LỜI TÂM SỰ CÙNG CÁC ANH

Các Anh thân mến,

Tất cả chúng ta đă trải qua cuộc chiến cho Tổ Quốc. Đa số anh em chúng ta đă mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn. Một số không nhỏ anh em chúng ta đă bỏ ḿnh cho Tổ Quốc. Hầu như tất cả chúng ta c̣n lại cùng gia đ́nh và bao người thân quen đều phải gánh chịu nhiều hư hao mất mát, những găy đổ phi lư, những điêu tàn cơ cực. Trong khói lửa binh đao. Sau ngày buông súng. Trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Lúc làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp tục cuộc sống trong nhà tù lớn tại quê hương…

Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, không có nước mắt và máu. Và chen vào giữa đời lính luôn có sự hiện diện của t́nh yêu. V́ chỉ duy nhất t́nh yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khổ, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để sống sót vươn lên trong thử thách băo lửa. Cho dù đó là t́nh yêu quê hương đất nước, t́nh đồng đội sống chết bên nhau, t́nh nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ. Là cuộc t́nh thơ mộng hay t́nh sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện t́nh đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái v́ hai phương trời cách biệt.

T́nh yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng sau một tiếng nổ lớn.

Ôi! Người lính, t́nh yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những danh từ trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và c̣n ǵ tuyệt đẹp hơn khi t́nh yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc ḷng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. V́ trong tiếng th́ thầm của t́nh yêu thời chiến đă có sẵn chữ hy sinh. V́ khi t́nh yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đă mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. Những t́nh cảm dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nh́n ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ,” là những thơ t́nh trang trải nỗi nhớ nhung của nhau. Những hẹn ḥ quư báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những tâm sự thầm kín, những dự tính thơ mộng, những nụ hôn gắn bó, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc t́nh ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau “…anh trở về bại tướng cụt chân”; hay cuộc t́nh vỡ tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc t́nh bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngă nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người t́nh c̣n đó anh nhớ không anh.”

Trong thử thách, gần với nỗi chết, t́nh yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em. Là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm ǵ hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư t́nh mang trong ba lô hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản hơn là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:

“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài G̣n

 Mấy tháng rồi tao không được ôm em

Tao thèm làm t́nh như tao thèm sống

 Tao thèm hôn em, hôn liên miên…”  

*Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung

Trong truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” mà tôi t́nh cờ đọc lại trong thời gian chờ ra đơn vị, tại bệnh viện Đỗ Vinh, một câu truyện về người lính, t́nh yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu v́ lư do ǵ cuốn truyện bấy giờ đă để trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể v́ đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối t́nh đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chửi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người t́nh đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi tŕu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nh́n thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng quơ, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ các em gái hậu phương đem đến…

Trong “Một Thời Để yêu, Một Thời Để Chết,” chàng lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn ḿnh liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh t́m thấy được t́nh yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đ́nh. Một t́nh yêu mănh liệt giữa 2 con người không c̣n ǵ để phải sợ mất mát đă nẩy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi vươn lên thắm thiết giữa nồng nàn ân ái, khắc khoải, âu lo trong nỗi buồn mênh mang vô định của có nhau hôm nay, mất nhau ngày mai. Thay v́ đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngă bởi viên đạn do chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con ḿnh. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại.” Khép kín luôn cả một khung trời, một giấc mơ hiền ḥa b́nh dị vụt biến đi khi cái chết đến quá nhanh và phi lư. Dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Như một giọng hát soprano đang ngân lên thật mạnh và cao vút, bỗng đột nhiên ngưng…

Các Anh thân mến,

Thương tật hay chết chóc là chuyện không một ai mong muốn nhưng vẫn phải chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đoong luôn gần cả nửa đại đội v́ bom bạn thả lầm, hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập… Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái v́ can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong ḥm nhôm? Tuy nhiên chết trận quả thật ít khi được êm ả như cái chết của chàng Erust.

Để có thể h́nh dung gần cả trăm binh sĩ cùng chết một lần với nhau, xin hăy hồi tưởng đến câu chuyện một đại đội binh sĩ Nhảy Dù chết một lúc. Không phải trong khi chiến đấu chống quân thù như họ từng mong ước, cũng không phải trong một lần xung phong thẳng vào tuyến địch. Ngược lại, là cái chết tức tưởi trong một cuộc không vận từ chiến trường này đến một mặt trận khác. Phi cơ đang b́nh phi bỗng đầm sầm vào bờ núi phủ kín sương mù. Không một đèn đỏ nhá lên như khi người lính Nhảy Dù chuẩn bị bung ḿnh ra khỏi phi cơ, không một dấu hiệu trục trặc động cơ hay khói tỏa trong thân máy bay. Và đây chẳng phải là một cái chết như mơ. Ngược lại một cái chết kinh hoàng đổ ập cùng một lúc lên mọi người. Sau một tiếng nổ lớn, phi cơ tan vụn thành nhiều mảnh giữa những tiếng la hét trong phút chốc. Rồi lửa và lửa. Cháy và cháy. Những tiếng nổ phụ. Có những thân h́nh tung bay tứ phía, va chạm, gục ngă trong thân máy bay. Có nhiều người chết liền, thân thể cắt nát bởi các mảnh kim loại. Có những người chết hai lần, thân h́nh nát bấy do đạn và lựu đạn mang trên người nổ thêm. Có những kẻ oằn oại dăm ba phút trước khi ĺa đời. Hay đau đớn hấp hối cả tiếng đồng hồ bên ngoài phi cơ, khi thân xác văng xa trên triền núi, máu ướt đẫm cỏ rừng trước khi vĩnh viễn nhắm mắt. Một cái chết b́nh đẳng dưới mọi h́nh thức cho cả quan lẫn quân. Cho cả 4 phi hành đoàn người Mỹ lẫn 81 quân nhân người Việt của Đại Đội 72 thuộc TĐ.7 Nhảy Dù.

Các chiến sĩ trong Đại Đội 72 là những ai? Họ là những chàng trai trẻ đi theo tiếng gọi non sông, t́nh nguyện nhập ngũ, động viên, kẻ trước người sau rời xa mái trường, quê nhà và người thân lên đường ṭng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xă hội tự do miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu, ngang qua Cố Đô Huế rồi đến duyên hải nắng đẹp miền Trung, lên tận cao nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn thủ đô Sàig̣n-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất ph́ nhiêu mầu mỡ của đồng bằng Cửu Long đến tận Cà Mau… Bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một ḷng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung, TT Huấn Luyện Nhảy Dù…

Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đ́nh, là con chú con d́ trong ḍng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lư tưởng, là những người con ưu tú t́nh nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống trả kẻ thù xâm lăng. V́ là lính Dù, họ đều có chung một tần số: thích mạo hiểm, thích xông pha, thích thử thách. Thương yêu Tổ Quốc. Trọn vẹn với nước nhà. Chí t́nh với đồng đội. Thích lối sống hào hùng, nay đây mai đó, là người của mây bốn phương trời, hoặc xanh cỏ hay đỏ ngực. Đi đông về ít. Đi có về không. Đồng mang nặng một tinh thần trách nhiệm cao độ, một tinh thần thượng vơ hào hùng và một kỷ luật thép vô cùng nghiêm minh. Có sức chịu đựng bền bỉ, có khí phách của một nam nhân bất khuất, dũng cảm và gan dạ, sẵn sàng bảo vệ danh dự màu cờ sắc áo.

Đó là Trung Úy Phan Ngọc Bích, người Đại Đội Trưởng, nước da ngăm đen của miền cát trắng Nha Trang, xuất thân từ trường TH Vơ Tánh và tốt nghiệp khóa 15 Thủ Đức. Anh vào quân ngũ đơn giản v́ nặng lời thề “làm trai thời loạn khi đất nước lâm nguy,” đang chống trả với quân thù được nuôi dưỡng bởi ḷng hận thù của chủ nghĩa CS xâm lăng sắc máu. Ngày măn khóa, anh t́nh nguyện vào Nhảy Dù v́ yêu thích tác phong oai hùng của các Thiên Thần Mũ Đỏ. Qua mấy năm tôi luyện ở TĐ3ND, anh được thuyên chuyển về TĐ7ND sau trận Đồng Xoài và nắm ĐĐ 72 trong cuộc hành quân tháng 12, 1965 (H́nh Tr. Úy Phan Ngọc Bích khi c̣n học sinh). 

 

Đó là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Thanh Xuân, người anh cả trong một gia đ́nh gồm có một em gái và một em trai, từ làng Kế Môn, Thừa Thiên, đầu quân vào Nhảy Dù sau lần đi xem Nhảy Dù biểu diễn trên sông Hương. Trong chiến dịch Mùa Mưa tại Cao Nguyên, HS. Xuân có được cơ hội về thăm em gái ḿnh, “Anh ghé thăm tôi ở Pleiku, tặng tôi chiếc nhẫn vàng tây 2 phân ngay trước ngày anh bay đi Tuy Ḥa…” bà Nguyễn Thị Hạnh nhớ lại (Báo NV/ Houston, ngày 27 tháng 9, 2019).

Đó là Thiếu Úy Dương Văn Chánh, sinh ngày 8 tháng Giêng, 1940 tại Thanh Hóa. Th. Úy Chánh là em út trong gia đ́nh 5 anh chị em vốn có liên hệ với Quân Đội nói chung và Nhảy Dù nói riêng, với chị cả là Chuẩn Úy Nhảy Dù Dương Thị Kim Thanh, tức phu nhân của Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân, cựu chiến đoàn trưởng Chiến Đoàn 2 Nhảy Dù, và sau này là cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Thời trung học, Dương Văn Chánh theo học trường Chasseloup-Laubat, rồi Tabert Saigon và là một Tráng Sinh của Hướng Đạo VN. Chánh có vóc người tầm thước, da ngâm đen, rắn rỏi, giọng khàn khàn, tánh t́nh vui nhộn ưa đùa giỡn và nghịch ngợm với gia đ́nh, tuy nhiên kín đáo khi ra bên ngoài. Anh rời trường Luật sau một năm học, lên đường ṭng quân, vào Thủ Đức, tốt nghiệp khóa 18 vào tháng 3, 1965 và chọn Nhảy Dù. Được điều động về làm trung đội trưởng của TĐ7ND, anh may mắn chỉ bị thương khá nặng ngay trận đầu đời lính của ḿnh tại Đồng Xoài vào tháng 6, 1965, khi Anh vừa ḅ ra khỏi hầm th́ một trái pháo súng cối địch rơi vào hầm giết chết 2 b́nh sĩ trong đó, mọi người chung quanh đều tưởng cả 3 người đă tan xác nên báo cáo Chánh tử trận. Th. Úy Chánh và một số chiến sĩ Nhảy Dù đă lẩn trốn trong rừng, 3 ngày sau họ mới có thể trở về tŕnh diện với đơn vị. Trong thời gian dưỡng thương, anh về ở với gia đ́nh cha mẹ, gần Bệnh Viện Chợ Rẫy. Đó là lần cuối cùng gia đ́nh nh́n thấy anh trước khi anh lên đường tham chiến tại Cao Nguyên. (h́nh Th. Úy Dương Văn Chánh)

Và đó là các quân nhân Trần Hồng, cùng quê hương xứ sở với Hạ Sĩ Nhật Nguyễn Thanh Xuân, Lê Văn B́nh, Trần Quư, Nuôn Châu, Trần G.O, Trần Văn Thân, Lê Văn Ḥa, Nguyễn Tuyết Thi, Lê Nguyên Thu, Nguyễn Văn Tài, Lâm Sỹ Đan, Lê Văn Suyên, Đỗ Văn Diên, Trần Văn Thân, Nguyễn Tài Văn, Nguyễn Tường Văn, Đỗ Văn Linh, Thy… mà tên và số quân được t́m thấy trên các thẻ bài trong 17 bao thu hồi hài cốt tháng 6, 1974. (tác giả Nguyễn Quân / 81 chiến sĩ ĐĐ 72, TĐ7ND tử nạn trên chuyến bay C-123 của Không Lực Hoa Kỳ - Ḍng Sông Cũ/ May 6, 2019)

Và c̣n lại là các chiến sĩ vô danh mà hài cốt, hoặc nằm chung với nhau trong 17 bao chứa, hoặc tan tác thành tro bụi theo thời gian, rải rác trên sườn núi, hay vẫn c̣n trong thân máy bay, quá nguy hiểm cho lục soát t́m kiếm v́ nhiều lựu đạn và đầu đạn M 79 chưa nổ.

  

Vậy những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si t́nh là ai? Phải chăng họ là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, cùng một thị trấn, ở làng bên cạnh, trong một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đ́nh. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong chiếc áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi dừng chân uống nước ở ven đường Anh nh́n thấy…

Em là người con gái Anh chưa quen biết nhưng chợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem… đang ăn vặt ḅ bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà Anh muốn t́m quen theo về tận nhà. Em cũng là người em hậu phương đến choàng ṿng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng,” là người mà Anh t́nh cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến Anh bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng nghiêng nghiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến Anh mê mẩn dù lời nói khó hiểu “mô tê răng rứa - anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe Honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu - Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”… Là người cho Anh bao nỗi nhớ, bao vấn vương. Bao mộng ảo, diệu kỳ.

Rồi chuyện t́nh của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lăng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, nhanh chóng và thương đau. Đột ngột và lâng lâng tự nhiên đến như thể “nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu!” Như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ t́nh của “chưa nắm tay em mà ḷng đă yêu, chưa uống môi em mà t́nh đă say!” T́nh lính thường long đong ray rứt. Yêu trong vô vọng. Yêu trong cuồng si. Yêu trong chớp nhoáng. T́nh lính “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.

Anh biết chăng Anh, em yêu Anh v́ yêu dáng phong trần hiên ngang của Anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù? Có thấy chăng Anh, em yêu cái nh́n nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với giọng cười sảng khoái của Anh? Như một Ngọc Lan, cô bé Bắc Kỳ của mùa Thu tóc ngắn, yêu sự ch́u chuộng săn đón của Thiếu Úy Dương Văn Chánh, yêu luôn cả con đường từng chung lối, yêu ṿng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông băo vào đời ḿnh. Phải chăng Ngọc Lan đă từng mong đợi những lá thư t́nh đơn sơ gởi từ KBC xa lạ?! Đă thích nghe Anh kể chuyện đời quân ngũ, xông pha ngoài trận tuyến. Yêu Anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao caré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ đồ trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin Anh. Là biết cầu nguyện Ơn Trên ǵn giữ Anh và theo dơi bước chân Anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Anh biết chăng Anh khi yêu Anh là em chấp nhận những ngày cô đơn xa Anh, những chiều dạo phố một ḿnh? Là ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi Anh bước qua, là đến thăm Anh ở hậu cứ hay trong quân y viện.

 

Phải chăng Nha Trang từng đă ghi dấu mối t́nh học tṛ trong trắng của một Phan Ngọc Bích và bạn gái cùng trường Vơ Tánh của ḿnh? Phải chăng chị Phạm Thị Ngọc Thủy khi nhận làm vợ của Phan Ngọc Bích là chấp nhận thương đau thua thiệt? Là chắt chiu với tiền lính là “tính liền”. Có biết chăng rồi đây chị sẽ đếm những ngày xa chồng, sẽ sống tại hậu cứ ở Biên Ḥa trong căn pḥng nhỏ lợp tôn với hai quả tim đồng, và đành phó mặc tương lai cho số phận? Biết chăng chị khi lấy chồng lính là có ngày chị lỡ làng đời ḿnh? Là có ngày chị phủ phục với 2 con c̣n thơ dại ở lứa tuổi 4 và 2 tuổi trước linh vị của chồng nhưng chẳng có lấy xác chồng để tiễn đưa? Mà đành tê tái, tủi thân với những ḍng lệ tuôn rơi và những lời th́ thầm yêu đương!!

 Các Anh thân mến,

Trong giây phút phi cơ lâm nạn, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng Anh kêu lên Mẹ ơi, như Anh đă từng làm lúc c̣n ở với Mẹ những khi anh bị đau ốm hay khi vấp ngă? Nhớ chăng Anh những bước b́nh an bên cạnh Mẹ trên con đường làng? Có nhớ chăng Anh lời nói yêu đương tỏ t́nh của Anh với người thôn nữ trên đường hành quân lần trước? Có đủ chăng Anh th́ giờ nghĩ đến người vợ bé bỏng cùng hai con thơ luôn trông ngóng chờ đợi Anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng Anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ Anh đang yêu mà anh đành bỏ lại tại Gia Định khi bước vào chinh chiến?! Và có đủ chăng Anh, người Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Thanh Xuân, vài giây để mỉm cười khi biết ḿnh đang nhẹ nhàng bay đến gần người vợ mới cưới bị trúng ḿn chết trong lần về thăm gia đ́nh vừa xẩy ra 2 tháng trước chuyến hành quân này? (h́nh của Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Thanh Xuân)

Người chết trận chính thức giă từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đă đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi, là huyền thoại của đất nước. Không có ǵ cao quư hơn khi chết trận. Chết trận là chết không một than văn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà. Nhưng khi người lính nhắm mắt buông xuôi, t́nh yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong t́nh thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đ́nh. Họ vĩnh viễn là cánh gió tung bay trên vạn nẻo đường đất nước.

Mày nghĩ, tụi ḿnh như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ?”   ** Lá Thư Pleime / Thiếu úy Dù Lê Anh Thái

  

Khi một người buông tay. Một người ngă. Một thoáng yêu nhau. Một thoáng ngậm ngùi, th́ các bạn thân ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước giang hồ, chúng ta cần phải ngồi lại bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Cho t́nh đồng đội vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mănh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Trong tinh thần Cố Gắng Nhảy Dù muôn thuở:

 

Xin cùng nhau đốt nén nhang, nghiêng ḿnh cầu nguyện cho anh linh 81 tử sĩ Nhảy Dù được an nghỉ ngàn thu.

Một lời tạ lỗi trong chua xót đến các Anh khi đất nước các Anh chết cho chính nghĩa nay không c̣n nữa. Dù ḷng người tại Hải Ngoại, dù đồng đội các Anh luôn tiếp tục sát cánh dưới cờ Vàng Ba Sọc Đỏ.

Một lời xin lỗi các Anh phải chờ đến cả 54 năm mới thật sự nghỉ ngơi trong ngôi nhà mới. Một ngôi nhà ấm cúng, ngay trong ḷng thành phố luôn tràn ngập cờ VNCH. Bên cạnh những người thân yêu, những đồng đội xưa cũ và những đồng hương. Như thể tại một nước Việt Nam thứ hai bên ngoài lănh thổ của xứ VN CS

Một lời tạ lỗi đến các cô nhi quả phụ bị quên lăng trong bao năm, những người đă chịu những nỗi đau, những mất mát và những chấn thương không chảy máu ṛng ră trên cả nửa thế kỷ.

Một lời tạ lỗi khi thân nhân các Anh không hiện diện đầy đủ trong ngày tiễn đưa các Anh – v́ phương tiện thông tin không thể hoàn hảo với danh sách tử sĩ đa số vô danh.

Một lời cám ơn chân thành và sâu đậm cho đất nước Hoa Kỳ đă cưu mang chúng ta, những người Việt tỵ nạn CS, và đặc biệt Thượng Nghị Sĩ Jim Webb, mệnh danh là bạn của người Việt, đă cho phép Gia Đ́nh Mũ Đỏ dự vào phần truy điệu, vinh danh và chôn cất các anh em của ḿnh, 81 tử sĩ Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Ḥa, qua quỹ “The Lost Soldiers Foundation” mà trước đây chưa bao giờ có sự kiện tử sĩ không phải là công dân Mỹ được chôn trên đất Mỹ.

Nếu nước mắt chúng ta có rơi trong ngày đưa tiễn các Anh, xin hăy tự nhiên - V́ đây là những giọt lệ đồng cảm trân quư của đồng đội từng sát cánh hay nối gót các Anh trong lư tưởng chung - V́ đây là gịng lệ từ các thân nhân các Anh tuôn trào v́ cảm thương người thân yêu của ḿnh biền biệt ra đi nay b́nh an yên nghỉ sau một thời gian dài lạnh lẽo không bờ bến.

Nếu ánh nến có lung linh trong đêm nguyện cầu, hăy xem như những tiếng đập con tim tưởng nhớ và tri ơn các Anh. Như những lời th́ thầm cầu kinh thương xót các Anh.

Hn anh linh đă về nơi tiên cảnh

Trong quan tài ôm kín xác chiến binh

Anh ra đi v́ nước quên thân ḿnh

Nơi đất khách em ngậm ngùi tiễn biệt

Dẫu tha hương bao nhiêu người dân Việt

Đón anh về giọt nước mắt tiếc thương

Hỡi anh linh người chiến sĩ can trường

Mầu mũ đỏ, áo hoa dù bất diệt

Thân xác anh đă về nơi miên viễn

Hăy b́nh yên trong giấc ngủ ngàn thu

Tạ ơn anh, những chiến sĩ Nhẩy Dù

Đă dâng hiến một đời cho Tổ Quốc (Lời Tri Ân Người Lính / Thái Thị Liên)

 

Xin hăy hiệp thông cầu nguyện Ơn Trên phù hộ và ǵn giữ gia đ́nh các tử sĩ.

Xin Ơn Trên cho quê hương Việt Nam sớm thoát gông cùm CS.

Xin Ơn Trên ǵn giữ bạn và gia đ́nh bạn

Cám ơn đời cho chúng ta vẫn c̣n có nhau.

Để, nếu có ngày về thăm nơi các Anh đă nằm xuống trong chốn hoang sơn, chúng ta sẽ thắp nhang mời hương linh các Anh dự tiệc, cùng nhau tâm sự chuyện đời, giữa tiếng ŕ rào của núi rừng và hương dại của những chùm hoa thạch thảo

Xin hăy cho tôi một lần đứng chào

Những người bạn đă nằm xuống nơi xưa

Xin hăy cho tôi một lần trở lại

Bung cánh Dù ngạo nghễ năm xưa…

https://www.youtube.com/watch?v=0TlQiarvnEc

 

 Vĩnh Chánh

Ngày 11 tháng 10, 2019

 

** Chân thành cám ơn chị Thái Thị Liên, cư dân Orange County, đă sáng tác bài thơ “Lời Tri Ân Người Lính” để riêng tặng cho bài viết này.  

*** Vô cùng cám ơn GS. Dương Văn Hóa, bào huynh của Thiếu Úy Dương Văn Chánh, nhà văn Phạm Tín An Ninh, Trung Tá Bùi Đức Lạc, Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu, Đại úy Hoàng Tấn Kỳ… đă giúp cung cấp nhiều thông tin, h́nh ảnh quư giá xử dụng trong bài viết. Với ḷng quư mến.

**** Trân quư nghĩa cử hào hiệp của vợ chồng BS. Nha Khoa Lư Văn Kim & Thúy Hà, New York, hội viên Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại, đă bảo trợ mua 400 cuốn sách “Tháng Ngày Tao Loạn” của tác giả Vĩnh Chánh, để giúp gây quỹ truy điệu, vinh danh, chôn cất và xây dựng tượng đài cho 81 tử sĩ Nhảy Dù. Tấm ngân phiếu $8,000.00 đă được trao tận tay cho Y Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ Tịch Gia Đ́nh Mũ Đỏ Trung Ương và Đại Úy Hoàng Tấn Kỳ, Chi Hội Trưởng Chi Hội Mũ Đỏ Nam CA & Phụ Cận, vào đêm Đại Hội 39 của GĐMĐ, ngày 30 tháng 8, 2019 tại Khách Sạn Delta Marriott, Garden Grove. Với ḷng mến phục.

 

   Trở về mục lục 99Độ