VNCH gởi khá nhiều học sinh, sinh viên ưu tú du học ngoại quốc. Tác giả bài viết dưới đây là một du học sinh tại Tây Đức vào cuối thập niên 60. Trong thời gian theo học, ông từng giúp đỡ cho các cơ quan thiện nguyện, như Terre Des Hommes, Caritas, trong đó có Làng Hòa Bình, là nơi một số trẻ em Việt Nam bị thương tật vì chiến tranh được đưa đến chữa trị. Tác giả cũng chứng kiến nền kinh tế chính trị hậu chiến tranh Thế Giới thứ II của Tây Đức  dần dần được ổn định, nhất là cái nhìn thực tế Tây Đức, được hiểu chỉ là trái độn của NATO nếu chiến tranh xẩy ra giữa 2 khối khối Đông Âu/WARSAW và Tây Âu/NATO, nên chính quyền Tây Đức tìm đến một chính sách mềm dẻo, thận trọng, dung hòa, trong cái gọi là Ostpolitik -bán họ hàng xa mua láng giềng gần - mà người chủ trương và thực thi chính sách ấy về sau là Thủ Tướng Willy Brandt, đã nhận được giải Nobel Hòa Bình.

Mời quý bạn đọc trong tinh thần khảo sát, để tìm hiểu những ký do sâu xa vì sao Tây Đức nhanh chóng trở thành một cường quốc sau thế chiến thứ II, và vì sao Tây Đức chấp nhận cho Đông Đức sát nhập chung thành một nước, ngay sau khi bức tường Bá Linh bị sụp đổ năm 1989, một cách văn minh, không kỳ thị và dã man - như Miền Bắc CS VN đánh cướp Miền Nam VN, và thống nhất đất nước trong bạo lực.

BBT trân trọng cám ơn Tiến Sĩ Nguyễn Viết Kim.

NHỮNG CHUYỆN ĐÁNG NHỚ CỦA MỘT DU HỌC SINH VIỆT NAM TẠI TÂY ĐỨC

Nguyễn Viết Kim

 

Stuttgart là thủ đô của tiểu bang Baden-Wuerttemberg, tại Âu Châu thủ đô là thành phố lớn nhất với ảnh hưởng chính trị, văn hóa, kinh tế; khác với Mỹ, thủ đô chính trị là Washington DC và thủ đô văn hóa, kinh tế là Nữu Ước.

Đại học Stuttgart là một trong 9 đại học kỹ thuật nguyên thủy và có tiếng nhất, theo mẫu tự:

Aachen, Berlin, Braunschweig, Darmstadt, Dresden, Hannover, Muenchen, Karlsruhe, Stuttgart. Ông Daimler tốt nghiệp trường này, cùng ông Benz sáng lập công ty Daimler-Benz sản xuất xe Mercedes nổi tiếng.

 

Thành phố nằm trong một thung lũng với các kỹ nghệ nhỏ, trong thế chiến thứ hai bị san bằng bởi bom đạn. Bắt đầu thập niên 60 thành phố hồi sinh mạnh mẽ với các hãng sản xuất xe Mercedes, Porsche, các dụng cụ điện tử như Bosch. Vì vị trí gần biên giới Pháp và xa Đông Đức, lại là nơi bộ tư lệnh quân đội Mỹ trách nhiệm Đức Quốc đồn trú nên các công ty Hoa Kỳ như Hewlett Packard, IBM cũng có mặt tại đây.

 

Đây là một trong hai tiểu bang trù phú của Đức Quốc, tiểu bang Bayern lớn hơn, thủ đô Muenchen (Oktoberfest), có hãng xe BMW cho tới bây giờ vẫn sở hữu là tư nhân, có canh nông và kỹ nghệ, đời sống văn hóa phong phú, tiểu bang Baden-Wuerttemberg nhỏ hơn với kỹ nghệ hạng trung, nổi tiếng là cần kiệm và có thống chế Rommel tượng trưng cho tinh thần ái quốc và kỷ luật.

 

Năm 1960, khi chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện chính sách dùng quân nhân cầm quyền, cho các tướng lãnh cầm đầu chính phủ dân sự tiếp theo sau đó tại Đông Nam Á, tổng thống Kennedy có yêu cầu thủ tướng Konrad Adenauer (1949-1963) đóng góp về quân sự theo mô hình chiến tranh tại Triều Tiên năm 1950. Ông Adenauer nêu rõ là theo hiến pháp của Cộng Hoà Liên Bang Đức Quốc (tên chính thức của Đức Quốc từ thời lập ra năm 1949, thống nhất năm 1990, và tồn tại cho đến bây giờ), chính phủ Đức Quốc không được phép có bất cứ một can thiệp hay viện trợ nào ngoại trừ kinh tế, văn hóa giáo dục, tuyệt đối cấm về quân sự.

 

Năm 1965, tổng thống Johnson lập lại yêu cầu này và thủ tướng Ludwig Erhard (1963-1966), (ông Erhard này là nguyên bộ trưởng kinh tế, được coi là cha đẻ của "phép lạ kinh tế", nói về sự hồi sinh của Đức Quốc) nới rộng những chương trình trợ giúp văn hóa giáo dục, nhờ vậy 10% số sinh viên theo học các đại học kỹ thuật được dành cho sinh viên ngoại quốc. Mỗi năm theo sự tuyển lựa (numerus clausus) dựa trên kết quả kỳ thi tốt nghiệp tú tài, chỉ có khoảng 70% sinh viên ghi tên được theo học. Nhờ chương trình trợ giúp văn hóa giáo dục nên sinh viên Việt được nhận vào đại học kỹ thuật Stuttgart sau một kỳ thi khảo sát về Toán, Vật Lý và Đức Ngữ. Các trợ giúp cho Việt Nam Cộng Hòa có thể kể như trường trung học kỹ thuật Cao Thắng tại Saigon, đại học Y Khoa Huế, tàu bệnh viện Helgoland tài Đà Nẵng. Đặc biệt tàu Helgoland chữa trị cho tất cả bệnh nhân, vì thế Đức Quốc thỏa thuận cho phía Mặt Trận một số thuốc men để đổi lấy sự công nhận đó là vùng phi chiến theo thoả ước Geneve (Geneva Convention about special zone).

 

Sau khi thi xong Hóa Học, kỳ thi cuối của 5 kỳ thi với 5 môn bắt buộc, bước đầu của học trình kỹ sư: Điện Học, Toán Học, Vật Lý, Hóa Học, Vật Liệu Học (Theory of Electrical Engineering, Advanced Algebra, Modern Physics, Basic Chemistry, Introduction to Material Science) trên đường từ phòng thi về cư xá, tôi ghé qua phố chính tạt vào trụ sở Terre des Hommes định xin làm thiện nguyện một tuần trước khi vào khóa mùa Thu (Fall Semester 1967) thì thấy có một thông cáo nói về Làng Hòa Bình (Friedensdorf: Peace Village) đã khởi công tại thành phố Oberhausen ở Bắc Đức Quốc, cách Stuttgart khoảng 430 km (270 miles).

 

Nghĩ đây là một công trình giúp Việt Nam nên mình phải đóng góp, tôi may mắn liên lạc được với 3 đồng môn, điện thoại liên lạc với công trường xin phép sẽ làm việc tại đó 3 ngày, liên lạc với lữ quán thanh niên để đặt chỗ cho 4 anh em. Mọi chuyện trôi chảy, về nhà sắp đặt túi ngủ, túi dành cho vệ sinh cá nhân, bình nấu nước nóng, vài bộ quần áo để làm việc và vì tính tình đỏm dáng nên đem theo một jacket màu xanh đậm. Hệ thống xa lộ (Autobahn) của Đức không có giới hạn tốc độ, chỉ có đề nghị (Richtgeschwindigkeit) là tùy đoạn đường tốc độ 100 km. 

 

Xe Volkswagen máy để đằng sau nên nếu chạy không khéo khi vào khúc quanh có thể bị quay, đầu xe dẹp nên chỗ để hành lý rất hạn chế. Bốn anh em chen chúc và chỉ dám chạy phía bên phải (phía trái dành cho các xe với tốc độ cao) của xa lộ có 2 làn đường mỗi chiều. Chúng tôi khởi hành từ sáng sớm, khí hậu cuối Thu của Đức rất khó chịu, bầu trời u ám, mưa nhiều, mất hơn 6 tiếng chúng tôi mới đến lữ quán thanh niên.

 

Vì chỉ còn một tuần nữa là đại học sẽ khai giảng, đa số các anh chị em sinh viên còn đi làm thêm hay đi nghỉ hè. Thành phố này gần Bỉ Quốc, và gần các thành phố có đại học như Hannover, Hamburg, Bremen, Aachen, Dueselldorf, Koeln, nơi có sinh viên Việt Nam nên sau khi điện thoại cho bạn, tôi biết là có 6 sinh viên quanh vùng cũng sẽ đến trong cuối tuần.

 

Terre des Hommes là tên một tác phẩm của Saint-Exupéry viết năm 1939, ông là một phi công, nhà văn, triết gia có nhiều tác phẩm văn chương có nội dung rất nhân bản (Pháp Ngữ). Chuyển ngữ thì có thể gọi là "đất đai của nhân loại, đất của người", nếu theo bản Anh Ngữ thì là "Gió, Cát dưới Đất và Sao trên Trời" (Wind, Sand, and Stars).

 

Vào năm 1960, ông Edmund Kaiser lập ra tổ chức có tên này với trụ sở tại thành phố Lausanne, Thụy Sĩ, hiến chương quy định: giúp các quốc gia đang phát triển, qua các giúp đỡ nhân đạo, không phân biệt chủng tộc, đức tin, tôn giáo.

Chi Nhánh Đức Quốc được ông Lutz Beisel thành lập tại thành phố Stuttgart vào năm 1967, khởi đầu là để giúp đỡ các trẻ em Việt Nam bị thương tật, qua dược phẩm và dụng cụ y khoa cấp phát cho bệnh viện và tản thương qua Đức Quốc các trường hợp trọng thương không chữa trị trong nước được. Hiện nầy tổ chức này cứu trợ nhiều quốc gia khác tại Á Châu và Nam Mỹ.

 

Hiến chương thu gọn:

- chúng tôi trợ giúp các thành phần bé nhỏ nhất, yếu đuối nhất và ngây thơ nhất trong xã hội, đó là các trẻ em; trong mọi xã hội trên toàn cầu nhất là từ các nước đang bị chiến tranh, chúng tôi sẽ tản thương các em không thể chữa trị tại quê hương của họ đến Đức Quốc để chữa trị, đồng thời lập các cơ quan y tế và huấn nghệ để chữa trị cho các em có thể được cứu chữa tại chỗ, sau đó sẽ huấn nghệ cho các em vào lớp tuổi thanh niên để có thể tự lập.

Đặc biệt cơ sở đầu tiên được khởi công vào tháng 10 năm 1967 tại Oberhausen ưu tiên cho trẻ em Việt Nam.

 

Cao độ của cuộc chiến với lực lượng Mỹ có trên 500 ngàn hiện diện trong một quốc gia (VNCH) mà dân số chưa tới 17 triệu, (tức là trên 3% dân số); cử tri đi bầu vào năm 1967 là 4,868,266 (34.8% bầu ông Nguyễn Văn Thiệu là tổng thống (liên danh Thiệu-Kỳ) nhiệm kỳ đầu 1967-1971 của Đệ Nhị Cộng Hòa 1967-1975, 

rồi Terre des Hommes  đến Trung Đông (có chiến tranh 6 ngày "six-day war" giữa Do Thái và khối Ả Rập (June 1967) làm thay đổi cân bằng lực lượng, và sự di chuyển dời đổi bắt buộc của cả triệu dân cư tại Trung Đông).

 

Vào thời điểm này, bác sĩ Erich Wulff, sau khi tốt nghiệp tâm thần đại học Freiburg, giảng huấn từ năm 1961 đại học y khoa Huế (dưới sự điều khiển của giáo sư Krainick), gián đoạn một thời gian từ năm 1963 đến 1964, sau đó trở lại cho đến năm 1967 thì về Đức Quốc, ông có những bài viết khen ngợi chế độ y tế miền Bắc, so sánh và chê bai miền Nam, tạo dư luận không thiện cảm với Việt Nam Cộng Hoà. Khi thấy tờ báo địa phương muốn làm phóng sự phỏng vấn chương trình Terre des Hommes, chúng tôi trình bày rõ ràng những dữ kiện mình biết, khó nói nhất là sự kiện quân đội Mỹ vào Việt Nam. 

 

Cần nói thêm, chương trình Terre des Hommes tạo nhiều tác động tích cực, năm 1973 một gia đình Đức Quốc nhận một trẻ em mồ côi, mới vài tháng bị bỏ rơi trong vùng giao tranh tại Sóc Trăng, được một cô nhi viện Công Giáo đem về nuôi nấng. Được nhận làm con nuôi, dưỡng dục và được hưởng nền giáo dục tại Đức Quốc, ông trở thành bác sĩ quân y, phó thống đốc tiểu bang Niedersachsen, bộ trưởng y tế liên bang  và cao điểm là phó thủ tướng liên bang Philipp Roesler năm 2011 trong nội các nữ thủ tướng Merkel, liên mình hai chính đảng CDU và FDP. Trong hệ thống chính trị của Đức theo đại nghị chế, thủ tướng do Quốc Hội tiến cử, bầu chọn qua dân biểu của các chính đảng trong liên minh cầm quyền (đa số phiếu tại Quốc Hội), là người có quyền hành thực sự, tổng thống có vai trò tượng trưng, nghi lễ, đại diện cho quốc gia.

 

Qua cuộc nói chuyện  với ban giám đốc Làng Hòa Bình, chúng tôi được biết rõ hơn về các tiến trình, đợt đầu tiên gồm 10 em và một y tá Việt Nam đã được đón nhận tuần trước đây, lớp tuổi từ 6 đến 15, với những chứng bệnh về mắt, tim, tứ chi, các thương tật. Công cuộc xây cất khoảng 20 người với nhiều máy móc, nhân viên công trường cố gắng hoàn thành căn nhà đầu tiên với các tiện nghi cần thiết cho đợt này.

 

Nhu cầu là tạo cho các bệnh nhân thiếu niên này một môi trường thoải mái, buổi chiều hôm đó chúng tôi họp và bàn về các điều có thể làm được, các nữ sinh viên sẽ nói chuyện với các em để tìm hiểu thêm, các nam sinh viên sẽ dạy các em học.

Quen với thời gian thực tập kỹ nghệ trước khi nhập học, tôi tình nguyện đi thăm các khu vực đang xây cất, trang bị như một nhân viên công trường với quần áo, giày mũ, ngoài trời khá lạnh, đầy bùn và gạch đá ngổn ngang. Ông giám đốc công trường ngần ngại, song tôi thuyết phục ông là phải lăn xả vào việc mới thấu hiểu mọi việc và bài viết tường trình mới đầy đủ và tạo xúc cảm.

 

Sau hơn một tiếng ngoài trời lạnh cóng trong cơn mưa lất phất, tôi bước vào phòng và thấy cảnh tượng thật cảm động, các thiếu nhi và các sinh viên nói chuyện cười đùa vui vẻ, không khí thân mật và ấm cúng, vị y tá Đức cho biết tình thần các em phấn chấn khác hẳn những ngày trước.

 

Ngồi giữa phòng là một thiếu nữ trông khá xinh với mái tóc dài đang ôm Tây Ban Cầm và hát bài "Sag Mir, wo die Blumen sind" một ca khúc rất thịnh hành thời đó tại Đức Quốc. Bài hát này phát xuất từ Hoa Kỳ "Where have all the flowers gone" do Pete Seeger soạn, sau được Max Colpet chuyển ngữ qua Đức Văn và khi Joan Baez trình diễn bằng cả hai ngôn ngữ vào năm 1965 thì được thịnh hành tại Đức Quốc nhất là trong giới trẻ, học sinh, sinh viên.

 

Không những hát, có này còn hát chậm và luyện để mọi người hát theo bằng Đức Ngữ với những lời giải thích về ca từ, các lời dịch của sinh viên Việt cho các em bệnh nhân. Sau này tôi được biết là các sinh viên Việt hát sen kẽ các bài hát Việt như: "học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau", ca khúc của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy kèm theo các lời giải thích ngắn bằng Pháp Ngữ, Anh Ngữ, Việt Ngữ và Đức Ngữ cho một cử tọa hỗn hợp các nhân viên điều dưỡng địa phương và các thiếu nhi Việt Nam.

Thành phố Oberhausen gần biên giới Bỉ, nên dân chúng thông thạo Đức, Pháp và Anh Ngữ, các em thiếu nhi Việt thì đến từ các vùng hẻo lánh nên có nhiều em không được đi học đầy đủ.

 

Cả phòng ưa chuộng cách thức trình diễn của cô nên đang chờ đợi màn kế tiếp, vừa bước vào phòng, cởi bỏ giày đầy bùn và bộ áo ướt mưa và bụi công trường, tự nhiên tôi nhớ tới bài "plaisir d'amour" mới nghe Joan Baez, Nana Mouskouri hát nên buột miệng nói tên bài hát, không ngờ cô này chọn bài đó để hát tiếp theo. 

 

Vừa trải qua cảnh hoang tàn của Thế Chiến Thứ Hai (1945) và nhờ "phép lạ kinh tế" (economic miracle) dựa trên một chính sách kinh tế hợp lý, chương trình trợ giúp của Hoa Kỳ (Marshall Plan), sự cần cù của người dân, kiến thức sâu đậm của giới trí thức, và có một thể chế dân chủ tự do nhân bản; qua kinh nghiệm đắng cay trong thời chiến và hậu chiến, người dân Đức Quốc thông hiểu sự đau khổ, tan tác, thương đau của chiến tranh và muốn đóng góp lại cho thế giới, nhất là những quốc gia đang có chiến tranh hay là các cuộc tranh dành bằng võ lực. Riêng cho Việt Nam thì sau khi hoàn thành cơ sở tại Oberhausen và bắt đầu đón tiếp các trẻ em bị thương nặng, một cơ sở địa phương tại chỗ được thiết lập tại thành phố Đà Lạt.

 

Tình hình rất khó khăn cho các trẻ em bệnh nhân đang chữa trị tại Đức Quốc sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, theo thể lệ quy định sau khi lành bệnh hay qua khỏi tình trạng nguy kịch, có thể được điều trị hay dưỡng thương tại Đà Lạt, thì các em được chuyển về nước, nhường chỗ cho các em khác đang cần sự chữa trị của nền y khoa tân tiến của Đức Quốc.

Vì không hồi hương được nên cơ quan này phải tổ chức hướng dẫn để các em hội nhập vào môi trường mới tại Đức Quốc như các khóa học ngôn ngữ, văn hóa, huấn nghệ. May mắn là các em đã vào được xã hội mới và đều liên lạc, trở về thăm viếng, trợ giúp cho Làng Hòa Bình (Friedensdorf, Peace Village) tại Oberhausen.

 

Hệ thống những Lữ Quán Thanh Niên (auberge de la jeunesse: Jugendherberge) của Đức rất tốt, từ Xuân cho đến cuối Thu các nơi này mở cửa, đa số ở bên ngoài thành phố trong các công viên thuộc quyền quản trị của địa phương hay quốc gia, ban ngày các thanh niên có thể đi dạo chơi quanh rừng, vào thành phố, tối đến tất cả tề tựu họp lại, đốt lửa trại, ca hát văn nghệ rồi đi ngủ. Phòng ngủ rộng lớn, ngăn nắp, mọi người phải có "túi ngủ" (sleeping bag) cá nhân. Phương tiện vệ sinh sạch sẽ, tất cả đơn giản và chi phí rất nhẹ, chỉ phải xuất trình thẻ căn cước và tuân theo các quy định: không rượu chè, tôn trọng trật tự, nhất là thời gian ăn ngủ. Không có bán thức ăn chỉ có chỗ ngủ tại đây.

 

Sức chứa của Lữ Quán Thanh Niên này là khoảng 40 chỗ cho 25 nam và 15 nữ. Hôm đó có gặp thêm các sinh viên Việt Nam từ Bỉ Quốc (Belgium), thuộc các đại học tại Bruxelles, Liege và từ Thụy Sĩ (Suisse), thuộc các đại học tại Lausanne, Genève. Thành ra có tất cả 10 anh chị em gồm 7 nam và 3 nữ. Có một đoàn 20 sinh viên quốc tế (Pháp, Tây Ban Nha, Bắc Âu) khác cũng tình cờ đến, thành ra rất nhộn nhịp. Vì thể diện quốc gia nên chúng tôi lập ra một ban văn nghệ để trình diễn vào buổi tối lửa trại và bầu ra một người thay mặt cả nhóm để nói chuyện với nhân viên phụ trách (Herbergsvater), đồng thời hôm sau liên lạc với ban chỉ huy công trình xây cất tại Làng Hòa Bình.

 

Quen việc đại diện sinh viên trong đại học, với cơ quan thiện nguyện Caritas (công giáo) và Terre des Hommes (tư nhân) nên tôi nhận lãnh việc liên lạc và điều hợp (co-ordinator). Với dân tộc tính: cặn kẽ, tận tâm, kỷ luật; ban quản trị chương trình đã chịu khó bỏ thì giờ thuyết trình, kiên nhẫn giải thích cặn kẽ các chi tiết về một dự án xây dựng lớn lao để có thể chạy chữa, sau đó dưỡng bệnh cho một số lớn trẻ em, mới đầu định là từ 50 rồi tăng lên 100, thuộc nhiều lớp tuổi từ 10 đến 16 (thân nhân không được đi theo vì có các thủ tục phức tạp về hành chánh, chi phí quá lớn) cần có y tá đi kèm, và cần rất nhiều sự giúp đỡ của người đồng hương Việt Nam nhất là trong lúc đầu vì các trở ngại về ngôn ngữ và khác biệt về phong tục tập quán nhất là đa số các bệnh nhân nhi đồng xuất xứ từ các vùng nông thôn nơi có các trận chiến giao tranh ác liệt mà các em là nạn nhân.

 

Buổi tối hôm sau thì tôi nhận được thư qua ban giám đốc công trường, trong đó ông Kurt , bố của Hildegard mời tới nhà ăn tối (người Đức rất quý khi mời về nhà dùng cơm tối). Rất bất ngờ, tôi về lữ quán thanh niên lấy hành lý, lựa bộ quần áo tươm tất nhất mặc vào, theo đúng sách vở tôi ghé vào một tiệm hoa trên đường tới nhà ông, mua một bó hoa nhỏ vừa với túi tiền và đến nhà thật đúng giờ.

 

Trong bữa ăn tối, ông trầm tĩnh nói

- tôi sinh đúng vào lúc Đức Quốc thua trận Thế Chiến Thứ Nhất năm 1919, lớn lên trong cảnh cơ hàn, khi bắt đầu Thế Chiến Thứ Hai năm 1939 thì tôi tình nguyện nhập ngũ, được đào tạo thành sĩ quan công binh chiến đấu, trải qua mặt trận phía Đông Âu và Tây Âu, bị bắt làm tù binh vài tuần trước khi Đức Quốc đầu hàng (September 1945), lại trải qua cảnh cơ hàn. Đi học lại và năm 1952, cùng vài người bạn tôi bắt đầu vào ngành xây cất và sau 15 năm có được công ty này. Tôi lập gia đình sau chiến tranh, có một cô con gái, vài năm trước đây chẳng may nhà tôi bị bệnh mất, chúng tôi đều hiểu và sống qua các sự khốn khổ của chiến tranh, vì vậy hiểu và rất yêu trẻ con.

 

Tình hình chính trị Đức Quốc lúc đó rất tế nhị và phức tạp, là một quốc gia được lập ra coi như trái độn (buffer zone), cầm chân sự tấn công của khối Đông Âu (Warsaw pact) cho tới khi Tây Âu và Hoa Kỳ (NATO) đủ thời gian chuẩn bị để phòng thủ và phản công bắt đầu từ biên giới Pháp Quốc, Tây Đức bao gồm Tây Bá Linh (West Berlin), một ốc đảo tự do giữa bể khơi cộng sản, luôn sống trong tình trạng bấp bênh và đe dọa. Nga đã phong tỏa thành phố này và phải dùng máy bay tiếp tế được gọi là "cầu không vận" (Luftbruecke) trong gần hai năm từ 1948 đến 1949. Năm 1961 bức tường Bá Linh bao vây thành phố được dựng lên. Hoa Kỳ và Tây Âu phản ứng yếu ớt vì sợ có đụng độ võ trang gây ra chiến tranh. 

 

Vì thế chính phủ Đức Quốc đi theo chính sách tiếp cận trực tiếp với Nga Sô và cải thiện dung hòa các liên lạc kinh tế và ngoại giao với khối Đông Âu (Ostpolitik) "bán họ hàng xa mua láng giềng gần". Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ liên hiệp là ông Willy Brandt; Ông đã là thị trưởng Tây Bá Linh từ 1958 đến 1966, sau đó về liên bang và đảm nhiệm chức vụ phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng từ năm 1966 trong chính phủ liên hiệp CDU-SPD (bảo thủ và xã hội) qua năm 1969 ông trở thành thủ tướng trong chánh phủ bao gồm hai chính đáng SPD-FDP (xã hội và cấp tiến) và đẩy mạnh chính sách Ostpolitik dù gặp rất nhiều chống đối của khối dân chúng phải chạy trốn từ Đông Âu qua Tây Đức ty nạn sau Thế Chiến Thứ Hai và của phía bảo thủ. Ông được giải Hoà Bình năm 1971 (Nobel Peace Prize 1971).

 

May mắn là chính sách trợ giúp (Entwicklungshilfe) kinh tế, văn hóa, y tế không thay đổi và liên tục qua mọi chính phủ, lúc đó về văn hóa Tây Đức giúp trường kỹ thuật Cao Thắng, trường y khoa đại học Huế, về y tế có tàu bệnh viện Helgoland, về giáo dục có các học bổng về canh nông, kỹ thuật, y khoa. Qua năm 1968 thì có hai biến động:

- nổi loạn ở Prague, thủ đô của Tiệp khắc chống Hồng Quân Nga Sô gọi là "mùa Xuân Prague" (Prager Frueling), vì rất gần và có nhiều người Tiệp ở Tây Đức nên ảnh hưởng rất lớn

- các giáo sư y khoa ( 3 vị và một phu nhân) bị cộng sản thảm sát tại Huế trong Tết Mậu Thân, gây ra những dè dặt mâu thuẫn hoài nghi trong các sự trợ giúp tiếp tục cho VNCH.

 

Vì chỉ có thể giúp đỡ hữu hiệu khi các bệnh nhân nhi đồng đến nơi đầy đủ, nên chúng tôi xin phép liên lạc lên lại sau đó 3 tháng vào gần Noel để làm việc chung. Buổi tối về lại trại, mọi người bâng khuâng vì "tha hương ngộ cố tri", và ngày mai lại chia tay sau khi hội ngộ, buổi lửa trại do các trại viên quốc tế tổ chức, như đọng lại trong tim với các bài hát thịnh thời Bob Dylan, Simon and Garfunkel, Joan Baez, Nana Mouskouri và đi thẳng vào tâm hồn qua các lời hát "mong cho nước Việt đời đời, oai dũng vươn cùng lên trên thế giới" (nhạc Nguyễn Văn Đông) và thêm vào đó mau có ngày "tung cánh chim tìm về tổ ấm, nơi luyến lưu kỷ niệm đằm thắm" (nhạc phẩm Ngày Về của Hoàng Giác)

Màn trình diễn của 4 anh em chúng tôi "Trấn Thủ Lưu Đồn" được hoan hô nồng nhiệt, với lời giải thích về nếp sống của các chiến sĩ ngoài tiền đồn xa xăm, trơ trọi, hiểm nguy, các tiếng vỗ tay hòa nhịp với tiếng đàn Tây Ban Cầm đêm nhạc và kết thúc với chung khúc Việt Nam Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy.

 

Đưa Hildegard ra xe, trời rất lạnh, tối, mưa lất phất, bất ngờ chúng tôi trao nhau một nụ hôn tạm biệt, một chàng trai xa xứ ngây thơ và một người con gái địa phương tuổi xuân thì.

 

Một tuần sau tôi nhận được một bức thư của Hildegard:

Anh thân yêu,

Mình đã gặp nhau và qua cuộc tiếp xúc nầy lòng em cảm thấy tươi vui, bồi hồi nhớ đến những giây phút ngắn ngủi mình có bên nhau; càng nhớ đến nhau hơn trên đường đến làng Hòa Bình đi qua khu rừng có Lữ Quán Thanh Niên mỗi khi vào săn sóc các em bệnh nhân, mong Anh có nhiều tiến triển trong việc theo đuổi sự nghiệp tại Stuttgart,

Hildegard.

 

Tôi luôn nhớ đến lời Mẹ dặn lúc ở phi trường Tân Sơn Nhất:

Mẹ biết sức học của con, cố gắng chuyên cần, được chữ nào thì hay chữ đó, chỉ nhớ là đi học để có kiến thức, tuyệt đối không được đem vợ đầm về.

 

Hildegard thân yêu,

Định mệnh đã đưa đẩy để mình có những giây phút bên nhau. Hai nền văn hóa Á và Âu (Việt Nam và Đức Quốc) va chạm tóe lửa, song là lửa của yêu thương.

Trong dòng đời nhiều khi chúng ta đã "tương ngộ" song sẽ "bất tương phùng", trong Anh hình ảnh của Em: lòng vị tha, sự nhân bản, sự cho đi không nghĩ đến nhận lại, ở mãi trong một chỗ đặc biệt của tiềm thức.

Người bạn thân tình.

 

Dòng đời trôi chảy, sức học chỉ trung bình, không thông minh cho lắm, mỗi niên học là một thử thách, từ bậc sinh viên (Students), qua ứng viên (Kandidates), nhân viên (Mitarbeiter), lúc đầu thì sợ bị đuổi ra trường, sau đó muốn đỗ cao để được học tiếp, rồi các khảo cứu thật phức tạp, chỉ còn cách "học thường chưa đủ",  "tranh thủ học thêm" vào các dịp nghỉ lễ. Mùa Giáng Sinh năm đó tôi không giữ được lời hứa vì áp lực thi của một món khó nuốt về số học bao gồm số ảo và biến số, phép chuyển thể và nghịch đảo cần thiết cho môn Tự Động Hóa, tuy nhiên có các sinh viên Việt Nam tại địa phương đến cộng tác với Làng Hòa Bình.

 

Tết Ất Mão (1975) tôi về thăm nhà, dự định lên Đà Lạt thăm nên qua liên lạc được biết cơ sở này bị bỏ qua vì chiến tranh, song biết là Hildegard tốt nghiệp bác sĩ nhi khoa, trong ban giám đốc Làng Hòa Bình.

Có chiếu khán "hồi hương và tái xuất" nên được phép rời Saigon gần cuối tháng 3 năm 1975 khi Đà Nẵng thất thủ. 

 

Trước khi sang Hoa Kỳ năm 1978, tôi điện thoại chào từ biệt Hildegard và được thông tin là vị nữ bác sĩ nhi khoa này đã nhận nuôi nấng hai trẻ em Việt Nam khi Làng Hòa Bình yêu cầu các gia đình Đức quốc nhận con nuôi.

 

Kim.

 

Tác giả thời sinh viên tại Tây Đức