NGÀY VUI ĐỜI QUÂN NGŨ

(tiếp theo)

 

Lê Bá Vận

(Thân tặng các bác sĩ cựu sinh viên trường ĐHYK Huế đă sống những ngày hào hùng, phục vụ với danh dự, ḷng quả cảm và t́nh thương trong ngành quân y Quân lực VNCH.)

   

                       “Lương nhân nhị thập ngô môn hào,

                        Đầu bút nghiên hề sự cung đao.” (Đặng Trần Côn.)

 

(Chàng tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt. Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đoàn Thị Điểm. Chinh Phụ Ngâm.)

 

6.    Tháng Lương Đầu Tiên

 

BS. Nguyễn Tường Vân, Y sĩ trưởng Bệnh xá bệnh viện Mang Cá Huế quen biết với tôi lúc c̣n là sinh viên YK v́ cùng là sinh viên Nội Trú bệnh viện. Tôi mới chân ướt chân ráo đến hôm đầu tiên, ông đă săn đón gợi chuyện.

BS. Nguyễn Tường Vân ḍ hỏi:

-Anh chắc có nhà ở Huế?

-Chưa, tôi đang t́m hỏi trọ các chỗ quen biết.

Sam Pan alley across river, HueBS.Vân cười thích trí:

-Thôi khỏi, anh đến ở với tôi cho vui. Đường Hàng Bè, nhà số… tôi mướn. Tôi ở một ḿnh trên lầu. Dưới lầu làm pḥng mạch, tôi coi bịnh, có một cô y tá hàng ngày đến phụ việc.

 

 Đường Huỳnh Thúc Kháng (Hàng Bè), Huế 1963

 

BS. Vân người dong dỏng cao, gầy, sắc mặt tái. Ông ăn trường trai, đạo Cao Đài. Tánh t́nh vui vẻ nhiều lúc hay nói bông đùa ‘cô này, mèo kia.’ Song coi bộ chỉ nói mà thôi.

 

Hàng ngày xe Jeep đến đón chúng tôi vào bệnh viện làm việc và về nhà.

Công việc, nơi ăn ở của tôi như vậy bước đầu xem là ổn định.

Thắm thoắt đến cuối tháng, mọi người đều trông đợi ngày phát lương. Có ông Trung sĩ tài chánh kế toán lương hướng qua bộ chỉ huy tiểu khu (múi bên kia cầu Tràng Tiền) lănh về phát tại chỗ.

 

Lương trung úy độc thân là 6 ngàn, đặc biệt nếu là bác sĩ th́ lănh thêm phụ cấp chuyên môn 2 ngàn; tổng cọng là 8 ngàn đồng mỗi tháng. Có gia đ́nh th́ lănh thêm lương vợ con. Hồi đó tôi c̣n nhớ xăng 3 đến 4 đồng/lít, tô bún, phở hai ba đồng, có tờ bạc 1 đồng, tờ bạc 2 đồng mua được nhiều thứ, lại có đồng 5 cắc (hào), học tṛ trọ học ăn cơm tháng trên dưới 500 đồng. Cuối năm 1959 tôi giải ngũ qua làm việc tại bệnh viện Trung ương Huế th́ lương khởi đầu là trên 10 ngàn/tháng cho bác sĩ chính ngạch, Bộ y tế.

 

Lănh đúng 8 ngàn tôi ngắm nghía rồi t́m giấy báo gói lại, buộc dây chữ thập. Là v́ trong đầu óc tôi chợt lóe lên một suy nghĩ độc đáo. Lúc c̣n là sinh viên y khoa tôi đă lănh lương ‘nội trú bệnh viện’ nhưng đó là hồi c̣n đi học. Nay là lương khi ra làm việc. Mà lại là tháng đầu tiên, như hoa đầu mùa, lúa đầu vụ. Nếu đem kính dâng song thân để biểu lộ tấm ḷng thành kính nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục th́ ư nghĩa to lớn biết bao. “Công cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ như nước suối nguồn chảy ra.”

 

Nhà cha mẹ tôi ở thị xă Đồng Hới là tỉnh lỵ tỉnh Quảng B́nh. Thị xă Đồng Hới ở ngay cửa sông Nhật Lệ đổ ra biển. Quê nội ở huyện Lệ Thủy tại cực nam của tỉnh, tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Tôi từ khi hiểu biết chưa lần nào về quê nội, tiện nhất là đi thuyền, gọi là đ̣ trạm, mất cả ngày, từ sáng đến chiều tối, ngược sông Nhật Lệ (lệ= đẹp đẽ, mỹ lệ) qua nhánh phụ lưu Kiến Giang rồi vào sông Lệ Thủy, 2 bên bờ đồng ruộng bát ngát, làng xă trù phú: “nhất Đồng Nai, nh́ 2 huyện.” (Hai huyện là huyện Lệ Thủy, có tên cũ là huyện Phong Lộc; có người nói ‘hai huyện’ là huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh, nằm phía bắc huyện Lệ Thủy. Tuy nhiên Quảng Ninh xưa là phủ, không là huyện.) Xă Đại Phong của Tổng thống NĐDiệm và Thượng Phong của Đại tướng VNGiáp đều nằm dọc sông Lệ Thủy.

 

http://cs.csphoto.vn/upload/image/Nhiep%20anh%20the%20gioi/mien-bac-vn-truoc-75-giaoduc_net_vn%2520%281%29.jpg    

Phà Quán Hàu, sông Nhật Lệ, Đồng Hới 1973

 

Sông Nhật Lệ rất rộng, xe hơi phải qua phà, gọi là Phà Quán Hàu. Xe lửa phải chạy lên thượng nguồn để bắc cầu qua những nhánh sông nhỏ như cầu ga Long Đại, Mỹ Trạch. Do đó ở huyện Lệ Thủy đường sắt ở chân núi và đường xe hơi Quốc Lộ 1 cạnh biển nằm rất xa nhau khác với thường lệ 2 đường cập kè. Đây cũng là trường hợp sông Gianh ở phía bắc của tỉnh Quảng B́nh. Xe lửa cũng phải rời quốc lộ 1 có phà để chạy dọc theo sông Gianh tít lên xa trên thượng nguồn. Đường xe lửa này chạy qua những cảnh núi non rất hùng vĩ.

 

Quê mẹ lại gắn chặt với thời thơ ấu của tôi. Đó là xă Đức Phổ, một xă lớn trong phủ Quảng Ninh, nằm về phía tây (phía núi) thị xă Đồng Hới, chỉ xa khoảng hai ba cây số. Lúc nhỏ th́ mẹ dắt về, lúc lớn tôi thường xuyên lên xuống, ở lại với ông bà ngoại và d́ út.

 

Ở Đồng Hới khá nhiều nhà khá giả cho con đi học Huế. Ngay xă Đức Phổ cũng có một số gia đ́nh đua đ̣i nhau, gởi con vào Huế học, tốn kém rất nhiều. Ông bà ngoại tôi cũng cho mấy cậu vào Huế học, tháng tháng gởi tiền. Ngoài Quảng th́ vào, trong Quảng th́ ra Huế. Đây là chuyện thời c̣n Pháp thuộc, trong nước thái b́nh. Mẹ tôi đă quen với cảnh tượng trong nhà có mấy cậu em đi Huế học, nghỉ hè về, hết hè đi lại, bới xách...

 

Do đó đến lượt ḿnh, mẹ tôi đă sẵn nề nếp, biết rơ đường đi nước bước, chăm chăm gởi tôi và sau đó thêm em tôi đi học xa. Thời gian bấy giờ trong nước lại có nhiều rối ren biến động: thế chiến 2 bùng nổ, quân Nhật vào Đông Dương, Mỹ ném bom vào các trục lộ giao thông, Nhật đảo chánh Pháp, VM giành chính quyền, Pháp trở lại, rồi tản cư, chạy giặc...học hành gián đoạn niên khóa dở dang. Cha mẹ tôi mỗi lần lại gởi tôi vào Huế, ra Vinh, vào Sài g̣n…không hề nản chí, chẳng ngại tốn kém chẳng nề nguy hiểm.

 

Huế 1945 - cầu đường sắt Bạch Hổ trên sông Hương bị đánh sập    http://vcomtech.net/vn/images/stories/covangquocgia1945.jpg    http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/0/02/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh_v%C3%A0_Ph%E1%BA%A1m_V%C4%83n_%C4%90%E1%BB%93ng_t%E1%BA%A1i_Paris.jpg/200px-H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh_v%C3%A0_Ph%E1%BA%A1m_V%C4%83n_%C4%90%E1%BB%93ng_t%E1%BA%A1i_Paris.jpg

H́nh1: Huế 1945- cầu đường sắt Bạch Hổ trên sông Hương phía tả ngạn bị Mỹ đánh bom sập.

H́nh2: Ngày 17 tháng 8/1945 , cuộc mít tinh của Tổng hội công chức tổ chức tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm.”

H́nh3: Chủ Tịch Hồ Chí Minh sang Pháp kư kết Tạm Ước Việt – Pháp ngày 14/9/1946.

 

Lúc cầu Bạch Hổ bị Mỹ đánh bom sập để ngăn đường tiếp liệu của quân đội Nhật th́ tôi gởi thơ về cho cha mẹ mô tả kỹ cầu bị sập ở vài nào, sa xuống nước ra sao… Lập tức cha mẹ tôi gởi thơ căn dặn tôi chăm lo học hành, đừng nói chuyện khác, có thể bị bắt v́ t́nh nghi làm mật thám chỉ điểm. Tôi nghĩ ḿnh cũng thật dại dột.

 

Điều làm tôi nhớ măi là lần đầu tiên tôi đi học xa nhà mẹ tôi khâu một túi nhỏ chứa 2 nhẫn vàng dặn tôi giữ kỹ, chỉ đem ra bán để tiêu dùng lúc gặp khó khăn. Tết đó về nhà tôi ăn uống thỏa thích. Sau Tết mẹ tôi lấy bánh in, bánh thuẫn trong nhà làm cúng Tết bỏ đầy hộp bích qui lớn để tôi đem đi, cất ăn hàng ngày. Tôi c̣n nhớ vừa đi học vừa gặm bánh mà ḷng nhớ mẹ kinh khủng luôn một tháng trời mới nguôi dần.

 

Độ giữa tháng th́ mẹ tôi từ Đà Nẵng ra Huế thăm tôi và bên sui gia.

Mẹ tôi vừa mở xách tay vừa bảo:

-Con mới ra làm việc cần sắm sửa nhiều, mạ đem ra cho con mấy ngàn đây, c̣n thiếu th́…

Mẹ tôi chưa kịp dứt lời tôi đă vội vàng ngăn lại:

 

-Thôi mạ đừng đưa, con mua sắm đủ cả rồi, không mua thêm ǵ nữa, con tiền c̣n nhiều. Họ mới cho lănh lương hồi đầu tháng, là 8 ngàn đồng. Con đă gói cất trong bọc giấy này, chờ mạ ra để đưa cả cho ba mạ.

 

Mẹ tôi thoáng ngạc nhiên:

-Con đưa chi nhiều rứa, thôi mạ chỉ lấy 2 ngàn, để con tiêu.

Bà lại cười hỏi tiếp:

-Con không mua ǵ cho L.Th. à? để dành cưới vợ nữa!

Tôi dứt khoát:

-Con c̣n phải để dành nhiều lắm, mua xe hơi, đồ dụng cụ máy móc để rồi ra c̣n mở pḥng khám bệnh… Bắt đầu từ tháng sau là con để dành, nhưng tháng đầu tiên này là con đưa cả cho ba mạ. Ư con là vậy ba mạ biết rổi.

 

Tôi biết tôi là đứa con mà cha mẹ đặt rất nhiều kỳ vọng. Thời đó ở Quảng B́nh cho con đi học Huế, Vinh mà đậu được Đíp-lôm, Tú Tài để rồi ra làm việc, lấy vợ sinh con nối dơi là ước vọng cao nhất của phần đông các bậc phụ huynh ở tỉnh nhỏ hoặc nơi làng mạc.

Sau này tôi c̣n học thêm và cha mẹ tôi vẫn lo lắng cho tôi như trước. Song bước lên bậc đại học, tôi xin được học bổng quốc gia, 500 đồng/tháng, tái cấp hàng năm đều đặn, lại c̣n có lúc tiền dạy giờ các trường tư thục về môn Sử Địa chương tŕnh Pháp, và thêm tiền lương ở bệnh viện, do vậy tôi viết thơ cho cha mẹ biết để thôi đừng gởi ǵ thêm bù đắp cho con. Đó xuất phát hoàn toàn do ḷng con cái thương cha mẹ.

 

Ḷng cha mẹ thương con th́ bao la bát ngát. Con thương cha mẹ có 2 thời kỳ, lúc nhỏ thương cha mẹ v́ bản tính trời sinh, không lư luận suy nghĩ, lúc về già khi cha mẹ đă quá văng, ngồi ôn lại chuyện xưa, phân tích rành rẽ sự việc th́ ḷng nhớ thương cha mẹ đậm đà da diết khác thường.

 

7.    Y Sĩ Trưởng Bệnh Xá Bệnh Viện

 

BS. Nguyễn Tường Vân và tôi ở chung với nhau từ ngày tôi ra Huế. Hàng ngày  xe Jeep đưa đón chúng tôi vào Mang Cá theo đường cổng Cửa Trài.

Được 2 tuần BS.Nguyễn Tường Vân xin nghỉ phép vào Nam thăm nhà, nhờ tôi trông pḥng mạch (căn nhà lầu này ở đường HTKháng về sau BS. Tô Đ́nh Cự ở.) Lúc trở ra chừng hơn tháng th́ BS.Vân có giấy thuyên chuyển về Sài G̣n. Chắc ông đă lên kế hoạch này từ lâu.

Tôi lên thay thế, làm y sĩ trưởng bệnh xá bệnh viện Huế. Dù sao trong đơn vị chỉ có một bác sĩ. Hồi đó bác sĩ ra trường rất ít và may mắn là thời b́nh bác sĩ quân y cũng chẳng có việc ǵ nhiều về chuyên môn: lính tráng là thanh niên nên nói chung vô bệnh, thương binh th́ chưa có. Vào thời điểm năm 1957 ở tại giữa Huế chỉ có 2 bác sĩ quân y, ở bệnh xá bệnh viện và ở Đại đội quân y 1, cùng ở trong Mang Cá lớn. Đại đội quân y 1 lại có thêm một nha sĩ trám nhổ luôn tay ít khi ngồi không, không những làm cho Sư đoàn 1 mà c̣n làm cho Tiểu khu Thừa Thiên và một dược sĩ coi bộ cũng rảnh rang. Chỉ ba bốn năm sau khi tôi đă giải ngũ th́ trong Mang Cá bắt đầu có nhiều bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ… và số thương bệnh binh cũng tăng nhanh chóng, có lúc quá tải, công việc làm không xuể.

 

Tôi chưa học qua một khóa hành chánh quân y nào song xem ra chưa gặp ǵ phức tạp. Đă có một ông thượng sĩ kỳ cựu rất giỏi hành chánh quen biết nhiều các pḥng ban bên bộ chỉ huy Tiểu khu Thừa thiên. Về sau lại có thêm một thiếu úy hành chánh trẻ. Có chị Hạnh Nhơn lúc đó là thiếu úy, sĩ quan tiếp liệu cũng vừa được thuyên chuyển đến. Năm 1964 chị đổi vào Sài g̣n, giữ nhiều chức vụ, cuối cùng năm1969 điều về bộ Tư lệnh Không quân và lên đến cấp bậc Trung tá Trưởng đoàn Nữ quân nhân Không quân, quân lực VNCH. Sau 1975 chị đi tù học tập cải tạo 4 năm. Truyện “Nữ Tù Nhân” của tác giả Nguyên Hạnh (tức Hạnh Nhơn) đă trúng giải ba trong kỳ thi viết về “Chuyện Người Tù Cải Tạo” do Nhật Báo Viễn Đông tổ chức. (Đặc San Nữ Quân Nhân Kỳ IV-2007, ‘Nữ Tù Nhân’. Nguyên Hạnh, trang 82.)  Hiện tại chị Nguyễn Thị Hạnh Nhơn ở nam Cali, Hoa Kỳ, là hội trưởng hội cứu trợ thương phế binh VNCH và quả phụ tử sĩ. Đạị tá Trưởng đoàn nữ quân nhân Trần Thị Cẩm Hương, con chim đầu đàn đă về hưu 1 tháng trước ngày 30/4/1975 th́ đi tù học tập cải tạo 10 năm, ra tù 1 năm sau chết v́ cơn bạo bệnh.

 

Trong gần 2 tháng làm việc cùng BS. Nguyễn Tường Vân tôi chẳng thấy ổng làm ǵ nhiều trong chức vụ y sĩ trưởng, ngoài việc đọc sách và đi lui đi tới. Buổi sáng ông cũng có xem một số công văn, chỉ thị từ bộ chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên đưa xuống và từ Nha Quân y Sài g̣n gởi ra qua Sở Quân y Đà Nẵng. Không có điều ǵ quan trọng thời đó.

 

Về đối ngoại, bệnh xá bệnh viện cũng chẳng giao thiệp với ai, chẳng có phái đoàn nào, khách khứa nào đến thăm và hầu như độc lập, chẳng ai dính dáng, kiểm soát.

Trong bệnh xá bệnh viện, những ǵ ngoài chuyên môn: kế toán, canh gác, súng ống, xe cộ, xăng nhớt, quân nhu, bếp núc …th́ đă có trong văn pḥng các ông thượng sĩ, trung sĩ, hạ sĩ ai lo phần việc nấy. Tôi trực tiếp coi sóc các trại bệnh, pḥng xét ngiệm, pḥng X-Quang, pḥng mổ. Tất cả đều sạch sẽ đàng hoàng, khang trang ít nhiều bề thế.

 

Các trại bệnh rất thoáng, không nằm giường đôi mà c̣n dư giường. Pḥng xét nghiệm làm được các xét nghiệm căn bản: đếm máu, phân loại nhóm máu, thử đàm, thử nước tiểu, t́m kư sinh trùng ở phẩn hoặc ở máu (sốt rét)… Pḥng X-Quang chủ yếu chụp phổi, xương, thận, bọng tiểu… muốn chụp bao tử cũng dễ dàng, phim chụp thừa mứa. Pḥng mổ rộng răi. Có trung sĩ Đàng gây mê tốt.

 

Trong 2 năm trời ở Mang Cá tôi mổ 2 lần viêm ruột thừa, một lần sạn bọc mật, sạn bọng đái, không có trường hợp nào chữa trị thương tích chiến tranh như là khâu vết thương, gắp mảnh ḿn, đạn vào người, vào bụng, mổ găy xương, cắt tay cưa chân… Về bệnh tật đơn giản chỉ là cảm cúm sốt rét, ho, nhức đầu, đau dạ dày, bụng… và một trường hợp tử vong duy nhất: một binh sĩ lên cơn uốn ván (tetanus) và từ trần.

 

Cũng có một lần tôi suưt mổ cho một người Mỹ vào cuối năm 1957, chuyện này hi hữu tôi c̣n nhớ măi. Năm 1957 ở Bệnh xá bệnh viện Mang Cá, Thành nội Huế, vào buổi sáng có một người Mỹ trạc 30 tuổi, mặc đồ dân sự, làm việc đâu gần đó? tôi không ṭ ṃ hỏi gốc gác làm ǵ, bỗng đến kêu đau bụng đă nửa ngày, t́m bác sĩ nhờ khám. Sau khám, chụp phim bụng và xét nghiệm máu tôi bảo là viêm ruột thừa cấp, mổ càng sớm càng tốt và nếu muốn th́ tôi có thể mổ ngay liền tại đây, trong buổi sáng. Đương nhiên là tất cả đều không tính tiền. Thời đó trước năm 1975 mọi bệnh viện công, dù dân y dù quân y đều điều trị bệnh nhân, xét nghiệm đủ thứ, mổ xẻ, thuốc men, ăn uống đầy đủ, áo quần, pḥng ốc nhất nhất đều cho không, miễn phí hoàn toàn.

 

Ông Mỹ này coi bộ tin tưởng bác sĩ Việt Nam mang lon trung úy quân y, vui vẻ đồng ư kư giấy xin mổ. Pḥng mổ chuẩn bị dao kéo sẵn sàng. Ông Trung sĩ Đàng, gây mê và ông Thượng sĩ Du, hành chánh đến phút chót bàn với tôi:

-Tụi Mỹ tính mạng nó lớn lắm. Mổ nó sợ cấp trên khiển trách. Hay là ta thông báo gởi trả nó cho họ xem sao!

 

Tôi nghe có lư, dẹp mổ, điện thoại cho Tiểu khu để họ nhắn tin cho phái đoàn cố vấn Mỹ ở đâu đó. Nửa giờ sau có xe cứu thương đến chở người Mỹ ấy đi ngay.

 

Chuyện mổ xẻ, gây mê, nhiễm trùng sau mổ có nhiều bất trắc khó lường trước được. Không phải phận sự, lanh chanh có thể bị vạ vịt, ách ngoài đàng quàng vào cổ.

 

Mổ ruột thừa viêm khi dễ th́ quá dễ, vừa rạch da bụng nó đă nhào ra, tha hồ cắt buộc. Lúc khó th́ đổ mồ hôi hột với nó, vị trí nó nằm bất thường khó t́m hoặc dính cả vào một đống viêm sưng khó phân biệt, khó tách rời…(trích LBV “Bát Canh Toàn Quốc”, Đặc San YKH 2009.)

 

Tôi lại 2 lần làm chủ tịch hội đồng giám định y khoa xét miễn dịch cho quân nhân thương bệnh binh. Thương binh loại 1 được trả về đơn vị chiến đấu, loại 2 làm việc nhẹ, loại 3 ra hội đồng miễn dịch.

 

Lần đầu vào khoảng tháng 3 năm 1958, hội đồng họp tại bệnh xá bệnh viện Huế gồm 3 thành viên: tôi bác sĩ là chủ tịch hội đồng, một thượng sĩ và một trung sĩ phụ tá, tất cả đều thuộc bệnh xá bệnh viện. Chỉ chừng đó ba thầy tṛ để xét cho khoảng gần 20 hồ sơ thương bệnh binh được đưa ra hội đồng miễn dịch. Các người được đưa ra xét đều thuộc cấp thấp trong quân đội: lính, hạ sĩ quan, cấp úy nhỏ. Cấp bậc lớn hơn không có hoặc được xét ở một hội giám định y khoa cao hơn?

 

Hội đồng làm việc trong một căn pḥng b́nh thường, không trang hoàng, không trưng bày ảnh tượng, chẳng cờ quạt, khẩu hiệu biểu ngữ. Viên thượng sĩ thư kư hội đồng lần lượt gọi từng quân nhân vào và tŕnh hồ sơ bệnh án lên tôi. Tôi đọc hồ sơ, thấy cần th́ hỏi thêm, khám thêm một ít, có viên trung sĩ phụ tá. Người th́ kém sức khỏe, gầy yếu đơn thuần cho giải ngũ, kẻ khác được thêm cấp dưỡng 10%, 20%, 50% hoặc hơn v.v…tùy theo mức độ thương tật, bệnh tật mà điều lệ được ghi cặn kẽ trong cẩm nang tài liệu hướng dẫn về giám định y khoa.

 

Hội đồng làm việc khá nhanh, từ 8 giờ sáng cho đến quá 12 trưa. Quyết định của hội đồng có tính chung quyết. Tôi c̣n nhớ một anh thiếu úy trẻ người miền Nam, cao gầy được tôi giải quyết cho giải ngũ không cấp dưỡng. Anh ta mừng quá.

 

Lần thứ hai cách 3 tháng sau hội đồng giám định y khoa họp tại thị xă Quảng Trị cách Huế 59 km. Sáng sớm 7 giờ tôi cùng tài xế binh nh́ lái xe jeep trực chỉ ra Quảng Trị đến thẳng trạm xá Tiểu khu là một vài ngôi nhà nhỏ đơn sơ. Tôi là chủ tịch hội đồng miễn dịch, có 2 phụ tá là hạ sĩ quan tại chỗ. Có khoảng 15 hồ sơ thương bệnh binh ra hội đồng; công việc đến 12 giờ trưa là xong tất.

 

Tôi cùng tài xế lái xe một ṿng thăm thị xă nhỏ bé này và đây là lần đầu tiên. Đường quốc lộ 1 từ Đồng Hới vào chạy qua Đông Hà, cách Huế 66 km nhưng đi tiếp vào Huế chỉ chạy gần sát thị xă Quảng Trị.

 

Tôi đặc biệt muốn xem cổ thành Quảng Trị để so sánh với cổ thành Đồng Hới.

Cổ thành Quảng Trị nằm ở trung tâm thị xă, cách quốc lộ 1 hai cây số về phía đông và cách bờ sông Thạch Hăn 500m về phía nam. Thành h́nh vuông chu vi gần 2000m, có hào sâu, tường cao, 4 cổng h́nh ṿm có vọng lâu ở trên, cũng tương tự như thành Đồng Hới. Trong thành có Hành cung, dinh thự các quan tỉnh, đồn lính, lao xá… và có nhà dân, cổ thành nào cũng vậy.

 

Cổ thành Đồng Hới có thể lớn hơn Cổ thành Quảng Trị đôi chút nhưng quá đặc biệt v́ hai lư do: đường quốc lộ 1 (nay là 1A) nằm trong Thành, chạy xuyên vào cửa tả (bắc) ra cửa hữu (nam); đó là trường hợp duy nhất và Cổ thành Đồng Hới nằm sát biển, chỉ cách cửa biển (cửa sông Nhật Lệ) trên dưới 1 km, đứng trên thành nh́n ra biển.

 

Tính ra th́ Cổ Thành Đồng Hới có diện tích xấp xỉ Hoàng Thành trong Kinh Thành Huế. Hồi nhỏ lúc sáu bảy tuổi tôi có thời gian ở trong thành, tại góc tây nam mà sau năm 1945 lại trở thành sân vận động hồi nào tôi không hay.  Cho đến năm 1954 trước khi đất nước chia đôi theo hiệp định đ́nh chiến Genève th́ Cổ thành Đồng Hới cũng như Quảng Trị đều đang c̣n nguyên vẹn. Lúc đó tôi thấy trong thành sao mà rộng thế! Có Hành Cung, có dinh Công sứ, dinh Tuần Vũ, Án Sát, trường Tiểu học, đồn lính, lao xá, sân vận động và nhiều thứ nữa kể cả nhà dân ở. Tôi cũng nhớ rơ đường sá trong Cổ thành Quảng Ngăi có đông nhà dân cư.

 

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/3/35/34._Quang_Tri_Citadel_and_City_looking_South_Fall_1967.jpg/220px-34._Quang_Tri_Citadel_and_City_looking_South_Fall_1967.jpg    Thành cổ Quảng Trị: Những h́nh ảnh rưng rưng nước mắt

H́nh1: Thành cổ Quảng Trị (góc tư trái dưới) có đánh dấu X & 1 gócThị xă,1967

H́nh2: Ṿm cửa Bắc (cửa hậu), cửa thành duy nhất c̣n lại h́nh hài sau cuộc chiến

 

http://www.quangbinh.gov.vn/3cms/scripts/fckeditor/web/upload/Image/DuLichQuangBinh/DiTich_DanhThang/Dong_Hoi/Thanh_DH.jpg

Một góc Thành Đồng Hới

Trong trận mùa hè đỏ lửa năm 1972 kéo dài gần 3 tháng, cổ thành Quảng Trị bị phá hủy gần như hoàn toàn. Thành Đồng Hới cũng chung số phận, bị phá hủy phần lớn do lệnh tiêu thổ kháng chiến, phần c̣n lại do bom đạn Mỹ đánh phá trong thời kỳ chiến tranh trước năm 1975.

Tôi làm y sĩ trưởng được trên dưới 1 năm th́ Y sĩ Đại úy Hiện dịch Nguyễn Thế Huy, cũng là một người bạn, được bổ nhiệm về Bệnh xá bệnh viện Huế mà nay được cải tên là Chi nhánh TYV Duy Tân thay thế tôi. Nhiều tháng sau lại có thêm Y sĩ Trung úy Nguyễn Văn Đệ. Thời gian này th́ tôi đang chuẩn bị hồ sơ đệ đơn xin giải ngũ măn 2 năm trưng tập và đă được trả về đời sống dân sự cuối năm 1959. Tuy nhiên qua năm 1960 bộ Quốc Pḥng đ́nh chỉ việc giải ngũ, chỉ cho biệt phái các quân nhân về các ngành y tế, giáo dục, kỹ thuật… theo nhu cầu. Nhiều giáo sư trường Quốc Học Huế… nhập ngũ được biệt phái về nhiệm sở cũ dạy lại, sau vài năm lại có giấy gọi tái ngũ, đặc biệt sau biến cố Tết Mậu Thân đầu năm1968.

Trong lần ra Tiểu khu Quảng Trị chủ tọa Hội đồng giám định Y khoa tháng 6/1958 này tôi được nghe kể giai thoại về một Y sĩ trung úy, bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy.

BS. Bảy rất được Đại Tá Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 mến thích. Tôi không nhớ rơ là Đại Tá Nguyễn Khánh (15/12/55 – 14/8/1957) hay là Đại Tá Tôn Thất Đính (14/8/57 – 9/8/1958.)

Các người này thường ra Quảng Trị đi săn với nhau. Họ đi xe Jeep. Đại Tá Sư đoàn trưởng ngồi ở tay lái, BS.Bảy ngồi cạnh bên, hai hạ sĩ quan tùy tùng ngồi băng sau.

Người ta kể mỗi lần thấy thỏ trong bụi nhảy ra là BS.Bảy trên xe Jeep nhào xuống chụp được con thỏ ngay. Đại Tá Sư đoàn trưởng rất khâm phục tài ba của bác sĩ và rất mến thích.

Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bảy học trên tôi một lớp ở trường ĐHY Hà Nội. Hồi đó tôi biết ở ĐHY Hà Nội có 3 sinh viên miền Nam là các anh Phạm Hà Thanh (Cục trưởng Cục Quân Y VNCH sau này), Nguyễn Sáng và Nguyễn Ngọc Bảy. Anh Thanh Nội Trú bệnh viện, người trắng trẻo, dong dỏng cao, anh Sáng (ở lại Hà Nội)người tầm thước, mập, cũng Nội Trú bệnh viện, anh Bảy người cũng mập, mặt đầy đặn, cao cao. Các tên Sáng, Bảy chữ nôm là nhất định người miền Nam.

Trong tháng 12/2013 báo chí và đài thông tin ở Cali, Hoa Kỳ đều loan báo sự quá cố đột ngột của Nhạc sĩ Việt Dzũng v́ bệnh tim hưởng dương 55 tuổi. Nhạc sĩ Việt Dzũng là một nhạc sĩ và ca sĩ tài ba trong ḍng nhạc hải ngoại. Sự ra đi của ông đều làm mọi người vô cùng thương tiếc.

Đọc tiểu sử ta biết ông có tên là Nguyễn Ngọc Hùng Dũng, sinh năm 1958. Cha là BS. Nguyễn Ngọc Bảy, cựu Thiếu tá Quân Y tại bộ Tham Mưu Quân Lực VNCH, cựu dân biểu Đệ Nhị Cọng Ḥa. Chắc BS. NNBảy giải ngũ lúc đang mang cấp bậc Thiếu Tá. Và chắc chắn đó là BS. Nguyễn Ngọc Bảy năm xưa ở Quảng Trị đi săn với Đại Tá Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 1 bộ binh mà tạo thành giai thoại lư thú.

 

8.    Lái Quân Xa

 

Tại bệnh viện, chưa là Y sĩ trưởng, ngày đầu tiên thấy mấy quân xa của bệnh viện chạy lui tới, tôi đột nhiên nảy ư định phải tập lái xe ngay thật sớm. Nhưng rồi cũng phải chờ vài hôm để tạo môi trường thân thiện.

Đây là một ham thích, một ưu tiên. Thời đi học, dù học đại học tôi chỉ đi xe đạp, cũng chẳng muốn mua xe gắn máy làm ǵ, để đợi ra trường mua xe hơi luôn. Tôi c̣n nhớ mùa đông ở Hà Nội rét buốt có khi gặp mưa kéo dài mà tôi đạp xe từ học xá Trung Việt ở Hồ Tây cực bắc thành phố xuống thực tập tại Bệnh Viện Bạch Mai quá cực nam, qua hồ Bảy Mẫu và đồng ruộng gió lộng ào ào mà vẫn thấy hăng hái chẳng mệt nhọc chút nào. Nghĩ lại cũng có lư, nếu cơ thể tôi yếu đuối th́ tôi đă không thể sống đến bây giờ 60 năm sau.

 

Hồi đó các xe gắn máy Solex, Mobylette của Pháp, Puch, Goebel Sachs của Đức, Vespa  Ư… tôi đều thử qua song không mấy ham. Sau 1975 ở Huế tôi đi xe đạp như mọi người; khi chuyển công tác vào Sài G̣n tôi đi xe Honda dame (nữ.) Kể ra th́ tôi c̣n lại một xe hơi nhỏ song tôi gởi vào ga-ra, không dùng đến. Nay th́ nghe nói ai cũng cố sắm xe hơi.

 

Ra Huế làm việc chưa được 1 tuần lễ th́ tôi đă bương bả tập lái xe. Trong Mang Cá có băi cỏ trống rộng dài từ cổng đường Cầu Kho cho đến cổng cửa Trài, chẳng cần đi xa.

 

Bệnh xá bệnh viện Huế có 1 xe Jeep, 1 xe Dodge 4, 1 xe Dodge 6 sáu bánh, 1 xe GMC mười bánh và một xe cứu thương bít bùng. Chung cuộc th́ tôi đă lái đủ 5 loại xe đó.

Lái quen xe nhỏ th́ muốn thử lái xe lớn. Đến khi lái xe lớn, chạy nghênh ngang ngồi chễm chệ trên cao nh́n xuống th́ lại không thích lái xe nhỏ, chật chội thấp, cấn cái, kém thoải mái. Thói thường là thế, thích lái xe bự, vừa bề thế lại có tông xe ai th́ ḿnh cũng chiếm thượng phong.

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/1/15/Willyjeep01.jpg/220px-Willyjeep01.jpgKhởi đầu có xe Jeep mà lái là lư tưởng. Xe quân xa này mà tập lái th́ quá thuận lợi. Gọn, nhỏ, không có cửa bên khiến tầm nh́n rất rộng. Xe cứng cát xương đồng da sắt có húc vào đâu cũng vững tâm, khó trầy sơn, móp vành. Băi cỏ trong Mang Cá để tập cũng vậy, rộng phẳng vắng, có 1 con đường đất mé ngoài b́a.

Suốt tuần qua ngồi ghế bên cạnh tôi đă chú ư các thao tác của tài xế từ khi cho nổ máy, ra xe, sang số, đạp ga tăng giảm tốc lực, thắng, ngừng v.v… đại khái vận hành cũng như xe gắn máy Goebel Sachs, Vespa…tức là có hộp số, có ‘ăm bay da’ (embrayage, clutch, bộ ly hợp côn), nguyên tắc giống nhau. Xe hơi th́ chân ‘côn’, phanh/thắng, và ‘ga’ đều đặt ở sàn xe.

Xe Jeep có 3 số: 1, 2 và 3. Số 3 để chạy nhanh. Lại có số lùi (R) và số ‘0’. Các số sắp theo h́nh chữ H. Thanh ngang nằm giữa là số ‘0’. Các số c̣n lại R, 1, 2, 3 sắp theo thứ tự ở 4 đầu mút chữ H.

 

Sáng đó lúc 10 giờ tài xế binh nh́ chở tôi xuống băi cỏ, dừng lại, tắt máy, xuống xe ngồi lui lại ghế sau. Tôi bảo lên ngồi trước cạnh tôi. Tài xế tên Luận (NVLuận?), hiền lành, ít nói, chỉ biết vâng lời. Tôi ngồi vào vị trí lái, tay trái giữ tay lái, tay phải thử lắc cần số qua lại dễ dàng ở vị trí số ‘0’, mắt luôn nh́n thẳng, trong trí in h́nh sơ đồ chữ H. Mở khóa công tắc, đạp nút ‘đề’ (démarreur, starter) cho nổ máy. Thả phanh tay. Chờ vài giây.

Vào số 1: chân trái đạp lút ‘côn’ (ăm bay da), tay phải cầm cần kéo xuống số 1, mắt vẫn nh́n thẳng. Chân trái từ từ buông nhả ‘côn’ đồng thời chân phải đạp thêm ‘ga’. Xe từ từ chuyển bánh, tăng thêm tốc lực.

 

Tiếp đó lên số 2: đạp ‘côn’, trả cần về ‘0’ rồi đẩy liền lên số 2, chân trái từ từ buông nhả hoàn toàn ‘côn.” Chân phải nhấn thêm ‘ga’.

Tóm lại mỗi lần thay đổi lên số hoặc xuống số đều phải tác động lên ‘côn/ăm bay da’ để tạm thời cách ly nơi máy và hộp số nối nhau. Cũng tương tự ở xe gắn máy, mô tô.

 

Suốt một tiếng rưỡi tôi tập cho xe chạy lên số 2, về số 0, lên lại số 2, về số 0…cứ thế măi. Xe đang di chuyển chạy có đà, không cần về số 1, hơn nữa lúc xe đang chạy dù chậm cũng rất khó vào số 1 cho bằng được. Mỗi lần đổi số th́ trước tiên là đạp lút ‘côn’, sang số xong là nhả ‘côn’ từ từ để xe khỏi giựt. Nhả ‘côn’ nhẹ nhàng là cả một nghệ thuật. Xe đang chạy, không rà ‘côn’, chân trái phải rời hẳn chân ‘côn’. Khi muốn xe ngừng th́ chân phải đạp phanh/thắng, chân trái đạp lút ‘côn’, để xe khỏi tắt máy, rồi kéo cần trả về số 0, chân trái nhả ‘côn’. Xe đứng hẳn muốn chạy lại phải gài số 1, nếu c̣n chạy đôi chút th́ từ số 0 gài thẳng lên số 2. Cách này chạy với số 0 và số 2 là rất tiện khi cần lái xe chậm, giữa đám đông, lúc lái xe đường nghẹt, lái xe đưa đám ma, theo đám rước… Nếu xe chạy đường trường th́ chạy lên xuống giữa số 2 và số 3.

 

 Các xe gắn máy mobylette, Honda dame có ‘ăm bay da’ tự động. Xe chạy nhanh th́ tự động sang số cao và ngược lại. Xe hơi ở Bắc Mỹ gần như hầu hết là xe có hộp số tự động, do đó không có chân ‘côn’ và chân trái người lái được nghỉ ngơi hoàn toàn. Thỉnh thoảng cũng thấy một vài xe sang số tay. Xe hơi ở Âu Châu th́ đang c̣n thiết kế với hộp số tay như hồi nào. Tôi c̣n nhớ hồi năm 58, 59 ǵ đó ở Huế có một ông đại úy có 1 xe hơi màu đỏ nghe nói là xe ông ta trúng số hoặc mua lại, xe có hộp số tự động, không có ‘ăm bay da’, ai nghe cũng lấy làm lạ. Tuy lái xe hộp số tự động lúc xe chạy chậm hoặc ngừng khi gặp đèn đỏ rất thuận lợi, không cần đạp ‘côn’ lên xuống số song trong thâm tâm tôi vẫn thích lái xe có hộp số tay (manual transmission/gear box) hơn. Đạp ‘côn’ sang số không có vấn đề và chân trái có việc để làm, thấy hay hay, rất nghệ thuật khiến xe tăng giảm tốc nhẹ nhàng, không giựt và ḿnh cảm thấy tự hào.

 

Qua ngày thứ nh́ tôi tập lên xuống giữa số 2 và 3 cũng như số R lui xe.

Ngày thứ ba tôi lái xe ra cổng Mang Cá và chạy xe loanh quanh các đường vắng trong Thành.

 

Ngày thứ tư tôi chạy xe ra cửa ngăn, lên cầu Bạch Hổ rồi quay lui chạy xuống phố, vào đường Hàng Bè, vô cửa Chính Đông, trở về Mang Cá.

 

Ngày thứ năm tôi lái xe qua cầu Tràng Tiền, lên dốc Nam Giao, xuống dốc Bến Ngự, xuống An Cựu rồi quay về cầu Tràng Tiền, vào cửa Thượng Tứ, trở về Mang Cá.

 

http://www.vnafmamn.com/VIETNAM%20WAR/white_mice6.jpgNhư vậy là “đại công cáo thành.” Lái xe hơi ở Huế trong thành phố dễ ợt, chạy nhanh chậm tùy ư, không có bảng dừng (stop), không có đèn giao thông xanh vàng đỏ, chạy miết chẳng dừng tại ngă tư nào, xe hơi coi như có ưu tiên. Họa hằn, vào giờ cao điểm có một nhân viên cảnh sát đứng trên bục có lọng che (giống ở Sài G̣n)  giơ gậy huưt c̣i chỉ đường tại ngă tư đầu múi cầu Tràng Tiền hữu ngạn cạnh khách sạn Morin và tại ngă tư cuối đường Trần Hưng Đạo rẽ vào đường Gia Long (Phan Đăng Lưu.) Ở Huế chỉ có 2 ngă tư đó có cảnh sát.

 

Mọi xe cộ ở Huế đều chạy chậm ŕ do đó lúc cần luôn phanh xe kịp; nếu va chạm cũng chỉ nhẹ. Xe hơi rất ít, xe đạp khá nhiều nhưng đạp thong thả như đi dạo chơi. Ở Huế rất hiếm chuyện tai nạn đụng xe, đụng người. Sau này về làm việc tại bệnh viện Trung ương Huế, tôi cũng chẳng thấy có ai vào bệnh viện v́ tai nạn xe cộ trong thành phố.

 

Xe Jeep quân sự rất uống xăng. Chạy trong thành phố 100 km cũng tốn ngót 1 can xăng 20 lít. Tuy nhiên tôi không nghe tài xế thưa tŕnh ǵ, chỉ biết lúc nào xăng nhớt cho xe Jeep cũng đầy đủ. Đó là bổn phận của tài xế (trên h́nh xe Jeep ta thấy có 1 can xăng đeo bên hông xe, có khi sau xe, cùng với 1 bánh xe dự pḥng.) Mặt khác các ông ở pḥng tư bên tiểu khu luôn biếu cho bác sĩ ở bệnh xá bệnh viện các tem phiếu lănh xăng, loại xăng xanh của quân đội (xăng nhuộm thêm màu xanh để đánh dấu), mỗi tem phiếu lănh 1 can xăng 20 lít. Chẳng hiểu xăng ở đâu mà các ông bên bộ chỉ huy tiểu khu Thừa Thiên nhiều lắm thế. Và thực t́nh là họ gợi ư biếu tôi chứ tôi không hề hỏi xin. “Bánh ít trao đi bánh qui trao lại” khi người ta đau ốm cần thuốc men, nghỉ dưỡng th́ bác sĩ phải chiếu cố tương xứng.

Lái xe quân sự cũng phải thi để có bằng, nhỡ có ǵ gặp Quân Cảnh th́ xuất tŕnh.

 

Khi tôi hỏi về chuyện thi th́ Pḥng Tư bên Tiểu khu Thừa Thiên gởi ngay qua cho tôi một bằng lái xe quân sự. Như vậy là khỏi thi; cho dầu có muốn thi cũng chẳng được, bằng của tôi đă viết sẵn. Nghĩ lại như vậy cũng được thôi v́ nếu tôi đi thi bằng lái xe quân sự th́ các giám khảo nhà binh thế nào cũng không đánh hỏng các bác sĩ quân y.

 

Qua năm 1959, lúc này tôi sắp mua xe hơi riêng muốn có bằng lái xe, được cho biết có thể đổi bằng lái xe quân sự sang bằng lái xe dân sự, chẳng cần thi. Và đúng thế, tôi đến Khu Công Chánh cùng nơi với Ty Công Chánh, anh KS TNĐằng trao cho tôi bằng lái xe tự động và nói: “Đây là bằng lái xe du lịch, trọng tải dưới 3T500. Tôi ghi thêm cho anh được phép lái xe máy dầu và xe máy dầu có gắn xe biên.”

 

Xe máy dầu chắc là xe mô tô phân khối lớn, loại xe Harley, bánh lớn bằng bánh xe hơi. Hồi đó ở Huế số người có xe hơi riêng đếm trên đầu ngón tay lại chẳng ai có xe mô tô bánh xe hơi. Xe Vespa, Lambretta th́ có vài chiếc.

Tôi cầm bằng đọc các ḍng chữ: VNCH. BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI. Khu Công Chánh Miền Bắc. Trung Nguyên Trung Phần. BẰNG LÁI XE TỰ ĐỘNG. Số 9135. Cấp tại Huế, ngày…Hạng xe được phép lái…Kỹ Sư thừa ủy nhiệm: Trần Nguyên Đằng.

 

Lái xe Jeep được 1 tháng tôi bắt đầu lái các xe Dodge và xe cứu thương. Tôi chạy luôn ra phố, không có ǵ khó khăn trở ngại, hoặc đáng nói. Đặc biệt xe cứu thương có bộ nhíp nhún rất êm trên đường xóc. Tôi nghiệm thấy lái xe lớn rất thích thú, hơn xe nhỏ nhiều. Về phần xe GMC 10 bánh th́ tôi chỉ lái quanh quẩn trong phạm vi khu Mang Cá một hai lần, không lái ra ngoài, lái cho biết thôi, sĩ quan mà lái xe tải trông kỳ. Xe GMC bộ nhíp cứng ngắt. Ghế tài xế ngồi là ghế đệm c̣n khá, các ghế băng sau lính ngồi là ghế sắt, xe chạy trên đường nhựa chưa thấy ǵ lắm, đến khi vào đường đất đá gồ ghề, xe chồm lên nhảy xuống xóc kinh khủng, dù chỉ chạy chậm, chẳng khác đi biển tàu gặp gió lớn, nôn óe lộn gan ruột.

 

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/51/Dodge_wc54.jpg/220px-Dodge_wc54.jpg     http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/04/Dodge_WC-63.jpg/220px-Dodge_WC-63.jpg     http://www.hankstruckpictures.com/pix/trucks/robert_lafreniere/2010/01-20/military/trucks/t34a-m35_us_bangor_me_sml.jpg

Xe Cứu thương Dodge 4x4                                       Xe Dogde 6x6                                                  Xe GMC 10 bánh

 

Tôi lại có tập xe cho thầy Lê Bá Nhàn, lúc đó là dược sĩ trung úy đổi về Đại đội Quân y 1 (nằm kề Bệnh xá bệnh viện) thay thế cho dược sĩ Lưu Son thuyên chuyển về Đà Nẵng. Cả 2 dược sĩ LSon và LBNhàn đều là bạn cũ ở học xá Trung Việt tại Sài G̣n với tôi. Thầy LBNhàn có con LBKhánh Tŕnh là học sinh VN đầu tiên đạt huy chương vàng thi toán quốc tế IMO lần 21 tại London, Anh quốc năm 1979, nghĩa là hơn 20 năm sau. Thầy LBNhàn quen tôi nhiều nên nhờ tôi giúp học lái xe. Tính thầy cẩn thận và thầy tập nhanh, cũng như tôi và các bạn khác. Duy thao tác của thầy có vẻ khác. Lúc chúng tôi lái xe qua cầu Tràng Tiền, tôi ngồi cạnh quan sát để nhắc nhở th́ thấy thầy như có vẻ căng thẳng, 2 tay khuỳnh ngang thật rộng nắm chặt tay lái. Đó cũng là tư thế của thầy khi đi xe gắn máy, 2 tay khuỳnh ra nắm chắc ghi đông (tay lái.) Tôi nhắc thầy xuôi tay xuống tuy nhiên thầy không thay đổi tư thế. Cũng được thôi, mặc dầu chắc chóng mỏi.

Ds Lê Bá Nhàn và BS. Lê Văn Bách là 2 giáo sư tại ĐHYK Huế mà thời đó chỉ đi xe gắn máy, không hề mua sắm xe hơi.

 

9.    Quân Phục Mùa Đông

 

Thấm thoát tôi ra Huế đă được ba bốn tháng đă cận Tết và trời Huế đă trở lạnh. Lạnh mùa đông ở Huế là ban ngày nhiệt độ dưới 20 độ C. Ban đêm xuống 14 độ C ở ngoài trời, có gió nhiều lạnh thêm vài độ, nghe nói họa hoằn có thể xuống đến 9 độ C đặc biệt ở các vùng núi! Ở Huế lạnh 14 độ mà ta có cảm tưởng lạnh hơn ở Âu Mỹ nhiệt độ ở các độ âm. Có lẽ v́ mưa kéo dài thấm ướt, độ ẩm cao, áo quần mỏng manh, ngủ chăn mền ít ỏi, phải trùm thêm chiếu (ấm hẳn.) Ăn uống thiếu thốn, nhà ở lại có nhiều khe hở ở mái, cửa… gió luồn vào tông tốc khiến ở trong nhà vẫn thấy lạnh. Ở Huế những ngày rét, ai có áo măng tô, bành tô, áo bông, áo kép, áo len đan thật dày, dài tay là nhất hạng, bằng không phải mặc nhiều áo vải độn lớp, run xuưt xoa, già cả kè kè mang theo lồng ấp (bếp than.) Chân tay để lộ trần, đi guốc, dép nhựa, không mang tất, bao tay. Càng lạnh thêm.

 

Mới khởi lạnh, chưa nhiều đă thấy thiên hạ trong bệnh viện đi làm mặc đồ lạnh màu xanh thẫm. Mấy người ở lính đă lâu năm th́ lại có thêm quân phục vải len dạ, nỉ, áo 4 túi… chưa biết do cấp phát hay mua tiền nhà. Tôi đang c̣n mặc đồ kaki vàng, sơ mi tay dài 2 túi trong có mặc áo len và cảm nhận chịu được. Tuy nhiên trời c̣n rét thêm, phải tính chuyện làm như người ta. Chưa biết phải sắm bao nhiêu, thứ ǵ kaki gabardine, serge… đặt may ở đâu!

Bỗng có tiếng chào hỏi:

-Chào bác sĩ, mấy hôm nay trời trở lạnh rồi đó, bác sĩ chưa mang đồ lạnh à?

Tôi giật ḿnh quay trở lại, quan sát rồi bật cười:

-À! anh Tế, mặc ấm dữ hà! bảnh quá!

Trước mặt tôi là trung sĩ Tế (NVTế?), mặc quân phục mùa đông vải len dạ, đi giày bốt, tươm tất. Tôi nh́n anh ta mặc ấm áp như thế mà tôi cấp sĩ quan th́ đang c̣n vận bộ kaki vàng mùa hạ, trông khác hẳn. Anh Tế này là người cùng tổng cùng huyện lại là chỗ quen biết với gia đ́nh tôi lúc c̣n ở Đồng Hới. Anh lớn hơn tôi năm bảy tuổi, tính ít ỏi, rụt rè, hay nhường nhịn. Tuy vóc người cũng gọi là cao lớn nhưng anh chậm chạp v́ cặp mắt kèm nhèm, coi bộ như đau mắt hột mà lại cận thị khá nặng? đọc ǵ phải dí vào mắt, nhưng không thấy anh mang kính. Anh chỉ học đến hết tiểu học, ở Đồng Hới như vậy cũng tạm đủ và rồi anh bị bắt lính, hoặc t́nh nguyện ǵ đó. Chắc là t́nh nguyện v́ mắt mũi kém cơi như anh khó ḷng trúng tuyển nghĩa vụ quân sự!

 

Tiếp theo là những ngày di cư chia vĩ tuyến năm 1954, tôi từ Hà Nội mua vé máy bay (c̣n kịp) về Đồng Hới, qua tuần sau từ bến cảng Đồng Hới xuống tàu thủy quân đội Pháp cùng cả nhà và đầy nghẹt dân chúng được chở vào Đà Nẵng. Sau đó tôi đáp máy bay vào Sài G̣n đến nhập vào đoàn sinh viên Đại Học Hà Nội di cư tạm cắm lều vải tại băi đất c̣n nền của Khám Lớn Sài G̣n thời Pháp mà chính phủ VNCH vừa cho triệt hạ. Trên khu đất này trường Đại Học Văn Khoa dự tính được xây cất. Hiện nay là Thư viện Khoa học tổng hợp Tp HCM, đường Gia Long (Lư Tự Trọng) gần chợ Bến Thành.

 

Đến năm 1957 ra trường về Huế tôi mới gặp lại anh Tế tại Mang Cá, thấy anh đeo lon Trung sĩ nhứt tôi mừng rỡ tíu tít hỏi thăm, không ngờ anh mắt mũi kém người mà quân nghiệp vững vàng.

 

Anh Tế kể lể gia đ́nh anh, vợ 3 con có nhà ở ngoài cổng cửa Trài. Hàng ngày làm việc anh đi bộ vào cổng cửa Trài, quẹo phải, băng ngang Đại đội 1 Quân y, Bệnh xá bệnh viện Huế. Vừa ra khỏi cổng bệnh viện là đến ngay dăy nhà đầu tiên nơi anh làm việc đă từ lâu, đơn vị Quân nhu ǵ đó, Sư đoàn 1. Đi tiếp nữa qua nhiều dăy nhà khác th́ sẽ ra cổng chính Mang Cá tại đường Cầu Kho.

 

Tôi nh́n anh, vừa cười tủm tỉm vừa túm và day nếp áo trước ngực:

-Anh Tế thấy chưa, tôi có mặc áo len ở trong đây này, áo len này ấm lắm. Chủ nhật tới tôi mới có th́ giờ ra phố. Đường Trần Hưng Đạo có mấy hiệu may quân phục đồ lạnh họ khen đẹp lắm. Chưa gấp.

 

Trung sĩ Tế mới nghe đă hấp tấp, vồn vă:

 

-Bác sĩ đi với tôi qua đây đi – anh chỉ ra đàng trước - tôi làm việc tại kho quân trang, nhiều áo quần quân phục mùa đông. Bác sĩ chọn vài bộ mặc, rất đẹp, chờ chủ nhật may lâu quá. Đi nghe! bác sĩ!

 

Tôi dùng dằng song anh kéo tay áo tôi, thân thiết như hồi ở Đồng Hới.

 

Ra khỏi cổng bệnh viện 50 m là đến. Tưởng đâu pḥng ốc đă mở cửa làm việc nào ngờ 2 lần cửa sắt và gỗ vẫn c̣n đóng kín mít. Trung sĩ Tế sờ soạng mở khóa, đẩy cửa vào, mở đèn bật sáng, tôi bước theo nh́n quanh quất.

 

Th́ ra đây là nhà kho quân trang quân dụng, chắc của Sư đoàn 1 bộ binh. Chẳng có ai trong kho lúc đó ngoài tôi và Trung sĩ Tế có vẻ là quản kho. Trong kho kê nhiều dăy kệ sắt nhiều tầng, nhiều hàng, dọc tường, giữa pḥng. Trên các kệ được sắp gọn gàng chồng chất lên nhau quân trang quân phục, loại nào theo thứ ấy: chăn mền, giày, bốt, ba lô, mũ, mũ sắt, nịt, bi đông, poncho, lều vải, áo quần tác chiến, đại lễ, áo lạnh… tất cả đều là đồ mới.

Tôi chỉ xem qua và dừng lại ở các kệ trưng bày quân phục mùa đông.

 

Trung sĩ Tế hướng dẫn đến kệ áo quần có kích thước của tôi. Tôi lấy một bộ len dạ kèm một mũ. Bước tới kệ áo quần kaki gabardine xanh thẫm tôi lấy thêm một bộ và một bê rê đồng màu. Trung sĩ Tế với tay lấy một áo lạnh jacket trông rất đẹp đưa tôi song tôi lúc lắc đầu. Tôi không muốn lấy ǵ thêm nữa, kể cả  tấm mền, đôi giày bốt có cổ, mũ kê pi, áo mưa, ba lô... mà Trung sĩ Tế sốt sắng soạn ra trọn gói cho tôi.

 

Tôi thầm nghĩ, lư luận tuy ḿnh không thuộc sư đoàn 1 nhưng biết đâu các quân phục này là chung cho mọi quân nhân tại quân đoàn 1, trong đó có bộ chỉ huy Tiểu khu Thừa Thiên! Và cũng chẳng biết có một hay nhiều kho quân nhu lớn nhỏ hoặc như thế này tại Huế…Cũng chẳng thắc mắc hỏi làm ǵ.

 

Nh́n Trung sĩ Tế lúi húi xếp buộc các bộ quân phục và cho vào một túi giấy b́a, tôi nhắc nhở:

-Anh Tế xong rồi viết phiếu lănh ghi đầy đủ cho tôi kư nhận nghe!

Trung sĩ Tế ngửng đầu, giọng quả quyết:

-Bác sĩ đem các bộ áo quần mùa lạnh này về dùng đi. C̣n cần ǵ thêm tôi sẽ lấy mang qua cho bác sĩ. Bác sĩ khỏi cần kư nhận ǵ cả!

-Lănh nhiều lắm mà, vậy anh đưa sổ tôi ghi vài chữ để anh tiện dụng cũng được.

Trung sĩ Tế vẫn khăng khăng một mực:

-Bác sĩ cứ cầm về, không cần giấy tờ ǵ.

 

Suy cho cùng quân trang quân phục là những thứ cấp phát không cho mỗi quân nhân, việc kư nhận không quá quan trọng! Các bộ áo quần tôi vừa lănh mới tinh và rất đẹp. Chung quanh trong trại lính Mang Cá tôi nhận xét mọi người đều ăn mặc tươm tất, đẹp và ấm. H́nh ảnh sĩ quan, binh sĩ hành quân mặc binh phục đồ trận ‘tờrây di’ (treillis, trellis) th́ rất kiêu hùng. Hồi đó năm 1957 quân lực VNCH chỉ gồm dưới 200 ngàn, nhiều năm sau lúc cao điểm lên quá 1 triệu, gồm nhiều binh chủng quân phục có rất nhiều loại và đa dạng. Quân phục VNCH nh́n bó và gọn với rằn ri hay xanh nhạt cho bộ binh. Đặc biệt là quân phục của Thủy Quân Lục Chiến và Biệt Động Quân nh́n rất là phong độ, đầy niềm kiêu hănh của quân đội VNCH. TQLC mũ xanh, quân phục rằn ri những vệt ḅ ngang dài như rết… BĐQ mũ nâu, binh phục màu áo hoa rừng, nón sắt sơn rằn ri với đầu con beo sơn đen thui. Các Bác sĩ ĐHYK Huế Đoàn Yến YK1, Vơ Văn Phác YK7, Hà Vũ Trầm YK7…đều là Y sĩ quân y Biệt Động Quân.

 

Quân phục tác chiến luôn được cấp phát đầy đủ:

-Nhà văn Vũ Ánh kể lại tuy là dân chính song cũng được Quân nhu cấp phát quân phục: “Thời chưa bị gọi động viên… tôi cũng đă có 4 bộ quân phục tác chiến bộ binh, giầy bốt, nón sắt và áo giáp, ba lô. Lư do: Tôi là phóng viên mặt trận cho Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia, tất cả quân trang do Quân Nhu cấp, nhưng chỉ được mặc khi ra mặt trận.”

 

-Đoàn Nữ quân nhân Quân Lực VNCH khi đang thụ huấn tại trường các chị em phải mặc quân phục tác chiến, mủ vải, giày vải đen có cổ, được phát 2 bộ. Ngoài ra được may đo 2 bộ quân phục làm việc màu xanh da trời, giày đen có gót cao 5 cm, trang bị mũ kiểu mũ nữ nhân viên hàng không màu xanh và 1 ví cầm tay màu đen. Tất cả đều được phát một áo len đen dài tay để dùng khi trời lạnh mặc ngoài quân phục xanh để làm việc. Quân phục nỉ màu xanh thẩm th́ dùng cho các vùng lạnh. Lễ phục th́ màu trắng.

Image Hosted by ImageShack.us    Image Hosted by ImageShack.us    Image Hosted by ImageShack.us

- Một người có lệnh gọi động viên kể chuyện như sau:

Tôi tŕnh diện ở Pḥng Tuyển Mộ Nhập Ngũ xong, được cho về. Hôm sau, 8 giờ sáng trở lại, có xe đưa vô Đà Nẵng… chiếc GMC chờ sẵn... xe đầy người, có ông trung sĩ “chỉ huy.” Xe lên đường vô Đà Nẵng, địa chỉ là “Trung Tâm I, Tuyển Mộ Nhập Ngũ.” Vài ngày sau, đưa qua Tổng Y Viện Duy Tân khám sức khỏe; t́nh trạng tốt. Vậy là hôm sau nữa lănh quân trang: Trước tiên là một cái xách “ma-rin”, hai bộ đồ trận, - thường gọi là đồ treilly -, hai áo “may-ô”, hai quần xà lỏn - may kiểu quần chân què như của mấy bà hồi xưa -, một cái nịt vải, hai đôi tất (vớ) vải, một đôi giày bố (cao su, màu đen) có giây, một mũ lưỡi trai, khăn mặt, kem và bàn chải đánh răng, “pông-sô” (poncho), “gà-mèn.”..

Đời lính “gian lao” từ đây...” (Tuệ Chương HLHải “Đi lính Cọng Ḥa.” Truyện ngắn.)

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/dd/Vietnamese_Troops_at_Quang_Trung_National_Training_Center_%281970%29.jpg/250px-Vietnamese_Troops_at_Quang_Trung_National_Training_Center_%281970%29.jpg

 

(Tân binh tham gia khóa huấn luyện ba tháng tại Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung (1970.)Tân binh được trang bị quân trang dă chiến, mũ sắt, vũ khí. Helmets and field gear. A.P. wirephoto.)

 

- Các tân binh được huấn luyện tại Trung tâm huấn luyện quân nhân cấp thấp Quán Tre, Hóc Môn (Trung tâm Quang Trung) được phát quân trang dă chiến, mũ sắt, vũ khí… trọn gói.     

- Thời đó năm 1957 tôi vào lính tự sắm 2 bộ quân phục làm việc kaki vàng đất. Nếu có đi hành quân th́ chắc thế nào tôi cũng cần quân phục tác chiến. Song từ đầu đến cuối tôi lại phục vụ tại bệnh viện, nghĩa là hậu cần, chẳng đi đâu. Trước đó tôi lại chẳng học cầm súng ḅ lết tại quân trường Thủ Đức để được phát quân phục rằn ri, mà Quân y th́ cũng phải theo ra trận, đầu tên mũi đạn. Rất nhiều bác sĩ, y tá, cứu thương quân y đă bỏ ḿnh tại chiến trường. Nói đúng quân nhu, quân cụ, quân vận… mới đúng là lính văn pḥng.

 

10.  Hành Quân Văn Xá

 

Ra Tết đă gần 2 tháng, thời tiết ở Huế ấm hẳn, trời nắng. Thượng sĩ L. Du báo với tôi:

-Thưa bác sĩ, tuần sau bệnh viện ḿnh sẽ hành quân, đi bộ ra ngoại ô thành phố, mang quân trang, bác sĩ nghĩ sao, liệu được không?

 

-Ủa! Có lệnh của Tiểu khu hả? mà đi đâu, ra sao, xa không, lên ngả núi, xuống cửa Thuận?

Thượng sĩ Du găi tai giải thích:

 

-Thưa không có lệnh bên tiểu khu song tôi thấy nhiều đơn vị bạn đă tổ chức hành quân đi bộ hoặc nay mai. Tôi bàn với mấy anh em, chúng ta có đi th́ chỉ gần gần thôi, nội trong buổi sáng, họ đều tán thành. Vậy xin tŕnh với bác sĩ.

 

Ư kiến nghe hay, cũng nên đi ra ngoài đôi chút thư giăn, tôi tươi cười vui vẻ:

-Tôi đồng ư, chi tiết ra sao anh cho tôi biết.

-Thưa bác sĩ, chúng ta lượt đi xe chở ra An Ḥa, theo đường cái quan đi tiếp, đến khi thấy đă khá xa, th́ chúng ta dừng xe, xuống đi bộ về lại An Ḥa, rẽ trái xuống Bao Vinh, ṿng vào cửa Trài trở về đơn vị. Như vậy chúng ta tránh đi ngang qua thành phố.

 

Tôi ưng ư ngắt lời:

-Được lắm, vậy chúng ta nên ra đến bến xe An Lỗ rồi đi bộ về!

-Thưa An Lỗ ở tận cây số 17, như vậy xa lắm! Chúng tôi bàn với nhau xe đến Văn Xá. Ga Văn Xá cách ga Huế 10 cây số. Xô đi bù lại th́ cũng bằng đi về Mang Cá theo đường Bao Vinh, cửa Trài.

 

Thấy tôi chăm chú theo dơi, Thượng sĩ Du lên kế hoạch cặn kẽ:

-Thứ ba tuần tới khởi hành 8 giờ sáng. Nhân viên đi khoảng 20 người, thêm tài xế, c̣n lại ở nhà trực gác, giữ trại. Mỗi người mang ba lô thuốc men cấp cứu, dụng cụ y khoa…có đem theo 5 cây súng. Bác sĩ nếu quen đi bộ, thấy khỏe có thể đi với anh em chúng tôi hoặc ở nhà trực gác.

 

Tôi giọng quả quyết:

-Tôi đi với các anh, tôi mang theo ǵ, ăn mặc ra sao?

-Bác sĩ ăn mặc như thường ngày, đi tay không.

 

Sáng thứ ba, đoàn hành quân tập họp đúng 8 giờ sáng trước văn pḥng bệnh xá bệnh viện Mang Cá, 8 giờ rưỡi khởi hành, đi 2 xe. Xe Jeep 4 người ngồi, tài xế và tôi ngồi trước, Thượng sĩ Du và Trung sĩ Thế ngồi băng sau, xe GMC chở nhân viên, đem theo quân dụng, nước uống...

 

Đoàn xe 2 chiếc, xe Jeep dẫn đầu ra cổng Mang Cá, về Tây Lộc, ra cửa Chính Tây, rẽ phải theo Quốc lộ 1, chạy qua cầu An Ḥa, chạy thêm chừng 7 cây số th́ tới ga Văn Xá. Đoạn đường này, đường xe lửa và đường cái quan cập kè sóng đôi sát nhau trông đẹp như 2 trường QH/ĐKhánh cận kề thân thiết. Tuyến đường Đà Nẵng/ Quảng Trị xe lửa đă chạy nên thỉnh thoảng có đoàn tàu hùng hục chạy đua với xe hơi, xe đạp một đọan dài giữa 2 ga An Ḥa, Văn Xá, có hành khách trên tàu theo dơi chứng kiến cổ súy để rồi tàu thua xe hơi, thắng xe đạp. Đến ga Văn Xá mọi người xuống xe tập hợp, tinh thần hăng hái, đeo ba lô gọn ghẽ chuẩn bị lên đường cuốc bộ về trại. Mới vừa quá 9 giờ sáng, trời c̣n mát.

Đột nhiên như vừa mới suy nghĩ được điều ǵ hay ho, tôi nghiêm trang tuyên bố với các nhân viên:

 

-Tôi trao một giải thưởng cho ai đi bộ về đến trại ḿnh trước tiên. Các anh chịu không?

Tất nhiên mọi người đều chịu, có tiếng nhao nhao:

 

-Thưa chịu, xin bác sĩ thưởng cho nhiều nhiều.

Lúc đó nói vậy chứ tôi cũng chưa có chủ đích rơ ràng sẽ thưởng ǵ, để tính sau. Mặt khác tôi cũng chưa hiểu rơ là cuộc đi bộ này phải cùng đi thành đoàn, tập thể với nhau hoặc là cá nhân riêng rẽ, mạnh ai nấy đi, về sớm nghỉ sớm. Song đă chấp nhận thi đua tức là mọi người sẽ không về đến đích cùng lúc.

 

Để làm gương tôi tiến ra trước, dẫn đầu đám đông. Một hai người bước vội theo tôi. Tôi cắm cúi đi thật nhanh nhưng dáng điệu vẫn giữ tự nhiên chứ không bước tíu tít 2 chân tưởng như chạy trong các cuộc thi đi bộ ở Thế vận hội mà sau này tôi được xem trên truyền h́nh. Được biết ở Thế vận hội họ đi bộ quăng đường 20 cây số trong thời gian non một tiếng rưỡi, có thể đạt vận tốc 15 km/giờ. Như tôi đang đi tưởng nhanh nhưng nhiều lắm cũng chưa được 10 km/giờ.

 

Đi chừng hơn nửa cấy số ngảnh lui nh́n lại tôi thấy ḿnh bỏ xa đám đông gần cả 200m; hai người theo sau tôi lúc năy cũng tụt lại vài chục mét. Trong bụng nghi ngờ tôi tự hỏi hay là do ḿnh đi tay không, họ mang ba lô nặng! Thôi kệ. Dù sao tự nhiên theo phản xạ tôi đi chậm lại đôi chút, không muốn bỏ người ta đằng sau quá xa.

 

Có th́ giờ tôi chú ư nh́n đôi bên hầu như toàn đồng ruộng, bóng người thưa thớt. Những ruộng lúa xanh tốt, thân lúa rạp ḿnh như những đợt sóng trước làn gió nhẹ đưa đẩy. Đây là lúa đông xuân, gieo cấy mùa đông, gặt hái mùa xuân. Năm nay thời tiết tốt, không rét lạnh kéo dài, đến giữa tháng tư lúa trổ chín, vụ gặt này hi vọng thu hoạch sớm để dân làng làm đất chuẩn bị ngay vụ lúa chiêm hè thu mà đến tháng 9 hoặc ngay tháng 8 là mùa gặt. Mấy chuyện này tôi cũng có biết qua. Trông nữa ra xa thấp thoáng các làng mạc ở hai bên đường cái quan với những con đường đất rộng dẫn vào.

 

Trên đường cái quan có người đi bộ, có khi quang gánh đi thành nhóm nhưng không nhiều. Xe đạp cũng thấy qua lại thường xuyên, và thỉnh thoảng một hai xe hơi chạy vụt qua là những xe hàng hoặc xe nhà binh. Trên đường quan lộ vài nơi cũng có cḥm xóm nhỏ nhà vườn và hàng quán sơ sài, tôi liếc mắt nh́n song tiếp tục đi thẳng.

 

Từ Văn Xá tôi lần lượt vượt qua các người đi cùng chiều, đến Hương Xuân, qua các cầu Quán Rớ, Triều Tây, Cổng Chém, cuối cùng cầu và bến xe An Ḥa tấp nập để rồi rẽ ngoặt trái vào đường Cửa Hậu vắng vẻ như đường làng. Nh́n lui không thấy tăm hơi các nhân viên của tôi đi tụt lại sau quá xa.

 

Đường Cửa Hậu cũng là tên gọi trong dân gian v́ từ cửa Hậu tức là cửa Chánh Bắc trong thành đi ra, qua cống hào hộ thành là gặp đường này chạy dọc theo cạnh bắc của kinh thành từ An Ḥa đến Bao Vinh dài 2 cây số rưỡi tận cùng tại đường Hàng Bè nối dài. Đó là con đường đất hai bên là lũy tre, lác đác thấp thoáng vài ngôi nhà tranh có hàng cau, mít, vú sữa… và khoảng năm bảy ngôi nhà ngói suốt dọc con đường. Nhiều nhà có sân trước rộng, vườn sau dài thông với bến nước một con sông đào trong xanh thoáng mát. Đó là sông đào Cửa Hậu chạy bao mặt bắc kinh thành, nối tiếp theo sông đào Kẻ Vạn chạy bọc phía tây. Cầu An Ḥa có đường quốc lộ bắc qua sông đào Cửa Hậu này.

 

Sông  Đào Cửa Hậu - Huế 2012   

Sông đào Cửa Hậu - Huế 2012                                Đường Cửa Hậu (Tăng Bạt Hổ), Huế

 

Đường Cửa Hậu đủ rộng để xe tải chạy song 2 xe tránh nhau th́ phải chạy lấn vào bờ lũy tre. Đường khá vắng lặng, có vẻ không có tầm quan trọng. Đường Cửa Hậu tên từ xưa lại có thêm tên mới: sau 1956 nó có tên là đường Lê Văn Duyệt, sau 1965 là đường Tăng Bạt Hổ mà hiện nay đă trở thành một đường 2 chiều rải nhựa, có nhiều xe nhất là xe gắn máy lưu thông, có nhà trệt nhà lầu và buôn bán hai bên đường. Đầu đường Tăng Bạt Hổ là bến xe buưt An Ḥa. Cửa Chánh Bắc (cửa Mang Cá) đóng bít trong một thời gian rất lâu trên một thế kỷ kể từ sau khi Pháp chiếm Mang Cá đă khai thông, mở cửa trở lại, năm 2004.

 

Tôi đi một mạch hết đường Cửa Hậu rẽ phải ở cầu Băi Dâu, đổi qua đường Hàng Bè (Huỳnh thúc Kháng) nối dài, đi qua chợ Đồn, rẽ phải vào cổng Cửa Trài. Qua cổng rẽ phải, đi một đoạn rẽ trái là đến Đại đội 1 http://2.bp.blogspot.com/-cM6Wu6YEgi8/UjbHTMW8qvI/AAAAAAAAHbY/QVW6MgDA3J0/s640/hocbaitthlqt.jpgQuân y và tiếp đó là Bệnh xá bệnh viện Huế. Đến nơi vừa đúng 10 giờ mười lăm. Nhân viên chạy ra ngạc nhiên thấy tôi về một ḿnh song tôi chỉ bảo vắn tắt mấy người kia sắp về tới. Nửa giờ sau thêm 2 người và đám đông kéo nhau về tới nơi th́ đă gần 11 giờ rưỡi trưa.

 

Mọi người tươi cười vui vẻ đồng thanh hỏi tôi về lâu mới. Thấy họ cười cười lúng túng nh́n nhau tôi căn vặn th́ được biết họ có ghé vào quán dọc đường uống bia ăn bún, bèo, nậm, bột lọc…qua loa. Tôi cũng ph́ cười, suy nghĩ lại th́ thấy các anh chị nhân viên có lư, chỉ tại tôi đa sự bày đặt chuyện thi đua đi bộ nhanh. Các nhân viên cứ để tôi đi trước thật xa bằng thích, họ tà tà đi sau khỏe ru chẳng có thủ trưởng ḍm dỏ! Nói vậy chứ cùng đi thế nào tôi cũng đành để cho họ vào quán kiếm ǵ ăn uống. Đi hành quân đâu phải là cứ cắm đầu cắm cổ lùi lũi đi một mạch! Lắm lúc phải chậm răi đi ḍ từng bước, quan sát, nghe ngóng, phải có tinh thần đồng đội, nâng đỡ nhau chia sẻ hoạn nạn. Bây giờ tôi hiểu ra đạo lư đó.

 

Sau này tôi càng thấm thía tâm đắc khi nh́n những bức ảnh các binh sĩ trong quân lực VNCH đi hành quân và h́nh dung được đi hành quân thực sự là ra sao:

http://2.bp.blogspot.com/-JmwclPyYuJk/UjbIgfDOPkI/AAAAAAAAHdE/1qv3Nt2COOE/s1600/HQPD_1370704030.PNG

*Bên cạnh là h́nh các tân binh Trung Tâm Huấn Luyện Quan Trung đi thực tập hành quân đang chuẩn bị bữa ăn ngoài trời, bên cạnh một con lộ có người dân qua lại.

Họ đang ăn uống, ngồi trên băi cỏ, bữa ăn trông đạm bạc? nhưng ngon lành, ăn no.

Ta thấy cơm đầy và thức ăn trong những khay lớn, thức ăn trong những lon cao, thức ăn đồ hộp, bi đông nước uống, gà mèn…thấy muỗng, không thấy chén đũa.

 

*Và sau đây là người lính VNCH đang hành quân tuần tra, mang quân trang nặng. Họ vẫn có th́ giờ dừng lại bỏ tiền mua báo cùng đọc. Hai ba người xúm lại đọc một tờ, chăm chú theo dơi tin tức, b́nh luận, phóng sự…. Trên h́nh ta thấy họ đang đọc trang đầu các tờ nhật báo “Độc Lập”, “Trắng đen”… được xem là những tờ báo bán chạy.

Trang đầu của các nhật báo đăng tin thời sự, sự kiện nổi bật và các bài nghị luận đa dạng.

Ở Sài G̣n trước năm 1975, chỉ kể các báo ra hàng ngày th́ có trên 40 tờ, tất cả đều là báo tư nhân. Chính http://4.bp.blogspot.com/-0ij5YHoviUA/UjbGtDNBDZI/AAAAAAAAHac/V2fjnfx_7wY/s640/nguoi-linh-vnch.jpgPhủ không ra báo ngoại trừ tờ Công Báo ra định kỳ để đăng tải các sắc lệnh, nghị định hành chánh dùng nội bộ trong các công sở.

Những nhật báo lâu đời nhất là Thần Chung, Sài G̣n Mới, Tiếng Chuông… và rồi Tiếng Dội, Tin Điển, Tia Sáng, Tự Do, Ngôn Luận, Dân Quyền, Chánh Đạo, Chính Luận, Độc Lập, Trắng Đen, Thời Luận, Xây Dựng, Lẽ Sống, Sống, Sóng Thần, Lửa Việt, Ánh Sáng v.v… Báo chí thời đó nói chung có 3 khuynh hướng: 1-công khai chống chính quyền, chống Mỹ điển h́nh là tờ Tin Sáng, gọi Tổng Thống Thiệu là Tổng Thống Thẹo, anh Sáu Thẹo (con út thứ năm trong gia đ́nh), bêu riễu Đại sứ Hoa Kỳ… 2- giữ trung lập, không theo bên nào. 3- chống Cọng ví dụ tờ Sống, Chính Luận. Kư giả Từ Chung của báo Chính Luận bị ám sát trúng đạn tử thương tháng 12/1965 và Chu Tử của báo Sống cũng bị bắn nhưng thoát chết, chỉ bị thương, nửa năm sau đó (6/1966.)

 

*Lính quân y hành quân cũng một thứ: BS.Vĩnh Chánh YK7 Huế, Y sĩ Trung úy trưng tập khóa 16, thuật chuyện như sau: “…Hồi xưa đi hành quân với Nhảy Dù, đầu đội mũ sắt, ḿnh mang áo giáp (nặng khoảng 7 kg), trên vai c̣n mang cả một bao lô cũng gần 10 kg nữa. Lúc mới đầu thấy quá nặng, nhưng nh́n quanh thấy ai cũng như ḿnh, rồi cứ phải như rứa hoài, ngày này qua ngày khác di chuyển liên miên rồi cũng quen dần…(VChánh “Tháng Ngày Tao Loạn”,  ykh@yahoogroups.com, July 19/2013.)

BS. Tôn Thất Sang YK3 Huế kể: “Nhiều buổi thực tập địa h́nh, di hành dă trại, chúng tôi phải đi ra khỏi trại hằng mấy cây số, qua những trại gà công nghiệp hằng vạn con, băng ngang những xóm làng hiu quạnh, những ngọn đồi trọc heo hút. Khi trở về, phải theo la bàn mà định vị…”  Và quân y mà tập các thứ dữ dằn: “lắp ráp và tác xạ súng carbin, M16, trung liên bar, đại liên M30, M60, súng phóng lựu và nhất là hỏa tiển chống tank M72 hay c̣n gọi là Hỏa Tiễn 3.5... cách ném lựu đạn MK3, M6 ngay cả lựu đạn chày của VC. Buổi tập bắn hỏa tiển M72 thật là lư thú và hồi hộp v́ tiếng nổ lớn và sức phụt hậu rất mạnh đến 25 m; mục tiêu là những chiếc xe GMC hư nằm cách xa khoảng 50m”…(TTS “Y Sĩ Trưng Tập” Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y 2010.)         

http://www.quanvan.net/imgupload/im13251090481.jpg

 

*Cảnh sát dă chiến hành quân cũng mặc đồ trận rằn ri, mũ sắt. H́nh bên cho thấy họ đang đi tuần tra trên các đường phố Sài G̣n.

“…Cảnh sát dă chiến cũng phải thụ huấn 3 tháng quân sự tại trường Bộ binh Thủ Đức, học các môn Cơ bản thao diễn … Rồi Đoạn đường chiến binh với đầy đủ quân trang, quân dụng mà vượt qua 18 chướng ngại vật là những đà ngang, đà dọc, thang đứng, thang nằm, hố chó, hang mèo, chuồng gà kẽm gai… Tối ḅ hỏa lực, ngày thực tập bài vượt sông, trưa nơi băi bắn, nắng như thiu như đốt... Tiếng đạn Garant chát chúa, xé tan tành trời đất. Bữa đu dây tử thần, hai tay cầm thật chắc cái róc rách mà chạy vù vù trên hồ nước xanh lè…” (theo NTB́nh “Tôi vào Học viện Cảnh sát Quốc gia”.)

 

Về phần tôi suốt thời gian quân ngũ chưa hề sờ đến súng lục, súng trường nói ǵ đến bắn! Có lúc tôi nghĩ nên bảo nhân viên tổ chức đi bắn bia tại Trường Bia đâu sau núi Ngự B́nh, mà thỉnh thoảng nghe vọng về các tiếng “cắc bùm”, lính tập bắn. Cũng nên bắn thử vài viên xem cảm giác thế nào, tài nghệ ra sao, nhưng rồi lúm úm công việc, tôi quên khuấy. Vậy cũng tốt thôi “chơi dao đứt tay, chơi súng ăn đạn”, tránh được chừng nào hay chừng ấy.

Về cuộc hành quân Bệnh xá bệnh viện Huế đi bộ quăng đường Văn Xá/ Huế, tôi về đích trước nhất cũng chẳng có danh vọng ǵ. Tôi đi tay không mà các nhân viên mang quân trang vướng víu. Họ cũng không đua tranh với tôi làm ǵ. Tôi cũng không nhắc nhở ǵ đến chuyến hành quân này nữa.

Qua ngày hôm sau cuộc thi đi bộ tôi vẫn khỏe, ăn uống b́nh thường song tay chân ră rời nhức mỏi quá chừng, ê ẩm cả toàn thân đến cả một tuàn lễ mới hết hẳn. Cũng tại ḿnh gắng sức đột ngột và kéo dài mà không chuẩn bị luyện tập từ từ trước để các bắp thịt làm quen. Tôi nhớ lại xưa có lần tôi cũng đi bộ cùng người anh con d́ khoảng 20 cây số theo đường quốc lộ từ Đồng Hới qua Quán Hàu, Vơ Xá, lên đến Thạch Xá Thượng thăm bà d́ và dượng, ở chơi 2 ngày rồi về mà chẳng nhức mỏi trong người ǵ cả. V́ tôi đi chậm răi, không gấp gáp.

 

Nhớ lại chuyện đi bộ Văn Xá/ Mang Cá Huế, những h́nh ảnh tôi một y sĩ trung úy, bác sĩ quân y, xăng xái đơn độc rảo bước nhanh trên đường thiên lư vẫn hiện rơ nét trong tâm trí.

Nhưng đó là chuyện thời năm 1958. Thời đó trong nhiều năm người lính Cọng Ḥa có những chuỗi ngày vui, thanh thản:

 

Cho đến năm 1963, t́nh h́nh tại Vùng I Chiến Thuật tương đối yên tĩnh, chỉ có những cuộc hành quân lẻ tẻ cấp Đại Đội hoặc Tiểu Đoàn diễn ra. Nhất là thời kỳ những năm trước 1962, bộ tham mưu Quân Đoàn chỉ chú trọng vào việc giám sát các đơn vị huấn luyện tác chiến. Để hâm nóng tinh thần người lính, bộ tham mưu thường tổ chức các cuộc đi bộ, mang theo hành trang dă chiến vào những buổi sáng sớm về các vùng phụ cận. Người lính quân y tại bộ tham mưu quân đoàn I lúc đó thật vô cùng thanh thản” (PVTú QYHD5, TYViện Duy Tân 1967-73)

 

Tôi đọc đoạn viết này của BS. Phạm Viết Tú lại càng thấy rơ các năm 1957/59 miền Nam thực thái b́nh âu lạc. Các năm này Đại Học Huế cuối 1957 và tiếp theo là trường Đại Học Y Khoa Huế cuối 1959 được thành lập. Các bác sĩ tốt nghiệp từ trường YKH kể từ ngay trước biến cố Tết Mậu Thân đầu năm 1968 đă sống những ngày hào hùng trong đời binh nghiệp khác hẳn với tôi, những ngày vui trong quân ngũ, dưới chính thể VNCH. Tôi trân trọng những ngày an b́nh thịnh trị thời ấy.

 

 

Mục Lục:

Phn I: (Đă đăng) 1-Lời Mở Đầu  2-Tŕnh Diện Nhập Ngũ  3-Những Ngày Chuẩn Bị  4-Nhận Nhiệm Sở  5-Thành Mang Cá.

Phn II: 6-Tháng Lương Đầu Tiên  7-Người Y Sĩ Trưởng  8-Lái Quân Xa  9-Quân Phục Mùa Đông  10-Hành Quân Văn Xá.

Sắp đăng: 11-Bản Đàn Vọng Cổ  12-Trên Đỉnh Hải Vân  13-Chiếc xe hơi TBB117  14-Giă Từ Quân Ngũ  15-Lời Kết  16-Ph Lc.

 

Mục Lục 99Độ                       Trang Nhà YKHHN