Ngày này năm 1975, Đà Nẵng chính thức lọt vào tay CS Bắc Việt. Trong 2 tuần trước, hàng vạn người, vừa quân nhân mọi binh chủng vừa gia đ́nh của họ và dân chúng địa phương, kể cả vô số quân dân chạy từ Quảng Trị, Huế cũng như rời bỏ Quảng Ngăi, Quảng Nam, đổ dồn về Đà Nẵng t́m cách xuôi Nam. Nhưng không phải ai muốn rời Đà Nẵng cũng rời được.
BBT xin được giới thiệu Bác Sĩ Tống Viết Minh, tốt nghiệp YK Saigon tháng 6, 1972, đồng thời thuộc khóa 19 Quân Y Hiện Dịch. V́ t́nh h́nh sôi động của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, không đầy một tháng sau, Bs. Tống Viết Minh nhận sự vụ lệnh tŕnh diện Liên Đoàn 71 Quân Y, Đà Nẵng và phục vụ trong Đại Đội Ngoại Thương 712.
Trong câu truyện "Mất Đà Nẵng", được trích ra từ "Một Thời Để Nhớ" của tác giả, Bs. Tống Viết Minh không những viết về t́nh trạng hỗn độn nói chung của thành phố, mà c̣n chia sẻ những quyết định không sáng suốt của ḿnh khi đă lên được thuyền nhỏ với vợ và 4 con - với con đầu 7 tuổi và con út chỉ vừa lên hai tuổi - nhưng lại quyết định không tiếp tục ra khơi v́ nghĩ gia đ́nh anh có thể đi sau bằng tàu Hải quân. Trong khi 2 bác sĩ Bạch Thế Thức và Phạm Anh Dũng, là 2 tác giả của 2 bài viết về Đà Nẵng trong những ngày cuối, đi thoát được, có lẽ nhờ chỉ một thân một ḿnh và tâm nguyện phải trùng phùng với người vợ, người yêu của ḿnh đang chờ ḿnh tại Saigon, ngược lại Bs. Tống Viết Minh bị kẹt lại Đà Nẵng cùng với cả gia đ́nh ḿnh, để không lâu sau đó, anh bị tù như bao quân nhân Miền Nam VN, và phải nhiều năm sau đó anh mới may mắn cùng gia đ́nh đến được miền đất hứa.
BBT chân thành cám ơn Bs. Tống Việt Minh cho phép Mục 99 Độ / YKH Hải Ngoại đăng bài viết của ḿnh.
Mất Đà Nẵng!
B.S. Tống Viết Minh
T́nh h́nh quân sự ngày càng có nhiều biến chuyển sau tết Ất Măo (1975). Trong khi Đà Nẵng cũng như mặt trận vùng hỏa tuyến vẫn không có triệu chứng ǵ xấu đi cả, tin thất thủ Ban Mê Thuột cùng với việc triệt thoái các lực lượng quân sự theo Tỉnh Lộ 7B nối liền các tỉnh cao nguyên trung phần Việt Nam: Pleiku, Kontum với Phú Yên đă đem đến cho người dân bao nhiêu bàng hoàng sửng sốt.
Cuộc triệt thoái không được phối hợp
chặt chẽ và điều nghiên kỹ càng của cả
một quân đoàn đi qua một tỉnh lộ bỏ
hoang từ nhiều năm được báo chí, các
phương tiện truyền thông trong và ngoài nước
tường thuật như là một sự thất
bại nặng nề. Không những bao nhiêu lực
lượng quân sự, mà c̣n cả đoàn dân chúng chạy
nạn kéo theo sau đoàn quân đă làm cho cuộc triệt
thoái rơi vào một t́nh trạng hỗn loạn gần
như không người chỉ huy.
Thay v́ chỉ kết thúc an toàn trong vài ngày nhờ vào yếu
tố bất ngờ, cuộc triệt thoái đă phải
đương đầu với bao khó khăn chồng
chất trên một con đường hai trăm năm
mươi cây số xuyên qua núi rừng hiểm trở, trái
với dự liệu đă kéo dài trong nhiều ngày. Binh
sĩ ngày càng quá mệt mỏi, mất hết tinh thần
chiến đấu. Thêm vào đó, sự bất măn và
sợ hăi đă tạo nên rối loạn ngay trong hàng
ngũ của chính ḿnh, làm cho đoàn di tản trở thành
miếng mồi ngon cho đối phương trong các
cuộc tập kích. Cộng quân đă phối hợp
lực lượng kịp thời để nắm
lấy thời cơ thuận tiện gây tử vong nặng
nề cho lực lượng triệt thoái, đến
nỗi nhiều đơn vị khi đến
được Phú Yên đă gặp rất nhiều khó
khăn trong việc bổ sung quân số trước khi có
thể hoạt động trở lại.
Minh vẫn ngày hai buổi lái xe đến làm việc
tại Trung tâm Huấn luyện Ḥa Cầm. T́nh h́nh quân
sự ở vùng địa đầu giới tuyến
không thấy có ǵ thay đổi theo sự hiểu biết
của Minh. Tuy vậy trên đường lái xe đi làm
hoặc về, Minh nhận thấy chuyển biến
mỗi ngày mỗi khác.
Từ hạ tuần tháng ba trở đi, xe cộ ngày càng tấp nập và lượng lưu thông ngày càng tăng. H́nh như dân chúng ở các tỉnh lân cận đă nhận thấy có một cái ǵ bất ổn; quá lo lắng, sợ hăi, họ đă t́m về Đà Nẵng, nơi mà họ nghĩ sẽ được an toàn hơn. Mỗi ngày Minh càng mỗi thấy tăng không những về số lượng hành khách, xe cộ mà c̣n cả vận tốc nữa. Ai ai cũng như hối hả, sợ sệt chờ đợi một biến chuyển không lường trước được sẽ xảy đến.
Dầu cố gắng giữ b́nh tĩnh cách mấy, Minh
cũng không sao ngồi yên với những ǵ chứng
kiến hằng ngày. Để an toàn cho gia đ́nh, khỏi
phải vướng mắc trong công việc, Minh quyết
định sẽ lo vé máy bay cho Hường và các con di
chuyển về Sàig̣n trong khi Minh tiếp tục ở
lại chiến đấu. Phương tiện di
chuyển duy nhất nối liền Đà Nẵng – Sàig̣n
vẫn là đường hàng không. Pḥng bán vé hàng không
Việt Nam tại Đà Nẵng chen chân không lọt. Ai ai
cũng hốt hoảng t́m cách rời xa thành phố đang
có nhiều biến động.
Sau một ngày dài mệt mỏi chầu chực với
ước vọng kiếm được cho Hường
và các con mấy cái vé máy bay về Sài g̣n trôi qua không một
kết quả, chiều của ngày thứ hai, khi Minh cùng
mọi người đang chen chúc trước các quầy
vé. Hàng không Việt Nam thông báo cho biết thủ
tướng Trần Thiện Khiêm ra lệnh ngưng bán các
chuyến bay ra khỏi Đà Nẵng, thay vào đó Hàng không
Việt Nam sẽ được chính phủ trưng
dụng vào một chiến dịch di tản dân chúng ra
khỏi Đà Nẵng trong thời hạn ba mươi
ngày.
Chính quyền không đề cập ǵ đến một
chiến dịch di tản cụ thể, trong khi
người dân từ các tỉnh kế cận vẫn tuôn
về ngày càng đông, tạo nên một t́nh trạng
bất ổn làm cho người dân càng hoang mang hơn. Thông
cáo di tản dân chúng đă không đem lại một chút nào
tin tưởng, an tâm trái lại c̣n làm cho mọi
người nghĩ đến cảnh rồi đây Đà
Nẵng cũng sẽ bị bỏ rơi như các thành
phố khác, thông cáo chỉ là kế hoăn binh để chính
quyền dùng phương tiện hàng không Việt Nam di
chuyển thân nhân và người nhà ra khỏi Đà
Nẵng.
Rời pḥng bán vé cùng Hường trở về nhà, Minh
đang phân vân không biết phải tính toán như thế nào
th́ một chiếc xe Jeep cảnh sát vội vă trờ
tới đậu trước nhà. Một vài giây thắc
mắc và nhận định trôi qua, Minh đă nhanh chóng
nhận ra người chị họ cùng chồng trên xe. Anh
phụ trách một chi khu cảnh sát ở Huế. Minh bàng
hoàng với những ǵ mắt ḿnh chứng kiến:
Mười tám người lần lượt từ xe
bước xuống! Làm sao ngần ấy người,
trẻ con và người lớn, từ ba bốn gia
đ́nh khác nhau có thể chen chúc trong chỉ một
chiếc xe như vậy! Trên khuôn mặt của mỗi
người hiện rơ nét hốt hoảng, sợ hăi và
mệt mỏi.
Họ cho biết Huế đă mất và đă may mắn
nhanh chân thoát được. Dừng chân nghỉ ngơi
trong chốc lát, kiếm một chút ǵ lót bụng, tất
cả lại cùng nhau lục đục lên
đường. Họ lại ra đi, không biết sẽ
đi về đâu, có lẽ đi về con
đường mà định mệnh đă an bài cho
họ. Bực tức và buồn chán đến cùng cực,
Minh cũng không buồn hỏi!
Mệt mỏi sau bao ngày chầu chực không hiệu
quả, bị cuốn hút vào trong cơn lốc lo âu, sợ
hăi trước t́nh trạng không những dân chúng mà ngay
cả các quân nhân từ các tỉnh kế cận xuất
hiện ngày càng nhiều trên đường phố. T́nh
h́nh xoay chiều quá nhanh, bao nhiêu biến chuyển dồn
dập xảy đến, tâm trí Minh rối loạn không c̣n
biết phải xử trí như thế nào!
Nếu một ḿnh, chỉ việc nhảy vào phi
trường, thế nào Minh cũng có cơ hội rời
khỏi Đà Nẵng, nhưng với cả một gia
đ́nh sáu người th́ quả là hết sức khó
khăn, nhất là các con của Minh hẳn c̣n quá nhỏ
dại, tuy Anh Tuấn bảy, Bích Huyền sáu, nhưng
Mộng Điệp chỉ ba và Anh B́nh vừa mới lên
hai!
Những người lính chiến đổ xô về
từ các tỉnh thất thủ, y phục xốc
xếch, tinh thần sa sút, uất ức, mặt mũi
hốc hác, bàng hoàng, họ không biết phải làm ǵ
trước t́nh thế, lại nữa không người
chỉ huy, đi lê thê lếch thếch trên đường
phố trông thật năo ḷng.
Đài phát thanh tiếng nói Hoa kỳ và BBC tiếp tục
đưa những tin tức ngày càng xấu làm nản ḷng
mọi người: Sau Ban Mê Thuột đến Quảng
Trị rồi đến Huế, Quảng Ngăi, Chu Lai,
Quảng Tín lần lượt rơi vào tay cộng
quân.
Từ ngày ra Đà Nẵng đến nay, gia đ́nh Minh
vẫn sống với người cậu vợ, vốn
là một Linh mục cai quản một họ đạo
công giáo trong thành phố từ nhiều năm qua, gia
đ́nh Minh rất quí mến ông, tuy vậy cuối cùng Minh
quyết định cùng gia đ́nh ra đi sau khi những
cố gắng thuyết phục ông rời Đà Nẵng
bị thất bại. Ông cương quyết không bỏ
rơi giáo dân, đi t́m tự do và an thân cho chính ḿnh, mặc
dầu ngoài việc coi sóc một giáo xứ, ông c̣n là tuyên úy
trung đoàn 56, sư đoàn 3 bộ binh, một đối
tượng có tầm cỡ của đối
phương.
Trưa ngày thứ sáu 28 tháng 3, nhờ ông chở cả gia
đ́nh xuống Thanh- Đức (Thanh Bồ - Đức
Lợi) một họ đạo nằm trên bờ tây sông
Hàn, từ đó Minh thuê một chiếc thuyền máy
đưa gia đ́nh ra khơi với hy vọng t́m
phương tiện thoát thân bằng đường
biển. Khi thuyền rời bến, Minh nh́n thấy binh
sĩ mang sắc phục nhiều binh chủng khác nhau
với súng ống đầy đủ ngồi trên các
ghềnh đá dọc bờ sông. Sau nầy nhiều
người cho biết họ là những cán binh Việt
Cộng đội lốt quân nhân quân lực Việt Nam
Cộng Ḥa để thực hiện những công tác
đặc biệt giao phó.
Trên đường tiến đến gần cửa
biển, thuyền gặp hai ba chiếc xà lan thật
lớn đang thả neo trên sông. Xà lan nào cũng chứa
đầy người. Xa hơn về phía cửa
biển, một đoàn ba, bốn chiếc tàu hải quân
đang đậu ở đó. Người lái thuyền
đưa cả gia đ́nh Minh đến một chiếc
đầu tàu dùng để kéo xà lan đang đậu, có
lẽ v́ boong tàu không cao dễ dàng hơn trong việc
chuyển người. Trên tàu dày đặc những
người và người: đàn ông, đàn bà, trẻ em
và có cả quân nhân.
Sau khi trả tiền thù lao cho người chủ
thuyền, Minh nhảy vội lên tàu. Mặc dầu tàu
chật như nêm, nhờ sự tiếp tay của một
vài người tốt bụng, Minh đă nhận
được qua tay người chủ thuyền và
đem được lên tàu lần lượt từ Anh
Tuấn, Bích Huyền đến Mộng Điệp. Khi
người chủ thuyền trao Anh B́nh, Minh chưa kịp
ẵm th́ đột nhiên chiếc đầu tàu kéo nổ
máy. Sức quay của chân vịt tạo thành những
lớp sóng thật lớn. Chiếc thuyền bị chao
đảo và chồng chành thật mạnh v́ nằm ngay
vị trí chân vịt. Người chủ thuyền, rất
b́nh tĩnh, một tay giữ chặt Anh B́nh, tay kia
đẩy mạnh chiếc thuyền ra xa và đă cứu
được chiếc thuyền khỏi bị nạn,
Anh B́nh khỏi bị rơi tơm xuống nước.
Hường vẫn c̣n ở trên thuyền, hoảng hốt
chứng kiến những ǵ đang xảy ra, mà cũng
chẳng có một phản ứng ǵ được
để cứu văn t́nh thế!
Thật là một phen hú vía! Thấy t́nh h́nh trên đầu
tàu kéo quá xô bồ, không một chút an toàn. Hơn thế
nữa, Minh lại không chuẩn bị bất cứ
một thức ăn hay uống ǵ cả. Sự hiện
diện của các tàu hải quân ở cửa biển làm
Minh nảy sinh một ư định khác: trở lại thông
báo cho người cậu vợ linh mục, cho giáo dân và
những người quen biết để cùng t́m cách
rời khỏi Đà Nẵng bằng các tàu hải quân
Việt Nam đang thả neo ở cửa biển. Thế
là chàng cùng Hường và các con trở lại bờ.
Người cậu vợ rất ngạc nhiên thấy gia
đ́nh Minh về lại. Càng ngạc nhiên hơn khi ông
được biết tất cả giáo dân đă bỏ
ông chỉ c̣n lại vỏn vẹn có hai gia đ́nh mà
thôi!
Hôm ấy là ngày thứ sáu tuần thánh. Sau khi cố
gắng hoàn tất nghi thức ngày lễ một cách
vắn tắt, hoàng hôn bắt đầu buông xuống, gia
đ́nh Minh lần này chuẩn bị đầy đủ
hơn, cùng người cậu và hai gia đ́nh c̣n lại
lên xe, một của Minh, một của người
cậu trở lại Thanh Đức, với dự
định sẽ cùng nhau thuê thuyền ra khơi t́m các tàu
hải quân để trốn khỏi thành phố.
Không an toàn khi phải di chuyển vào lúc trời tối
nhất là trên sông, trên biển, vả lại cũng đă
quá mệt mỏi, Minh và tất cả đă quyết
định ngủ qua đêm tại nhà một người
quen ở cạnh bờ sông Hàn, sáng hôm sau sẽ dậy
sớm để thực hiện chương tŕnh như
dự tính.
Đêm hôm đó, khi bóng tối đă hoàn toàn bao phủ
xuống thành phố, máy bay trực thăng bay vần
vũ trên bầu trời loan báo việc đặt quân
trấn và thị xă Đà Nẵng dưới quyền
chỉ huy của một sĩ quan cao cấp một binh
chủng nổi tiếng trong quân lực. Tiếng loa phóng
thanh từ chiếc máy bay trong nỗ lực cuối cùng,
nhằm đem lại niềm tin và trật tự cho dân
chúng, không làm sao át được tiếng nổ chát chúa
của hàng loạt đạn pháo kích cộng quân đang
trút như mưa xuống phi trường Đà
Nẵng.
Những trái hỏa tiễn rơi trong đêm trường
thanh vắng nghe thật rợn người làm Minh xót xa
nghĩ đến thân phận Đà Nẵng, bao nhiêu
chiến sĩ, công nhân viên chức và người dân trong
đó có Minh, gia đ́nh cùng với bao người thân yêu
đang bị bỏ rơi lại trên thành phố đang
giăy chết này. Sáng hôm sau khi thức dậy, bóng dáng
những chiếc xà lan, đầu tàu kéo cũng như các
tàu hải quân cũng đă biến mất khỏi cửa
biển Đà Nẵng đem theo bao nhiêu kỳ vọng không
những của Minh mà c̣n của biết bao người!
Nh́n cửa biển trống vắng ḷng Minh tan nát! Minh, gia
đ́nh và bao nhiêu người đă bị bỏ rơi
lại đằng sau! Minh không tin, nhưng đó là sự
thật. Thế là bao nhiêu hy vọng thoát khỏi Đà
Nẵng đă tiêu tan thành mây thành khói! Trong một nỗ
lực cuối cùng, Minh chở hai gia đ́nh tháp tùng và
người cậu chở gia đ́nh Minh. Tất cả
cùng cố gắng đi về hướng Nam vượt
qua cầu “De Lattre” để qua băi biển Mỹ Khê hay
Sơn Trà, t́m cách rời xa thành phố đang trong cơn
hấp hối.
Thật đau ḷng khi nh́n thấy bao cảnh vật xé nát
tim gan lúc Minh lái xe đi qua những con đường chính
của thành phố. Chiếc tàu Trường Thành, mới
chiều hôm trước vẫn thả neo ở ngay
cạnh bờ sông cũng đă rời xa thành phố
từ bao giờ! Khói đen đang bốc lên từ ṭa lănh
sự Mỹ. Dọc đường nón sắt, quần
áo, quân cụ, giày cao cổ của quân nhân xen lẫn
với mũ nón, túi xách, vali, guốc dép của
người dân chạy loạn vương văi khắp
nơi.
Đường phố thật vắng. Không c̣n bóng dáng
người thường dân. Các thương bệnh binh
không thuốc men, không ai coi sóc chăm nom, nhận thức được
thực trạng phủ phàng đă cố gắng tự
cứu lấy ḿnh, kẻ chống nạng, người xe
lăn, những người khác trong nỗ lực
“người mù cơng người què” họ kéo nhau đi
từng đoàn, nơi này hai, chỗ khác ba, áo quần lôi
thôi lếch thếch, hốt hoảng, tuyệt vọng;
họ lê lết trên các đường phố dọc theo
bờ sông Hàn, không biết đi về đâu!
Trước hăng Bia Larue, một số người mang quân
phục biệt động quân và thường dân đang
tranh dành khuân những thùng bia ra khỏi hăng. Họ hành
động không khác ǵ trong cơn điên loạn! Vỏ
chai và thùng nằm la liệt khắp nơi, trên
đường, vỉa hè, lối đi. Nh́n thấy
cảnh hỗn loạn, Minh không những ngậm ngùi xót
thương, mà c̣n sợ cho sự an toàn của chính
bản thân và toàn thể gia đ́nh, mặc dầu vẫn
mang bộ quân phục với vỏ khí đạn
dược đầy đủ.
Con đường đi qua cầu “De Lattre” bị phong
tỏa. Minh và người cậu phải lái xe trở
về lại Thanh- Đức (thanh Bồ - Đức
Lợi). Không c̣n biết giúp ǵ được cho hai gia
đ́nh tháp tùng, Minh và người cậu vợ quyết
định để cho họ tự xoay xở, rồi
cùng lấy thuyền vượt sông Hàn đến Nhượng
Nghiă, một xứ đạo nằm bên bờ sông của
sông Hàn, hy vọng sẽ tiếp tục kiếm
được phương tiện rời thành phố. Khi
tất cả lên đến được trên bờ phía
đông, ngoảnh mặt nh́n lại, chính mắt Minh
chứng kiến cảnh chiếc máy bay phản lực
cuối cùng rời khỏi Đà Nẵng, khoảng trưa
ngày 29 tháng Ba năm 1975. Chiếc máy bay cất cánh một
cách khác thường! Nh́n chiếc phi cơ rời thành
phố mà ḷng Minh thấy xót xa, nuối tiếc!
Tối hôm đó cùng với tin thành phố Đà Nẵng
thất thủ đài BBC cho biết những chi tiết
thật đau ḷng về chuyến bay: Trong cơn hỗn
loạn, không giữ được trật tự, số
người ùa lên quá đông, không những quá trọng
tải, mà máy bay c̣n không thể đóng cửa
được. V́ an toàn của cả chuyến bay,
người phi công đă phải dùng những chuyển
động ít khi sử dụng, cố t́nh làm cho số
người thặng dư trên máy bay, đeo ở cánh
hoặc cửa bị sức gió cuốn hút ra ngoài. Số
người rơi từ phi cơ xuống đất khá
nhiều trước khi phi công có thể đóng
được cửa, để lái chiếc phi cơ
về đến Sài g̣n an toàn. Quả là một chuyện
thật đau ḷng ngoài sức tưởng tượng
của con người!
Một người giáo dân quen biết trong vùng hứa
sẽ giúp t́m thuyền để thuê chở cả gia
đ́nh Minh và người cậu về Cam Ranh hay Sài g̣n,
đem lại một tia hy vọng cho Minh đang ṃ mẫm
trong con đường hầm đầy tăm tối và
không lối thoát.
Đêm 29 tháng Ba, nhằm ngày thứ bảy tuần thánh, khá
yên tĩnh. Không tiếng pháo kích. Trong đêm trường
vắng lặng, Minh có thể nghe thấy nhịp tim ḿnh
đập và hơi thở ḿnh phập phồng trông ngóng.
Măi đến sáng hôm sau, người nhận sứ
mệnh giao phó mới trở lại cùng với tin làm bao
nhiêu hy vọng cuối cùng vỡ tan thành từng mảnh:
Không t́m kiếm được bất cứ một ghe
thuyền nào! Tất cả mọi cố gắng
để được rời thành phố đều
trở thành tuyệt vọng. Minh thở dài năo
nuột!
Sau khi vứt đi những ǵ liên quan đến binh nghiệp, thận trọng đào hố chôn khẩu súng Colt 45 trong tiếc nuối, t́m một chỗ để cất dấu khẩu P38 bé xíu, quà tặng người anh cả trong xót xa, Minh mặc vào người bộ áo quần dân sự trong ră rời, đắng cay và chua xót!
Nghĩ đến số phận dành sẵn cho
người chiến bại, sợ rằng sẽ bị
hành quyết, v́ là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa, Minh tâm sự và giao phó mọi việc trong gia đ́nh
nhờ người cậu trông coi, nếu lỡ có chuyện
ǵ xảy ra cho bản thân, v́ nghĩ rằng không ai lại
hăm hại một người chân tu như người
cậu vợ. Minh cũng dặn ḍ Hường, ôm hôn các
con và gửi đến những lời tâm huyết, ít
nhất là cho Anh Tuấn và Bích Huyền. Thế rồi cùng
người cậu, gia đ́nh Minh lại lên thuyền
vượt sông Hàn trở về lại Đà Nẵng,
đối diện với một tương lai không
biết đi về đâu đang chờ đón!
Hôm ấy là ngày Chúa Nhật Lễ Phục Sinh, 30 tháng Ba
năm 1975.
B.S.Tống Viết Minh
(Trích “Một Thời Để Nhớ”).
--