Một vài kỷ niệm với cố Giáo sư Tiến sĩ, Dược sĩ Vơ Đăng Đài.
Đại hội
YK Huế 2019 tại Cali, Hoa Kỳ. Các thầyVĐĐ,
NVT, LBV, PHC.
GS Vơ Đăng Đài pháp danh Tâm Minh, qua đời tại Nam Cali, Hoa Kỳ, ngày 8 tháng năm, 2025 hưởng thọ 93 tuổi. GS Đài thuộc diện Thầy Cô trong Hội Ái hữu Y Khoa Huế Hải Ngoại, rất được yêu mến và kính trọng,
Ngày 22/5/2025 Hội ra thông báo:
Quư Anh Chị Em thân mến,
Xin phép được nhắc lại quư anh chị em chúng ta đến đưa tiễn lần cuối GS. Vơ Đăng Đài, vị Thầy đáng kính của chúng ta, đồng thời phân ưu với Cô và đại gia đ́nh tang quyến. Vào sáng thứ Bảy, ngày 24 tháng 5, tại nhà quàn O'Connor Mortuary, 25301 Alicia Pkwy, Laguna Hills, CA 92653.
Tôi ít quen biết các bạn đồng thời ở Huế. Nhà cha mẹ ở Đồng Hới, tôi vào Sài G̣n, ra Hà Nội học. Măi đến năm 1954 sau hiệp định Genève tôi mới vào Nam.và đến ở tại Học xá Trung Việt, đường Bùi Quang Chiêu, gần chợ Bến Thành. Ở đó mấy năm tôi quen rất nhiều bạn Huế và Quảng song lại không hề được gặp anh Đài, học Dược, dù chỉ ghé đến Học xá thăm hỏi bạn bè, đông đảo.
Tại trường YK Huế vào các năm đầu tôi gặp được anh và không hiểu sao, tôi tự động ngâm trong trí: “Lương Sơn Béo (Bá), Vơ Đăng Đài”. Sau đó tôi đổi tên khác, lần lượt Tô Đ́nh Đài, Đỗ Như Đài, Vũ Quư Đài… song anh Vơ Đăng Đài, dáng người yểu điệu, thon thả vẫn thich hợp nhất.
GS VĐ Đài ít nói song dễ tính, dễ tiếp cận, khiêm tốn. Dù có tham gia viết bài trên trang Web của Hội song ông không bao giờ lên tiếng trên diễn đàn. Lúc hữu sự ông gởi thơ hoặc email riêng để bày tỏ ư kiến, chúc mừng, phân ưu vân vân… mà không dùng diễn đàn chung. Các thầy cô khác cũng làm thế. Riêng ông cẩn thận nhiều lần sợ tôi quên, email nhắc nhở tôi viết phân ưu lên diễn đàn kịp thời, đại diện cho ban giảng huấn xưa.
Tôi thực sự không phải là bạn thân của GS Đài, rủ nhau ra quán uống ly cà phê, bát phố, đánh bài, xem chiếu bóng… Hồi ở Huế tôi ít có dịp làm việc với ông. Ngày 26/12/1967 GS Bùi Duy Tâm được cử làm Khoa trương YK Huế và rồi chọn ông làm Phó khoa trưởng hành chánh th́ tôi đang học ở Mỹ. Cuối năm 1972 tôi lên làm khoa trưởng th́ ông được cử làm Phụ tá Viện trưởng ĐH Huế, chuyển công tác vào Sài G̣n, phụ trách văn pḥng đại diện ĐH Huế bên cạnh ĐH Sài G̣n và bộ Giáo Dục, thỉnh thoảng ra Huế giảng dạy.
Năm 1973 phái đoàn ĐH Huế do Phó Viện trưởng GS Nguyễn Văn Hai làm trưởng đoàn cùng GS Vơ Đăng Đài phụ tá Viện trưởng, các GSBS ban giám hiệu trường ĐH YK Huế đă công du Thái Lan, thăm ĐH BangKok Và ĐH Chiêng Mai. Đó là lần độc nhất tôi cùng đi với ông.
Thailand 1973. Phái đoàn Đại học Huế thăm Đại học Thái Lan gồm GS NV Hai, phó viện trưởng, GS VĐ Đài, phụ tá viện trưởng, các GSBS LB Vận, LV Bách, NV Tự, ban giám hiệu trường ĐHYK Huế.
Tháng 9/1974 nhà tôi sinh cháu trai, GS Đài đem đến nhà, biếu một dây chuyền vàng có khắc chữ ‘V’, đựng trong một hộp gỗ khảm xà cừ. Tôi vắng mặt, chưa kịp gặp nói lời cám ơn th́ ông đă bay vào Sài G̣n. Tại Sài G̣n ông bà GSTS Nguyễn Mạnh Hùng, Dược sĩ cũng đă chiêu đăi 2 vợ chông tôi tai một khách sạn sang trọng. Cho hay các ông bà dược sĩ rất là rộng răi, hào phóng hơn người.
____
Nghĩ lại tôi mới là người chịu ơn ông rất nhiều. GS Vơ Đăng Đài có công rất lớn với Trường lúc ông viết bài “Tính Sổ Một Đoạn Đường” mô tả sống động mọi sự kiện và nhân vật có liên quan đến trường thời đó, kèm nhận xét. http://www.ykhoahuehaingoai.com/ky/k_TINHSOMOTDOANDUONG_VODANGDAI.html
Tôi đă tham khảo bài viết đầy đủ của ông để viết các loạt bài “Trường YK Huế và các Khoa trưởng 1961-1975. Phần Ia, Ib, IIa, IIb, IIIa, IIIb” cũng như một số bài viết khác về thời bao cấp, lấy GS VĐ Đài làm nhân chứng. GS Đài đă viết:
“Khoảng giữa năm 1976 th́ bắt đầu tuyển các cán bộ ở lại được gọi là lưu dụng (tức là dùng lại v́ khoan dung) vào biên chế nhà nước. Các cán bộ giảng dạy được lương đồng đều mỗi tháng 100 đồng (tiền mới), cán bộ công nhân viên th́ tùy và ai cũng được phát nhu yếu phẩm hằng tháng với tiêu chuẩn giống nhau. Ở Y khoa Huế anh Văn, một nhân viên hành chánh cũ cùng với 1 cán bộ ở Bắc vào phụ trách việc này. Cứ mổi tháng họ đi lảnh một số thịt và rau trái về để phân phối cho công nhân viên. Họ chia thành từng phần rồi bốc thăm. Ai cũng trông mong được 1 phần có nhiều mỡ đem về rán ra để dành ăn lâu, và tóp mỡ th́ rất thực dụng”.
Và “Ngoài ra nhân viên, thầy cô giáo cũng c̣n tham gia với dân chúng xây đập Nam Sông Hương . Đây là một công tŕnh lớn huy động hàng chục ngàn dân. Học sinh, sinh viên làm việc rất hăng hái. Chủ yếu của công tŕnh là đào 1 con kinh từ thượng nguồn sông Hương trở về nam để vào mùa hè khi phần dưới sông Hương bị nước biển tràn vào không thể dùng để tưới tiêu được th́ nước của thượng nguồn sông Hương được bơm vào kinh dẩn về để tưới các ruộng ở phiá nam. Ngày khánh thành thấy một giàn máy bơm dặt trên một cái bệ bằng bêton hoạt động , nước chảy rầm rầm trông thật ngoạn mục, tiếc thay chỉ sau một thời gian ngắn , bệ v́ xây không đúng , chịu đựng không nổi nên bị sập, máy bơm hết hoạt động và công tŕnh không xử dụng từ đó.Trước ngày tôi rời Huế vào Sàig̣n năm (1980) tôi đă đạp xe đạp dọc bờ kinh, nh́n thấy ḷng kinh khô nước mà nhớ đến những ngày cùng sinh viên lao động ở đó, nhớ đến t́nh thương mà sinh viên đă dành cho ḿnh, cứ cuốc được 5,7 phút th́ sinh viên lại đến dành cuốc, nói thầy đi nghỉ đi để bọn con làm cho,hoặc đến giờ ăn th́ thế nào họ cũng đem lại cho tôi một miếng cá hay thịt nhỏ. Ở thời nào và hoàn cảnh nào sinh viên cũng dành cho tôi những cảm t́nh đặc biệt”.
Trong bài viết “Lời Cám Ơn” http://www.ykhoahuehaingoai.com/99do/LoiCamOn.htm là một áng văn lăng mạn tuyệt tác ông đă ca ngợi phu thê t́nh nghĩa son sắt:
“Nh́n qua Muội rồi nh́n lên trời, Huynh không biết đă có v́ sao nào rơi lạc xuống đây, biến thành Muội và đi bên cạnh Huynh. Huynh muốn nói với v́ sao đó: Nàng sao ơi, nàng đă bỏ bao nhiêu bạn bè đang ca múa trên kia mà xuống đây th́ xin nàng hăy măi măi ở lại với ta, ta năn nỉ nàng và cầu xin nàng đó…” Khi về già t́nh yêu vẫn đậm đà: “Huynh sẽ nh́n Muội rồi chỉ mặt trăng mà nói: Trăng sáng và đẹp quá nhưng trăng không thể sáng bằng ánh mắt hiền thê của ta được, trăng đẹp nhưng không thể đẹp bằng khuôn mặt tươi vui dịu hiền của nàng…”
GS Vơ Đăng Đài và phu nhân.
GS Đài gặp phu nhân ở Huế, quyết tâm theo đuổi cho đến thành công, và 2 người kết hôn năm 1977, lúc ông 45 tuổi, đến nay con cháu đầy nhà.
Tôi cũng được may mắn như GS Đài, lấy được nguời trong mộng, là duyên có vẻ tiền định? Tôi gặp em, tên Vơ Thị Lệ Thủy chỉ một lần tại nhà lúc em c̣n là một cô bé 10, 11 tuổi. Tôi xúc động mạnh, sững sờ ngắm em, ḷng tự hỏi ai sẽ là người rồi đây có hạnh phúc làm chủ đóa hoa tuyệt sắc này? Bẵng đi nhiều năm sau, lúc tôi gần ra trường, cha mẹ tôi bỗng cho tôi biết đă dạm vợ cho tôi, là cô bé VT Lệ Thủy năm xưa, người đồng hương. Nàng đang học năm cuối trường Quốc học Huế. Hè đến chúng tôi làm đám cưới và nàng tiếp tục học Luật, tốt nghiệp Luật sư bảy năm sau.
Luật sư đoàn. Ṭa thượng thẩm Huế, 1973. Hàng sau: LS Nguyễn Sĩ Hải, Khoa trưởng trường ĐH Luật khoa Huế, đoàn trưởng, đứng giữa. Hàng trước: LS Vơ Thị Lệ Thủy, b́a phải.
Tuy vậy mơ ước của nàng là xong trung học sẽ được đi du học, hai ông anh của nàng đang học ở Pháp. Tiếc thay nàng đă phải lấy chồng sớm.
Suốt đời, tôi vẫn xem lấy nàng là thành tựu to lớn nhất trong đời tôi.
T́nh yêu nồng nhiệt, sâu đậm là muôn mặt, Hăy xem GS Bùi Minh Đức và phu nhân Trần Thị Duy Thái xiết bao hạnh phúc và anh chị BS Vĩnh Chánh/Minh Châu luôn quấn quưt bên nhau.
Nghe BS Vĩnh Chánh kể lại th́ anh cũng phải kiên tŕ phấn đấu, trầy vảy tróc vi nhiều năm trời mới tạm được lọt vào mắt xanh của người trong mộng.
Ông bà GSBS Bùi Minh Đức Đám cưới BS Vĩnh Chánh/Minh Châu..
Thành thực xin lỗi các bạn, bài náy viết vội có nhiều luộm thuộm không kịp sửa. Tối hôm qua, Thứ tư BBT mới xin bài viết về GS VĐ Đài để đăng ngày mai Thứ Sáu.
Bạn VĐ Đài, tôi xin tạm biệt và hẹn sớm gặp lại nơi đất Phật.
Lê Bá Vận.
*** H́nh ảnh Tang Lễ GSTS Vơ Đăng Đài: