MAI. Tên một loài hoa mang màu sắc t́nh tự của mùa Xuân. MAI cũng là tên một cô gái của mối t́nh tay ba tại xứ Huế trong bối cảnh nhiễu nhương của những năm 64-66. Hai người bạn trai, kẻ trước người sau, sớm bỏ học đường, khoác áo chinh nhân. Gặp lại nhau trong cùng một đơn vị và cùng chiến đấu bên nhau. Để rồi trong một trận đánh giải tỏa Huế, tại một rừng đầy mai vàng rực rỡ. “Để tau ở đây!...Mai…!” một người đă nằm xuống vĩnh viễn, với một cánh mai “đậu ơ thờ trên áo trận”.

C̣n MAI. Nàng đi về đâu?? Xin mời quư Anh Chị Em đón đọc truyện ngắn “Mai” của thân hữu Phan Hội Yên. BBT thân ái cám ơn anh Phan Hội Yên và mong bài viết này chỉ là bước đầu của mối giao hảo lúc ban sơ.

BBT

 

MAI

 

Việc gặp lại Đằng ở đơn vị, quả thật là điều tôi không hề mong muốn, nhất là phải ở cùng trung đội. Khi Đằng bỏ trường, bỏ lớp, bỏ cả gịng sông chảy ngang qua thành phố, và những chuyến đ̣ ngang đầy ắp thật nhiều dự định, những dự định tưởng như có thể hồng tươi hơn cḥm hoa phượng là đà mặt sông xanh thắm. Tôi vẫn không nghĩ là Đằng đă đi lính. Việc ǵ phải thế, khi chỉ c̣n vài tháng nữa là đến kỳ thi năm cuối. Cửa ải mà nếu vượt qua được, phần số mỗi người sẽ có được nhiều chọn lựa hơn ở giảng đường đại học, và nếu có phải bước vào cuộc chiến vẫn sẽ có rất nhiều đổi khác.

Dù sao th́ chiến tranh cũng đă tới bên ngưỡng cửa trường học, khi mỗi sáng điểm danh, lại thỉnh thoảng vắng đi một người, nhất là vào ngày thứ hai đầu tuần, đám bạn bè ngoại ô, sau ngày thứ bảy, chủ nhật về quê, là gần như đi hẳn. Tụi nó nhảy núi, chúng tôi thật không hiểu v́ sao lại có những chọn lựa trái nghịch với ư muốn khi họ rất sợ phải về quê cuối tuần. Riêng bọn chúng tôi ở thành phố, lại thong dong tuần tự bước vào nghiệp lính không mảy may lo nghĩ, hay chờ đợi lên phiên. Sớm hay muộn, một hai năm, chẳng có nghĩa lư ǵ với cuộc chiến đă dài hơn tuổi đời chưa kịp lớn. Vả lại, có quá nhiều lư do để thôi thúc đám nai vàng ngơ ngác chui đầu vào ḷ thui một cách tự nguyện, khi ngoài cổng trường xôn xao cờ quạt biểu ngữ của quá nhiều đám biểu t́nh, băi khóa... đến nỗi câu khẩu hiệu thông dụng nhất mỗi khi chúng tôi được bỏ ngang lớp học, nhập vào bất cứ đoàn biểu t́nh nào là... “Hoan hô, đả đảo, muôn năm... muôn năm.” Chẳng cần phải biết hoan hô hay đả đảo ai muôn năm. Thầy giáo tóc dài dạy triết lại thỉnh thoảng bơm chút hơi hướng... buồn nôn lạc lơng, váng vất ảo ảnh về một cuộc cách mạng mà h́nh như thầy cũng chỉ mới tiêm nhiễm đâu đó, hơn là chính sự chọn lựa của thầy khi đă quá say mê dẫn đám học tṛ bơi trong những bài giảng xa vời, hỗn loạn về chủ nghĩa hiện sinh và triết học Karl Mark, để có đứa bỗng nhiên trở nên ngớ ngẩn, gật gù như một triết gia, thuyết giảng ồn ào về quyền tự quyết của dân tộc. Tự quyết ǵ? khi vẫn lạy ông Stalin c̣n hơn ông cố tổ. Tôi cắc cớ hỏi đám yêu nước thời thượng, để được chúng nó ném cho những tia nh́n diễu cợt. Có ai biết, chiến tuyến tội nghiệp đă manh nha từ ghế nhà trường?

 

Hôm Đằng bỏ học, tôi chỉ biết, lúc Mai cho tôi đọc những phân trần của hắn về một sự vắng mặt cần thiết, “trời đất bao la nhưng không c̣n một chỗ cho Đằng” khi Mai khước từ những ư định xa hơn của hắn về t́nh bạn giữa ba đứa chúng tôi. Cái thằng lậm nặng Kim Dung, tưởng ḿnh cũng mang ḍng máu Khiết Đan của Kiều Phong bỗng mất A Tử, than một tiếng vang động tới trời xanh. Oan cho tôi một điều là hắn tưởng Mai đă chọn tôi thay v́ hắn, trong khi tôi ù ù cạc cạc, ngớ ngẩn chuyện trai gái phiền toái. Tôi vẫn c̣n thích những buổi tắm sông, mệt nhoài bơi theo chuyến đ̣ ngang tan học, khoanh hai tay nổi lềnh bềnh trên những con sóng lăn tăn, nghe rong rêu ve vuốt tấm lưng trần để mường tượng những tà ào trắng trên chuyến đ̣ chiều nhập nḥa mây nước bất chợt bay vút giữa thinh không... để làm ǵ nhỉ? Tôi cũng chẳng hiểu. Nhưng một bóng dáng nào để phải lơ đễnh nh́n bâng quơ ngoài cửa lớp th́ vẫn là điều úy kỵ đối với một kẻ vừa nhỏ con và xấu trai như tôi. Cuối “bảng tường tŕnh” hắn c̣n phang một câu chúc Mai và tôi hạnh phúc? Oái oăm hơn, tự nhiên tôi lại thấy đôi mắt Mai long lanh kỳ lạ khi dí vào mắt tôi đoạn văn của kẻ sắp bước lên đoạn đầu đài. Tôi vẫn đinh ninh hắn nhập vào một khóa sĩ quan nào đó thuộc hải lục không quân, để sau một hai năm trở về với áo quần đại lễ, mắt nh́n thẳng về phía trước, dáng kiêu bạt bất cần đời cũng đủ để... Mai ân hận, và đủ để tôi kính cẩn chào ngài cho sướng chí phục thù, dù tôi chẳng có xơ múi ǵ trong những oan khiên của hắn.

 

Một năm rồi hai năm, tôi không có cơ hội để báo cho hắn biết, khi Mai hồn nhiên bước lên chuyến xe lộng lẫy của một buổi chiều hồng tươi pháo cưới. Đến lúc đó, tôi mới chợt ngẩn ngơ, chợt biết cũng như hắn, tôi đă vuột mất khu vườn thần tiên thanh thoát... mà có khi tưởng như đă của ḿnh! Để rồi khu giảng đường nh́n ra bờ sông bỗng trở nên trống vắng, tan hoang hơn theo những biến động dồn dập tới lui qua từng nhịp cầu xám dần nắng bạc, những bước chân cuồng nộ của đám biểu t́nh dần đưa thành phố vào cơi chết, bàn thờ cũng xuống đường cùng với xe pháo ngược xuôi, tôi chẳng thể nào hiểu nỗi cảnh bát nháo, dữ tợn của những thằng bạn học với băng xanh băng đỏ trên tay áo, hăm hở chạy theo chiếc vespa bạc phếch màu sơn của ông thầy triết hippy thuở nào, phân phát những tờ báo sặc mùi giặc cỏ, cổ vơ cho một kiểu Trung Kỳ Quốc ly khai tự trị, mà có lẽ Tổng thống hay Thủ tướng ǵ đó cũng chỉ là Thầy, hay một vị giáo sư họ Hồ, họ Tôn nào đó của viện đại học đă không c̣n là chốn cửa Khổng sân Tŕnh. Những vị giáo sư đáng kính mà danh tiếng và sự thành đạt của gịng họ không hề v́, từ, hoặc cho đám dân đen nghèo khó, khi họ vẫn luôn tách biệt trong tháp ngà quư tộc, ban phát sự ngưỡng phục cho mọi người từ những ngựa xe, tước vị. Những ngựa xe, tước vị có từ cơm áo ngoại bang. Nay miếng đỉnh chung h́nh như lại được ngoại bang mới bày bàn bánh vẽ, nên các thầy đă mạnh miệng đốc xúi đám học tṛ, giương cờ quyết tử, học sinh quyết tử, sinh viên quyết tử, đ̣i xé rách thêm một miếng trên quê hương vốn đă đau với lằn dao Bến Hải.

 

Tôi may mắn được cơn lốc hỗn loạn đó cùng với ngọn băo hiu hắt của Mai thổi bay ra khỏi giảng đường để đi vào quân đội. May mắn, v́ nếu chậm chân một năm sau, khi đám cuồng khấu trở về cùng với “Thầy” giết ngon lành sáu ngàn mạng người, những người đă từng là bạn học, bạn cùng xóm, bạn đá banh, đánh bi, đánh đáo, là học tṛ của Thầy, nhưng không cùng một lư tưởng bán nước như Thầy và lũ chạy hiệu. Thưa Thầy! Đến bây giờ, Thầy vẫn là một kẻ mang trọng tội, là một vết nhơ của lịch sử, dù Thầy có dư khả năng biện bác, chạy tội của một người ngồi trên lư của kẻ thắng. Và cho dù Thầy có chết. Thành phố nhỏ có năm nào quên khói hương cho mấy ngày Tết mới, đă măi măi là bản án trĩu nặng trên chút lương tâm nào đó c̣n sót lại, không phải chỉ của Thầy, mà ngôi từ đường thầy hưởng hương khói, cũng phải biết ăn năn. Thầy biết xứ ḿnh mà, họ đay nghiến không phải chỉ bằng đôi mắt ngó.

 

Vậy mà Đằng đi lính, thay tên đổi họ để thoát khỏi tài nguyên sĩ quan, làm một người lính lặng lẽ tự ḿnh khoét sâu vết thương, tự ḿnh cay đắng với quá nhiều điều hoang tưởng, như Đằng vẫn thường hoang tưởng trên những bài thơ viết đều trên các báo văn học tôi vẫn được đọc mỗi tháng. Cái bút hiệu của hắn, mang tên ba đứa chúng tôi Vương Đằng Mai, dù bây giờ đă không c̣n chữ Vương, tên tôi đứng trước, nhưng dấu đâu được giọng thơ u uất, kiêu bạt của một kẻ đă tự đăng cáo phó, ngồi đọc bản tin ḿnh chết trận, bật giọng cười khan thâm thẩm, đếm trên đầu ngón tay để biết mặt bằng hữu nào c̣n chia lời ai điếu.

“Ta đứng đầu rừng, ngu như loài cỏ dại

Hứng hết mặt trời

Đốt cháy cơi nhân gian

Để biết đâu em sẽ qua như là gió

Vướng hạt tro buồn

Cay mắt tiểu thư...”

 

Thơ của hắn, mang măi một mặt trời cô quạnh, một mặt trời hừng hực khát khao, cực đoan và tuyệt vọng. Vết thương đầu đời không ngờ mỗi ngày một mênh mông không bến...

Anh uống say sưa

Những giọt nắng thừa rơi qua kẽ lá

Gọi gió về

Cho nắng rụng nhiều hơn

Từ những cành cao chưa một lần với tới

Nắng rụng vô vàn, anh uống đến ngất say...

 

Cũng may hồi đó, khi đọc mẩu tin buồn trên báo, tôi tưởng Đằng chết thật, và có lẽ bài viết ngắn tôi dành cho hắn, trên tờ Nghệ Thuật của ông Viên Linh- Mai Thảo (Vương Đằng Mai - Những người viết mới. Tuần báo Nghệ Thuật. 1966, không nhớ rơ số) đă kéo hắn chịu ngồi xuống với tôi, để nói những điều tưởng chừng như đă chết. Như một Trần văn Đằng đă biến mất trong tất cả hồ sơ lư lịch, để bây giờ hắn gặp tôi với một tên rất lạ Hạ sĩ Trần Hiếu Địch.

Không ai trong đơn vị biết những gịng thơ đầy ấp nắng si t́nh là của Đằng, hạ sĩ Trần Hiếu Địch sống lang bạt như một hảo hán bất cần đời, mà Cao Bá Quát có sống lại cũng chưa chắc đủ sức nằm bên hũ hèm để xuống bút những vần thơ đánh động tận cơi xa xôi của những niềm riêng bi phẫn. Niềm riêng từ cơi hy vọng thâm sâu lẫn niềm tuyệt vọng. Hắn không thể quên Mai, và t́nh yêu đó vẫn như một mặt trời rực lửa hắn ngày ngày cắn trong răng xông vào cơi chết.

Cho đến thời điểm đó, cả tôi và hắn vẫn chưa biết ǵ về cái chết của vợ chồng Mai. Măi bốn năm sau, một ngày đầu Xuân, tôi hối hả băng đồng từ vị trí đóng quân về thành phố cũ, ba lô trĩu buồn những bài thơ và bóng mặt trời của Đằng, cố gắng t́m đến khu vườn xưa vẫn vàng hoa sứ, và cụm Mai tứ thời ráng đỏ sắc chiều trôi, th́ Mai đă không c̣n nữa. Hai vợ chồng đă cùng chung số phận với sáu ngàn người chết tức tưởi đầu Tết Mậu Thân. Chuyện tưởng như Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Tôi t́m Mai cho hắn hay t́m Mai cho tôi? Những gịng thơ của hắn có mang hộ tôi lời tự t́nh câm nín? Hắn c̣n hơn tôi là đă nói và đă mất. C̣n tôi? Giọt nước vô t́nh vẫn rơi giữa trời không.

Tôi cố thuyết phục Đằng về một khóa sĩ quan để hắn tạm quên cơn binh lửa đang cuốn hút đơn vị vào những cuộc hành quân tất bật.

- Nếu muốn, bây giờ tôi đă là Tiểu đoàn trưởng của Thiếu úy!

Hắn vẫn gọi tôi với đầy đủ cấp bậc, dù đă nhiều lần tôi phải nài nỉ:

     - Thôi Đằng à! Cần ǵ phải thế! Sao mầy không gọi tao như hồi đó?

     - Khi nào giải ngũ, ḿnh sẽ tính lại vụ đó.

Cánh bay chao nghiêng để những triền núi tím sẫm mây chiều bỗng bập bềnh ngoài ô cửa. Tôi dựa lưng vào balô của Đằng, hắn vẫn hí hoáy viết suốt chuyến không vận từ Nam ra Bắc.

- Này ông bạn! Xứ ḿnh mùa nầy hiếm thấy mặt trời lắm đó!

     - Ḿnh sẽ vẽ nên mặt trời. Nhất là...

 

Hắn bỏ lửng câu nói rồi nh́n đăm chiêu vào khoảng tối mập mờ tận đuôi tàu. Cuộc hành quân đang mở về quê cũ, như tôi và Đằng vẫn hằng mong đợi. Là đơn vị tổng trừ bị của Quân đội, chúng tôi đă vác balô ngược xuôi khắp miền chinh chiến, nhưng trở về để được nh́n gịng sông đă êm đềm trôi hết thời thơ ấu của cả hai đứa, để có thể ngập ngừng lướt xe nhanh qua khu vườn nhỏ ngập tràn những bướm hoa niên thiếu, và nhất là để bước vào căn nhà rêu phong ẩn khuất sau hàng bông cẩn, nh́n lại tấm ảnh bán thân Mai vẫn treo bên cửa sổ... dù “đôi mắt người Sơn Tây đă u uẩn theo chồng.” Chúng tôi đă mất hơn bốn năm để có ngày về mong manh đó. Khi nhận phóng đồ hành quân từ đại đội, tôi đă reo mừng như một đứa bé, t́m ngay Đằng để nói với hắn thật nhiều dự định. Nhất là phải trầm ḿnh một buổi xuống gịng nước óng ánh mặt trời trên từng con sóng nhỏ, chịu phép thánh tẩy dành cho hai đứa giang hồ lưu xứ, cuốn trôi những phong trần lang bạt và cả những u uất một thời đă chín mùi theo lửa đạn. Để sẽ cất giọng cười sảng khoái, khà một chung “tửu phùng tri kỷ.”      

Giao máy cho ông thượng sĩ già lên ngồi phía trước cạnh tài xế, tôi đứng trên thành xe cùng với hắn. Đoàn quân xa đang vượt qua chiếc cầu xe lửa phía tây thành phố, những thanh sắt đen một màu đổ nghiêng xuống gịng sông đang ôm lấy nền trời trong vắt, như lung linh nấc thang bước xuống thủy cung rong rêu xanh thẫm phía xa kia, phía những nhịp cầu trắng bạc băng qua thành phố. Ôi mặt trời lên ḱa, Địch, mỗi khi quưnh quáng tôi vẫn kêu tên lính của hắn, mặt trời sớm mai tươi tắn một ṿng cung trên bức tranh lụa, nhịp cầu cong nghiêng như nẻo quay về của thật nhiều kư ức, h́nh như có ba chiếc xe đạp đi học sớm... tôi th́ khi nào cũng rướn ḿnh trên pédal vượt dốc cầu lên phía trước, để nuốt trọn khoảng không gian mở ra bát ngát dưới ḷng cầu, nghe mùi rong man man tưởng như theo gió đến từ đại dương xa khuất. Hắn chậm răi nhường Mai lên dốc, không biết tà áo, mái tóc, ṿng bánh xe, hay tiếng reo tí tách từ những nan hoa xe đạp của Mai là nguồn thơ cho hắn...

Mai em nhung lụa qua cầu,

Ta loay hoay giữa rối mù cuộc vui

Khi về gió vắng áo ai

Sông bâng khuâng bóng mờ phai hương người.

Tôi ngâm khẽ bài thơ buồn hắn viết những năm c̣n đi học, để bất chợt thấy đôi mắt đỏ hoe của Đằng đang nh́n đăm đăm về phía mặt trời, khi chiếc quân xa gầm gừ khuất dần dưới những tàn cây ngược đường số một, ngược về mặt trận phía bắc đang đang ngút lửa chiến chinh.

 

Mục tiêu cuộc đột kích là một chốt mạnh, vừa là đài quan sát của địch, nằm sâu trong vùng thượng sơn, trên một đỉnh núi, cách căn cứ hỏa lực gần nhất của quân ta hơn mười cây số về phía tây bắc. Tin t́nh báo và giải đoán không ảnh c̣n cho biết, rất có thể, đầu năo của các đơn vị pháo Bắc quân đang trú đóng quanh khu vực nầy, chuẩn bị cho một kế hoạch phủ toàn bộ khu vực mặt trận, cũng như phần nửa phía bắc thành phố, trong một cuộc bắn phá dữ dội của pháo binh, tạo kinh hoàng và hỗn loạn để dọn đường tấn chiếm bằng các đơn vị bộ binh và chiến xa đang chờ sẵn bên kia giới tuyến. Khi họp ở đại đội, tôi đă biết tất cả những khó khăn sẽ gặp phải, v́ yếu tố bất ngờ, cũng là sở trường chiến thuật của đơn vị là đổ bộ chớp nhoáng bằng trực thăng vận khó mà thực hiện được khi hướng vào duy nhất, nằm dọc theo lưu vực của một con suối chạy dài giữa thung lũng đă bị khóa chặt bằng một hỏa lực pḥng không hùng hậu, mà ngay cả máy bay trinh sát vơ trang OV 10 của Hải quân Mỹ cũng bỏ chạy té khói huống chi mấy chiếc HU nặng nề quân đổ bộ. Thế nhưng, đó lại là giải pháp khả thi duy nhất khi vị trí đột kích nằm quá xa căn cứ yểm trợ, v́ thế, phải chấp nhận hướng bay xa hơn, vượt qua đỉnh núi cao ṿng sau lưng địch rồi bất ngờ chụp xuống từ mặt dốc dựng đứng phía tây, đây cũng là hướng rút dự pḥng nếu đường không vận bị trở ngại. Đáng lẽ, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng nếu các đại đội trinh sát của sư đoàn kịp tới vùng hành quân, v́ đó là “nghề của chàng.” Nhưng họ đang bị cầm chân tại các mặt trận Komtum và An Lộc. Chúng tôi là tiểu đoàn đầu tiên, cũng vừa rời mặt trận An lộc, tăng phái ra chiến trường cực bắc, và theo như ư niệm của bộ tư lệnh vùng, cuộc đột kích nầy nhằm đạt hiệu quả tâm lư hơn là giá trị chiến thuật, khi cần chứng tỏ với địch, cũng như với đồng bào về sự hữu hiệu của các đơn vị tổng trừ bị vừa được tăng phái đến, để không c̣n ám ảnh về những ngày Xuân tang tóc năm nào.

Chúng tôi có hai ngày để chuẩn bị, nhận dạng các vị trí, hỏa điểm và cách bố trí của mục tiêu trên sa bàn được lập theo không ảnh, với tỷ lệ một trăm phần trăm khu vực trung tâm, gồm có tám căn hầm chữ A và hai vị trí pḥng không rơ mồn một trên h́nh chụp. Hai con gà cồ nầy, chúng tôi phải mang về làm quà tết, không biết quà tết cho ai, nhưng chắc chắn phải mua bằng giá máu. Và quan trọng nhất là thực tập cách đánh đổ bộ, xáp chiến bằng claymore, M16, và rút quân ngay lập tức, chiến thuật thần tốc nầy đă được các đơn vị trinh sát sư đoàn sử dụng và giáng cho các đơn vị Bắc quân những cú tát bất ngờ, nẩy lửa tại các đỉnh núi kéo dài từ Komtum lên Vơ Định, Tân Cảnh.

Trong hai ngày chuẩn bị, phải tập gói “bánh chưng”, mỗi trái claymore kẹp thêm mười thỏi TNT để tăng sức công phá, thẩy và giựt để dây ḿn xếp theo dạng dây xoa dù T10 bung ra nhẹ nhàng, tập nhấn nút chính xác để khi cái “bánh chưng” vừa lọt xuống công sự địch là kích hỏa. Sở dĩ không sử dụng lựu đạn, v́ thời nổ không đủ nhanh và chính xác, địch có thể chụp, ném lại, gây khó khăn cho đơn vị đột kích. Mỗi người chỉ đeo ba trái làm quà xuân cho những người khách không mời mà đến, hai mươi băng đạn, hai bịch gạo sấy, bi đông nước và poncho. Thời điểm được quyết định vào đúng rạng sáng ba mươi

 

Mọi việc chuẩn bị coi như hoàn tất, đêm trước khi lên đường, tôi ngồi với Đằng, nhiệm vụ đă rơ ràng cho mỗi một người theo vị trí và trách nhiệm trong đơn vị. Tôi chẳng giao thêm gánh nặng nào cho Đằng, nhưng sao vẫn cứ băn khoăn bứt rứt. Khi tôi về trung đội th́ Đằng đă ở đó, tiểu đội khinh binh gồm tám người kể cả Đằng luôn luôn đứng trước mọi hiểm nguy trên tất cả mặt trận. Và tôi, trung đội trưởng đă luôn luôn theo sát, chia xẻ và cùng quyết định với họ tất cả mọi t́nh thế, v́ thế sự an nguy của bản thân không hề khác biệt giữa người nhảy xuống từ chiếc trực thăng thứ nhất, và chiếc thứ hai, thứ ba, hay chiếc cuối cùng.

Hương mai rừng thoang thoảng ngoài cứ điểm, nhắc nhở chúng tôi về những phong bao ĺ x́ đỏ thắm trẻ thơ, bếp lửa giao thừa reo vui ngày mới lớn, thùng bánh chưng cháy khét ngượng ngùng của cả ba đứa... Tôi chẳng hiểu tại sao có thể ôm đầu, bó gối ngồi ngủ ngon lành, khi cùng Đằng và Mai nhận canh thùng bánh chưng chung cho cả ba gia đ́nh đêm ba mươi tết, chẳng biết đứa nào ngủ trước, đứa nào ngủ sau, nhưng khi chợt thức giấc th́ bếp lửa chỉ c̣n âm ỉ khói, và thùng bánh th́ ôi thôi, chỉ c̣n một mùi khê khét nặc nồng... Tôi biết, Đằng cũng đang nghe thoang thoảng hương mai. Tôi biết, Đằng cũng đang đắm ḿnh trong cơi hồi tưởng xa xôi êm ái. Tôi biết, chỉ c̣n một ngày để bước vào năm mới, và cũng chỉ một ngày nữa thôi, để biết có c̣n không, những dự định chưa thành.

 

Trung đội, làm ǵ c̣n đủ lính để gọi là trung đội, khi chúng tôi chỉ có mười tám người, lên vừa đủ ba chiếc trực thăng, hai chiếc trừ bị không chở quân và hai gunship hộ tống. Đằng lên chiếc thứ nhất, tôi đi chiếc thứ hai, phần c̣n lại của trung đội đi chiếc thứ ba. Chúng tôi chỉ có ba mươi giây để rời tàu, mười lăm phút tấn công, thanh toán mục tiêu, và, một phút để lên tàu trở về. Hy vọng mấy ông Pilot hào hoa, đủ gan dạ để xuống trúng chỗ, nhất là khi trở về. Toán trực thăng bốc cao, bay vượt về phía tây, nơi những triền núi dựng đứng lẫn trong sương mai mờ đục, những ngọn cây lướt nhanh dưới thân tàu như muốn quất mạnh vào sáu đôi chân đang đong đưa hai bên thành cửa, tàu nghiêng cánh hướng vào mục tiêu.

Theo kế hoạch đă thực tập, toán thứ nhất đổ xuống phải dứt điểm hai vị trí trung tâm, toán thứ hai đánh bung lên mặt bắc, toán thứ ba đánh dạt xuống phía nam. Phi hành đoàn sẽ bay cover đúng ba ṿng quanh mục tiêu rồi đáp xuống nếu chúng tôi c̣n sống và mở khói vàng. Mục tiêu rơ dần trong thoang thoáng hơi sương, với cái lạnh và ẩm ướt của mịt mù rừng núi chưa tỏ ánh mặt trời, trong chăn ấm cuối đông, có lẽ đơn vị địch không thể ngờ tử thần đang ập đến, nên chiếc thứ nhất của Đằng trút quân nhanh chóng, máy bay vừa cất khỏi mục tiêu đă thấy nháng lên bốn chớp lửa và ầm ́ tiếng nổ công phá của ḿn claymore, chúng tôi nhảy bung ra khỏi thành tàu, không chờ chạm đất để tàu ngon trớn cất bổng lên nhanh chóng, rồi xông lên phía trước  nhường chỗ cho chiếc thứ ba đổ quân đánh tấp ngược về phía sau. Người hạ sĩ quan xạ thủ phi hành thấy cây pḥng không 12 ly 8 nằm lật gọng cạnh thân tàu, nhanh tay nhảy xuống dỡ gọn thẩy lên mới chịu cất cánh. Chiến trận tràn ngập những tràng M16 thanh toán mục tiêu và tiếng nổ đanh gọn của claymore nổ ập xuống từng căn hầm đang ngái ngủ... Nhanh, nhanh hơn nữa... Nhanh hơn nữa, những trái ḿn tung xuống miệng hầm, dây ḿn bung ngọt lịm đủ khoảng an toàn cho kịp nhấn ng̣i nổ, từng căn hầm nổ tung với gỗ, đá, và cả xác người. Không một tiếng súng kháng cự. Chẳng phải anh hùng, tráng sĩ ǵ đâu, đă đổ xuống đây rồi th́ phải đánh, phải giành phần sống sót, phải tận dụng hết khả năng và sự hung bạo của chiến tranh. Phải cướp và giữ chặt thời cơ. Phải gh́m địch dưới những căn hầm. Phải la hét chửi thề. Phải đứng xổng người lên mà bắn, rướn cao lên mà ném ḿn, chúc mũi súng xuống miệng hầm mà tặc tặc... tặc tặc... Đm bung ra nhanh lên, cờ trắng hả? khỏi... khỏi... mạng giữ chưa xong, sức đâu mà bắt tù binh... Đm bắt về nó khai tùm lum, mất công lội, Tết nhất tới nơi rồi. Ê! nói ǵ kỳ vậy... tôi chưa kịp hét với thượng sĩ Sáng th́ cây cờ trắng đă bắn tung lên cùng với căn hầm. Có ai muốn lên trực thăng bay vào chỗ chết lúc năm cận tháng tàn? Lên rồi, bay rồi, tới rồi, th́ phải xuống. Xuống rồi th́ phải đánh. Không lẽ xuống đó, đứng như trời trồng chờ lănh đạn? Mặc cho tiếng máy truyền tin ồn ào sôi sục, tôi máng ống liên hợp vào vai, không có th́ giờ đàm thoại. Mọi việc sẽ được trả lời nếu tôi c̣n sống sót... Mười phút, hai ṿng bay, chỉ c̣n năm phút nữa là quay về, vậy mà trong năm phút phù du đó, chúng tôi mất Đằng.

Khi toán thứ ba vừa đổ xuống, chỉ c̣n căn hầm cuối cùng th́ cũng là lúc địch bừng tỉnh và phản ứng. Điều nầy cũng không ngoài dự tính, nhưng việc xẩy ra ngoài ư muốn là từ dưới thung lũng, họ tung quân phản kích. Lưỡng đầu thọ địch. Không c̣n cách ǵ khác là phải nhanh chóng tiêu diệt căn hầm c̣n lại trước khi quân tăng viện đối phương tới được mục tiêu. Chúng tôi đang ở sau lưng căn hầm đó, nên hướng tác xạ hoảng hốt của mấy khẩu AK không gh́m được toán của Trung sĩ Vệ, thẩy nhanh hai trái claymore lên nóc hầm và bấm nút, căn hầm vỡ toang cùng với tiếng nổ chát chúa của hai trái ḿn nổ ngoài khoảng trống, cùng lúc, địch bắt đầu pháo kích vào vị trí, v́ biết chốt của họ đă bị tiêu diệt. Tôi bung trái khói vàng và máy bay sà xuống thật nhanh, bốc gọn hai toán cùng với con gà cồ c̣n lại, chiếc thứ ba chưa kịp đáp xuống th́ địch bắn dữ dội vào hướng con tàu nên chiếc trực thăng bắt buộc phải cất cao, bỏ lại chúng tôi sáu đứa cùng với tiếng reo ḥ của địch “...bắt sống thám báo... bắt sống thám báo... hàng sống chống chết... hàng sống chống chết…” Trong nháng lửa của một trái 82 ly, tôi thấy Đằng rướn người lên và gục xuống. Hạ sĩ nhất Kim ôm lấy xác Đằng lăn nhanh xuống triền dốc trước khi đám đông Bắc quân lố nhố tràn lên. Nhiệm vụ hoàn tất, tám căn hầm nát bấy. Không biết bao nhiêu người “sinh bắc tử Nam” ở dưới đó. Hai con gà cồ cũng đă được đem về. Không việc ǵ phải kháng cự trước áp lực đông đảo ngay trong sào huyệt đối phương, tôi ra hiệu cho cả toán theo hướng rơi của Kim, buông ḿnh tuột dốc, thoát nhanh khỏi sự truy kích của địch, hướng về băi đáp dự pḥng. Tụi nó la lối kiểu đó, chứng tỏ không biết tụi tôi là ai, quân số bao nhiêu, hoặc nhầm tưởng lính thám báo sư đoàn bộ binh, và chắc là tưởng đă được bốc về hết, may mà không có thương vong nào để lại, ngoài Đằng đang nằm vắt bất động trên vai Kim, chưa biết chết hay sống.

 

Đằng không chết ngay lúc đó, vết thương  ở thành bụng kéo dài nỗi đau đớn không chỉ riêng cho Đằng. Chúng tôi cởi áo, chặt cây rừng làm cáng, thay phiên nhau khiêng, hối hả tiến nhanh về tọa độ băi đáp. Hai cây số cách mục tiêu, đường đi không phải suông sẻ ǵ, khi phải né tránh tối đa các đơn vị địch. Kim và tôi mở đường, Thum đoạn hậu, xóa dấu vết. Hải, Quư khiêng cáng, Đằng bất động, mặt tái nhợt và môi khô nứt, mấy cuộn băng cá nhân không cầm được máu. Rừng quá rậm và gai góc, dốc núi dựng đứng lởm chởm đá, trơn trợt rong rêu, và mưa lạnh. Mấy lần cáng nghiêng muốn hất Đằng và người khiêng xuống vực thẳm. Ḷng tôi như lửa đốt, ôi Đằng ơi, ḿnh đang trở về mà, ráng lên với tao, ráng lên với tao. Mặt trời lên ḱa Địch..., mặt trời lên ḱa Địch... Tôi thấy hắn mỉm cười, một nửa vành môi nhếch lên méo mó. Có tiếng trực thăng phành phạch xa xa. Nắng sớm mai chưa kéo nỗi đám sương mù đang trĩu xuống thung lũng. Kim thở hồng hộc sau một đoạn quá dài băng bờ lướt bụi. Mặc kệ, phải tiến lên thôi, phải đem được Đằng về, và hắn phải sống, không lẽ mầy chỉ quay về đây để chết hả Đằng?

 

Tôi thay Kim mở lên phía trước, c̣n một cây số mà như dài hơn hai thế kỷ, một ngàn thước hướng tới chỏm đồi thấp đă nh́n thấy dưới kia. Một ngàn thước sá ǵ da thịt rách bươm với gai mây, tre nứa. Một ngàn thước máu Đằng nhỏ xuống tong tong ướt đẫm cáng thương binh. Tôi tuyệt vọng rẽ cây, vẹt lá, nhắm hướng địa bàn càn lên phía trước. Máu nó ra thế kia làm sao sống nỗi? Cố lên thôi, cố lên thôi! Vẹt cành lá và tưởng như ḿnh hoa mắt... cả một màu vàng rực rỡ của mai, hoa mai, bất ngờ choáng ngợp khoảng rừng phía trước. Màu vàng tươi và hương mai ngào ngạt, có làm tôi khựng lại một chút, rồi hối hả tiến lên. Nhưng h́nh như Đằng đă nhận biết, hắn ra hiệu cho Hải và Quư dừng lại. Tôi nóng nảy ra thủ hiệu nhanh lên... nhanh lên. Quư vẫy tôi, rồi chỉ vào Đằng. Tôi biết điều ǵ đang đến, cắn môi nén cơn bật khóc, tao đă không cứu được mầy Đằng ơi! Rồi chống súng quỳ xuống bên hắn, bàn tay lạnh ngắt bất động trong tay tôi, máu đọng khô từng mảng trên quần, áo, băng ca. Mắt hắn nhắm nghiền nhưng môi c̣n mấp máy, đôi môi khô tái v́ mất máu và lạnh. Tôi cúi sát để nghe những điều hắn muốn. Ngón tay trỏ yếu ớt hướng về cành mai rực vàng mà hắn đă cảm nhận được qua mùi hương quen thuộc. Đằng thều thào:

    - Để tao ở đây! ...Mai...!

 

Không chờ hắn nói hết, tôi nhỏm dậy ra hiệu cho Hải và Quư tiếp tục, ráng lên, ráng lên may ra c̣n kịp. Rừng thưa rồi, chạy mau lên Quư, đổ hết con dốc nầy là tới. Năm người sống và một người chờ chết, gom hết sức b́nh sinh băng rừng vượt thoát.

Khi đến được băi đáp, clear một ṿng chung quanh rồi lên máy gọi trực thăng, th́ Đằng đă chết, trên nắp túi áo trái của hắn c̣n vương lại cánh mai rừng mong manh, chực chờ bay theo gió. Cánh hoa đă vô t́nh rơi xuống lúc băng qua khu rừng mai, đậu ơ thờ bên trái tim, trái tim cho đến lúc hết máu, vẫn quấn quít cánh hoa vàng bạc mệnh.

 

Lập Đông, Denver

Phan Hội Yên

 

 

Mục Lục 99Độ