảng Trị.

 

Lúc đó, tù binh cọng sản được di chuyển bằng máy bay C130 từ Phú Quốc tới căn cứ Evans (C-130 có thể hạ và cất cánh) trên quốc lộ 1, khoảng 24 cây số Tây Bắc Huế, Thừa Thiên, cách sông Thạch Hãn khoảng 18 cây số. Khi cánh quạt máy bay ngừng quay, từ lòng máy bay xuất hiện một đám nam tù binh, già có, trẻ có, ăn mặc đồ bà ba nâu. Nh̃ững cán binh cọng sản nắm tay nhau đi thành hàng, và được quân cảnh cầm súng hộ tống. Ngoài ra còn có một số người phải nằm trên băng ca vì không đi được!! Tại căn cứ Evans cũng có uỷ hội quốc tế kiểm soát đình chiến đi theo. Môt người trong uỷ hội hỏi tù binh có ai muốn ở lại miền Nam thì đứng riêng ra, và khỏi phải đi ra sông Thạch Hãn. Kẻ hèn này chứng kiến một vài tù binh già muốn xin ở lại, nhưng bị mấy tên khác nắm chặt tay họ lại.

 

Sau đó đám tù binh được di chuyển bằng xe GMC ra sông Thạch Hãn. Đứng bên ni sông nhìn qua bờ bên tê, mới thấy nghề tuyên truyền của cọng sản. Họ cho dựng lều trại màu sắc rực rỡ, trên thảm cỏ xanh mướt. Loa phóng thanh bỏ nhạc tuyền truyền với âm thanh tối đa. Trong khi đó, phía VNCH thì lều vải xanh lá cây đơn giản. Không thấy loa liếc chi cả.

 

Ra tới sông Thạch Hãn là nhiệm vụ của kẻ hèn này được chấm dứt, vì có toán y tế khác tiếp tục công tác.

 

Tôi trong bộ quần áo nhà binh màu xanh olive vừa trên xe cứu thương bước xuống, giật mình thì thấy từ xe jeep bít bùng bên cạnh, bước ra một tên mặc quân phục màu cứt ngựa, đội nón cối. Ký ức của Tết Mậu Thân lại hiện về. Thì ra đó là một tên cọng sản trong ủy ban Bốn Bên. Hai bên nhìn nhau nhưng chẳng ai chào hỏi ai.

 

Tù binh cọng sản được đưa qua bãi đất trống trước khi xuống dốc để lên ca nô đi qua bờ bên kia. Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình chiến (UHQTKSĐC) lại gần đám tù binh, theo sau là nhân sự trong Ủy Ban Bốn Bên. Một nhân viên trong ủy hội hỏi tù binh có ai muốn ở lại miền Nam thì đứng riêng ra. Một vài người đồng ý ở lại. Trong số đó có một người tóc đã bạc tâm sự rằng tui ở trong Nam, bây giờ trả tui ra ngoài Bắc thì tui sẽ ra sao. Đám tù binh còn lại cỗi hết đồ đang mặc trên người ra, chỉ còn lại quần xà lỏn, nhảy lên mấy chiếc canô. Hai người trên băng ca thì vẫn giữ nguyên tư thế nằm dài bất động.

Xuống tới canô có cắm cờ VNCH, đám tù binh vẫn im lặng. Tuy nhiên, khi xà lan ra tới nửa sông thì lúc đó mới là show time. Họ hô khẩu hiệu hoan hô hcm, đả đảo VNCH. Cáng băng ca bây giờ đã biến thành hai cột giăng biểu ngữ hoan hô, đả đảo. Thì ra mấy tên giă bộ nằm liệt trên băng ca là để giấu biểu ngữ.

 

Nguồn tin thông thạo cho biết ngay sau khi được thả, tù binh CS đã được tái huấn luyện tại chỗ, và trở lại nhiệm vụ tác chiến.

Trong khi đó, phía cọng sản lại trả tù binh VNCH phần lớn là địa phương quân, nghĩa quân. Gia đình của họ đang ở vùng cọng sản chiếm đóng (phía bên kia sông Thạch Hãn thuộc quyền kiểm soát của cọng sản). Khi tù binh VNCH được đưa xuống bến đò để sang sông, vợ con họ đứng khóc rên ẻo on là: En ơi, vợ con, nhà cửa ở đây mà en về bên nớ làm chi. Kết qủa là nhiều tù binh VNCH xin ở lại. Tội nghiệp thì thôi, cọng sản có khoan dung, nhân đạo với ai. Những tù binh đó cũng chẳng có cơ hội trở lại sống với gia đình.

 

Tôi có anh bạn, bác sĩ quân y, bị cọng sản bắt tại Quáng Trị năm 1972. Anh được thả tại sông Thạch Hãn năm 1973. Trở lại phục vụ trong quân y VNCH, và hành nghề thỏai mái, sung túc cho đến năm 1975 lại đi tù cọng sản.

 

Từ cuối tháng 4,1973 trở đi, tình hình miền Nam càng ngày càng trở nên tồi tệ. Không khí im lặng làm tinh thần mọi người căng thẳng. VNCH tung ra những đợt tấn công với chống trả không hăng say của cọng sản. Thì ra, cs đã cân nhắc tiềm năng quân sự của VNCH. Thấy rằng Mỹ có thái độ dững dưng và hững hờ, tướng cs Văn Tiến Dũng (VTD) bổ sung, tăng cường quân số, thêm nhiều sư đoàn chính quy và trừ bị củng cố thiết kỵ, pháo binh đã thuyết phục bộ chính trị cs ở Hà Nội để bắt đầu các cuộc tấn công lớn vào VNCH. Trong khi đó, VNCH lại không được viện trợ, thêm vũ khí chiến tranh theo nguyên tắc một đổi một. Theo nhân định, vào khoảng đầu năm 1975, tương quan quân số là 1 của VNCH trong khi cs có lực lượng gấp đôi. Về pháo binh thì 1 của VNCH so với 6 của cs.

Thế rồi, chuyện gì đến phải đến. Sau khi phải cầm cự với vũ khí và quân số ít ỏi, tỉnh Phước Long, khoảng 124 cây số đông bắc Saigon đã bị thất thủ. Kế đến, ngày 1 tháng 3, 1975 cs cắt đứt quốc lộ 14 và 19, nối Tây Nguyên với vùng duyên hải. Một cuộc tháo chạy vô trật tự xảy ra khi dân chúng và binh lính VNCH tìm cách vượt thoát khỏi vùng cao nguyên. Ngày 18 tháng 3, 1975, Ban Mê Thuộc bị lọt vào tay cọng quân.

 

Trong khi đó, ở vùng I chiến thuật, ngày 8 tháng 3, 1975, cs mỡ cuộc tấn công lấy lại Quảng trị, và sau đó, tiến về Phong Diền uy hiếp Huế. Ngày 12 tháng 3,1975, tổng thống Thiệu ra lệnh rút quân Nhảy Dù từ DN vào Saigon cũng như chuyển Thủy Quân Lục Chiến từ Quảng Trị vào để tử thủ bảo vệ ĐN với sự bất bình thụ động của tướng Trưởng.  

 

Ngày 24 tháng 3, 1975, tướng Trưởng ra lịnh bỏ Huế. Tnh Thừa Thiên bị mất ngày 25 tháng 3, 1975.Trong lần rút quân từ Huế vô ĐN bằng đường bộ qua đèo Hải Vân, bằng đường biển qua bãi Thuân An, Huế. Theo thống kê, ngày 27 tháng 3, 1975 ở ĐN, số dân tỵ nạn lến đến 1 triêu người. Cũng vào ngày đó, thủ tướng Khiêm ra lệnh Air Vietnam ngưng các chuyến bay dân sư cất cánh từ ĐN, và xử dụng máy bay để di tản thường dân.

 

Trong lúc tình thế lộn xộn, kẻ hẻn này sau khi nghỉ phép lại từ Saigon bay ra ĐN vào ngày 23 tháng 3, 1975. Lên Trung Tâm 1 Hồi Lực thì thấy ai nấy băn hăn, bó hó, không biết nên làm gì. Phần lớn y, nha, dược sĩ đều từ trong Nam ra nhiệm sở ở ĐN. Lúc đó, tướng Trưởng ra lệnh cắm trại 100% , và thông cáo sẽ tử thủ để bảo vệ ĐN. Đến ngày 25 tháng 3, khi Huế thất thủ, kẻ hèn này có ông anh ruột vì tuân theo lệnh tử thủ của tỉnh trưởng , đã không dám rời bỏ nhiệm sở, trong lúc các ông lớn đều cao bay chạy xa hết rồi. Rút cuộc, anh ấy bị bắt ở bãi Thuận An , đi tù 7 năm.

 

Ngày 26 tháng 3, 1975, sau khi nghe tin ông anh bị bắt do một người bạn kể, kẻ hèn này bèn đánh trò du lu, và khuyên đồng bạn nên tìm đường tẩu thoát , chứ đừng nghe lịnh tử thủ mà ở lại TTHL thì tàn đời. ĐN bấy giờ là một thành phố hỗn loạn. nghe tiếng súng nỗ đầy đường, lính tráng không ai chỉ huy nên đi hôi của cùng với dân thầu đâu. Sau khi đưa một số bà con lên máy bay trong chuyến chót của Air Vietnam ngày 26 tháng 3, 1975, sáng 29 tháng 3, kẻ này lại tháp tùng một nhóm khác để đi tàu Đồng Nai vào Nam. Khi lên tàu, thấy còn dư chỗ, nên vội vàng quay trở lại ĐN để đón giúp nhiều người đang còn kẹt. Cô em con ông cậu và kẻ hèn này thuê ghe ra tới Tiên Sa. Hởi ôi, không thấy bóng dáng tàu Đồng Nai đâu cả. Thẩn thờ, hai anh em đành quay về lại ĐN.

 

Thẩn thờ chậm chạp bước đi trên đường Bạch Đằng đang tràn ngập không biết bao nhiêu là người, tay xách, tay mang, vừa đi vừa chạy dáo dác, chỉ còn biết niệm Quán Thế  Âm Bồ Tát.

 

Không biết là nhờ phép mầu hay sao mà chúng tôi lại gặp một anh bạn cũng khá thân lúc ở ĐN. Anh ấy hỏi sao còn ở đây. Phải thú thật với anh là mình mới đi hụt tàu Đồng Nai. Anh ấy liền nói đi theo moi . Hỏi ra mới biết anh ta cùng với người anh đều là sĩ quan quân cảnh . Họ sắp hộ tống một gia đính thương gia Hoa Kiều thuê ghe đi từ ĐN vào Saigon. Anh ta sẽ thuyết phục ông xì thẩu là ghe còn rộng chỗ, con dâu của ông bị yếu tim, cũng như chị anh bạn đang mang thai gần sinh nên cần bác sĩ đi theo. Thế là chiều 29 tháng 3, anh em chúng tôi tháp tùng theo gia đình ông xì thẩu cũng như gia đình anh bạn khoảng mười mấy người di chuyển ra sông Hàn bằng xe vận tải lớn. Quang cảnh thật hãi hùng với tiếng súng nỗ không ngừng do nhóm kiêu binh cầm súng, vừa bắn chỉ thiên, vừa uy hiếp dân chúng để cướp tiền của.

 

Xe thả chúng tôi xuống bến sông Hàn, cách trường Sao Mai và viện Cể Chàm khoảng 500 thước. Theo lời đặn, khoảng 8 giờ tối, sẽ có ghe đến đón và đưa qua bên kia sông để chuyển qua ghe lớn.

 

Bắt đầu từ trưa ngày 29 tháng 3, nghe tin có xà lan chở người từ ĐN qua Tiên Sa để đi vào Nam bằng tàu hải quân nên thiên hạ ùn ùn kéo nhau ra bãi xà lan ở sông Hàn, gần trường Sao Mai và Viện Cổ Chàm. Với số đông chen lấn, đạp nhau để lên xà lan, nhiều người bị thương tích do dẫm vào nhau, cũng như do bị nghiền kẹp bỡi mõm tàu. Trong lúc chờ ghe tới, thật đau lòng phải nhìn cảnh tượng thương tâm xảy ra cách chỗ chờ không xa bao nhiêu, từ chạng vạng cho đến nửa khuya. Trên không, máy phóng thanh từ chiếc L19 bỏ đi bỏ lại lời hiệu triếu của Tướng Trưởng, khuyên đồng bào yên tâm, quân đội sẽ tử thủ ĐN. Trong khi đó, dù có lệnh tử thủ, cả Huế lẫn Hội An đều đã thất thủ từ ngày 25 tháng 3, 1975.

 

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 3 mới có người báo là ghe đang tới. Khi ghe cặp sát bờ, nhóm chúng tôi lật đật trèo lên. Một số, không phải trong nhóm, cũng leo theo. Qua bên kia bờ, kiểm điểm dân số thì không thấy ông xì thẩu. Chủ ghe bảo phải nhỗ neo vì “mặt trận” sắp sửa vô tiếp thu. Nghe vậy, con dâu ông xì thẩu bảo cho ghe chạy. Ra đến Tiên Sa thì chủ ghe dừng máy, bảo phải cho thêm 1 triệu nữa mới tiếp tục. Bà Hoa Kiều đồng ý ngay. Rồi bà mới nhờ anh bạn chúng tôi lấy ghe nhỏ, đi về lại sông Hàn, tìm cách rước cha chồng của bà đi theo ghe.

 

Anh bạn và kẻ hèn này nhờ tài công cho người lái ghe nhỏ trực chỉ bến Bạch Đắng. Đi ngang qua khu phố đường Bạch Đằng thì thấy cờ “mặt trận” đang treo trên một cao ốc. Thế là chúng tôi phải buộc lòng quay về ghe lớn.

Chuyện còn dài, nhưng chờ kịp khác sẽ kể. Chỉ biết là sau năm ngày lênh dênh trên biển, ghe chúng tôi đã cập bến Vũng Tàu.

 

Saigon đúng 25 ngày thì kẻ hèn này cùng gia đình rời khỏi Saigon bằng tàu Anh Tuấn vào chiều 29 tháng 4, 1975.

 

Cuộc đời quân ngũ của cá nhân Đồng Sĩ Nam dưới chính thể VNCH cũng chấm dứt.

 

Rốt cuộc, sau khi nước Việt Nam yêu dấu bị ông bạn đồng minh Mỹ bỏ rơi thì cũng chính Mỹ đã đem chúng tôi qua định cư tại Texas, Mỹ, vào ngày 13 tháng 5, 1975.

 

Thân sinh chúng tôi thốt ra một câu mà ông hay nói bằng tiếng Pháp “Ainsi soit-il”

 

ĐSN

 

 

Tài Liệm Tham Khảo:

1.   The Bitter End 1973-1975

     By Major George R Dunham

     Colonel David A Quinlan

     US Marine Corps 1990

2.   Nhân Chứng sống ĐSN