BBT hân hạnh giới thiệu quư Anh Chị Em bài Nguồn Cội của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Nếu trong đời thường ta có những bạn mà ta gọi là bạn bè, th́ trong đời riêng, có vài người bạn thân quư mà qua những thử thách và thời gian t́nh bạn vẫn chẳng hề phai, "chút t́nh nhưng cái này quư lắm, nên hăy cố mà giữ lấy, đừng để giàu nghèo nó làm mai một... Có lẽ bởi con người c̣n nặng t́nh với nhau và ḿnh c̣n có cái cội đích thực để dù đi đâu cũng c̣n chỗ để quay về - và dĩ nhiên, đó là thời gian trước tháng 4/1975".
BBT trân trọng t́nh cảm nhà văn Phạm Tín An Ninh dành cho Hội YK Huế Hải Ngoại. Xin kính chúc anh chị sức khỏe và b́nh an, và các cháu thành đạt.
Đêm sẻ chia cùng những xót xa
vết nhăn trên trán tuổi đang già
cơn đau nhắc nhở rằng ta sẽ
có ngày lạc nẻo giữa bao la
Cung Vĩnh Viễn
Tôi quen Long từ lúc c̣n trong quân trường. Hai thằng có nhiều thứ khác nhau. Cái tên Nguyễn Vĩnh Long của nó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy cách xa nó đến cả mấy trăm cây số. Nó cao lêu ngêu, tôi thuộc loại chỉ đủ thước tấc đi lính. Mỗi lần sắp hàng diễn hành hát bài Đường Trường Xa, nó cầm cờ đi hàng đầu, c̣n tôi ách ê hàng áp chót. Tôi ăn nói vụng về nên thường thầm lặng c̣n nó th́ giỏi lư sự nên nói hơi nhiều. Cái giọng nam bộ của nó thường mở đầu bằng mấy tiếng chửi thề, nên tôi ngại nói chuyện với nó. Dường như hai thằng chỉ có một điều giống nhau duy nhất: Con nhà nghèo. Gia đ́nh lại ở quá xa, cho nên những ngày cuối tuần, hai thằng đều mồ côi tại chỗ. Không ngờ chính cái điều giống nhau duy nhất ấy mà sau này hai thằng trở thành bạn chí thân.
Quả thật là nó có nhiều thứ khác tôi. Nói cho đúng là nó có nhiều cái hơn tôi. Ra trường nó đỗ cao nên được chọn về quân trường Đồng Đế, nằm ngay tại quê tôi, làm huấn luyện viên, c̣n tôi lại phải ra làm trung đội trưởng ở một đơn vị tác chiến trên cao nguyên xa tít mịt mù.
Sống xa nhau, nhưng cứ mỗi lần về phép, hoặc có dịp dẫn quân qua Dục Mỹ, Nha Trang là tôi ghé lại thăm nó. Có khi ở chơi với nó cả tuần.
Hoạn lộ của Long coi bộ thênh thang hơn tôi nhiều lắm. Làm huấn luyện viên, cán bộ, chỉ một thời gian ngắn, nó được rút về làm Trưởng Ban, rồi lên Trưởng Pḥng. Được gởi sang Mỹ học hai ba khóa đặc biệt ǵ đó, nên nó có khả năng đấu láo với mấy anh chàng cố vấn Mỹ. Ở môi trường nào nó cũng thích nghi, nhanh nhẹn xông xáo và có tài, nên luôn được thượng cấp thương. Chức vụ cao, cứ theo bản cấp số, nó lên lon lên lá vù vù. C̣n tôi quanh năm đánh đấm, nằm núi lội rừng, thương tích mấy lần cũng chỉ được mấy cái huy chương, mà chẳng có dịp nào đeo trên nắp túi áo làm oai với mấy cô em gái hậu phương. Đă vậy lại có tính hay căi, nên lâu lâu bị các “xếp” kư cho vài “củ”.
Sau mấy năm, nó đă lên đến quan ba. Tôi về phép đúng lúc ăn khao. Nó dặn ḍ tôi hai tháng nữa, cố gắng dọt về đây làm phụ rể cho nó. Nó lấy vợ. Nghe nói vợ nó là trưởng nữ của một nhà giàu ở Nha Trang nên đám cưới sẽ linh đ́nh ghê lắm. Hai tháng sau tôi đang đóng quân ở Lâm Đồng, năn nỉ ông tiểu đoàn trưởng xin năm ngày phép, theo trực thăng tiếp tế của Phi Đoàn Thần Tượng 215, bay về Nha Trang mừng đám cưới thằng bạn chí thân. Vào nhà nó trong cư xá khi trời sắp tối. Cửa đóng im ỉm. Tôi vào cổng quân trường hỏi sĩ quan trực. Ông cho biết Long đang c̣n ở trong văn pḥng.
- Cái thằng này, lúc nào cũng gương mẫu. Ngày mai cưới vợ mà bây giờ c̣n cặm cụi làm việc. Hèn ǵ nó cứ lên lon lên chức là phải. Tôi nghĩ thầm trong bụng.
Đẩy cửa vào văn pḥng, thấy nó đang ngả người trên ghế, hai chân gác lên bàn, mặt mày thiểu năo. Tôi có linh tính là ngày mai tôi không có cái vinh dự được làm phụ rể. Nó không nói năng ǵ và cũng chẳng đưa tôi về cư xá mà lái xe chở tôi chạy một ṿng ra quán số 5 dưới bờ biển, uống mấy lon bia trút mọi điều ẩn ức:
- Đ.m. bà già dịch của con bồ tao không chịu gả con gái cho tao.
Lâu rồi, tôi mới nghe lại cái giọng chửi thề ngày xưa của nó. Tôi trố mắt nh́n nó chờ lời giải thích.
- Mày biết không, nghe con bồ tao bật đèn xanh, bảo là đă được sự đồng ư của bố mẹ, ông già tao với mấy bà d́ từ Vĩnh Long khăn gói ra Nha Trang xin làm lễ hỏi trước một tuần rồi làm đám cưới. Sợ không môn đăng hộ đối, tao phải nhờ ông đại tá chỉ huy phó dẫn nhà trai đến nói chuyện với ông bà. Ông chồng th́ vui vẻ tay bắt mặt mừng, tao thấy đời cũng c̣n lên hương. Tới lúc mọi người đứng vào vị trí “thao diễn nghỉ”, bà vợ mới nghiêm mặt phán cho một câu làm tao muốn xỉu luôn tại chỗ.
- Câu ǵ mà ghê gớm như lời chúc tết của “bác” trước tết Mậu Thân vậy? Tôi đùa.
- Bà hỏi ông già tao: Ông hỏi con trai của ông, là lương tháng của cậu ta có đủ cho con gái tôi mua xà pḥng giặt quần lót nó hay không mà đ̣i cưới với hỏi.
Có vài lần đi chơi chung với Long và cô vợ hụt này. Nàng khá xinh xắn dễ thương, gốc Bắc Kỳ 54, nên giọng Hà Thành c̣n “ngàn năm văn vật” lắm. Cha mẹ cô là chủ một hảng thầu có máu mặt ở Nha Trang, nàng th́ học xong tú tài th́ theo nghiệp mẹ cha, kinh doanh, làm chủ mấy cái sạp vải trong chợ Đầm, và c̣n làm thêm cái nghề tay trái là theo bà mẹ thầu cung cấp thực phẩm cho khóa sinh trong các quân trường. Chính cái nghề phụ này mà cô nàng gặp và mết Long, một chàng trưởng pḥng trẻ tuổi cao ráo đẹp trai. Qua mấy năm t́nh yêu c̣n mặn nồng hơn nước biển Nha Trang, nhưng biết bà mẹ chê lính nghèo, nên nàng không dám mở lời. Cuối cùng th́ nàng năn nỉ ông già. Cái đám hỏi là do chính ông đưa đường chỉ lối. Ông hiền lành tốt bụng, nhưng kẹt một nỗi là mọi việc bà vợ đều nắm quyền. Mà đă là vợ nắm quyền th́ cái nhà sẽ trở thành vô phúc. Tôi đă từng nghĩ, miền Nam sụp đổ cũng có sự góp phần không nhỏ của những bà vợ mấy ông lớn ưa nắm quyền chồng.
Sau đám hỏi bất thành, ông già nó trở về Vĩnh Long, buồn và tủi thân nên bệnh cả mấy tháng trời. Nó bảo là vẫn nặng t́nh với cô con gái, nhưng rất hận bà già bắc kỳ giết giặc.
Tôi lên mặt dạy “chiến thuật” cho nó:
- Mày là lính văn pḥng mà c̣n bị chê, cỡ tao là lính tác chiến th́ chắc chỉ phải đứng xa ngoài cửa. Tao như mày th́ một là áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, c̣n nếu mày thấy con tim mầy chưa đến nỗi lao đao, th́ cứ t́m mục tiêu khác ngon lành hơn mà “đột kích”. Mày là lính, đừng để mất mặt KBC.
Nó đập vai tôi cười méo mó.
Không biết có phải nhờ nó áp dụng “triệt để” bài học chiến thuật tôi dạy lần trước, nên vừa “đột kích“ được mục tiêu nào mới, mà chỉ gần ba tháng sau nó lại nhờ một anh bạn phi công Sao Mai L19 từ Nhatrang lên bao vùng liên lạc nhắn tôi hạ san gấp ăn đám cưới của nó. Báo hại lần này tôi phải nói dối với ông tiểu đoàn trưởng một lần nữa, để bỏ rừng theo trực thăng Mỹ vù về thành phố biển.
Nó đón tôi ở phi trường Nha Trang. Vừa gặp nó tôi đă “biểu dương thành tích”:
- Tao phục mày. Tao là dân đánh đấm mà cũng chưa chiếm được mục tiêu mới trong ṿng ba tháng, nhất là sau một lần chiến bại c̣n thương tích đầy ḿnh. Mày mà ra cầm quân chắc cũng đă là “đại bàng”của tao từ lâu rồi.
Nó đấm vào bụng tôi một cái:
- Mục tiêu mục tiết cái con khỉ. Tao áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của mày đó. Nhờ có ông già cô ta làm nội ứng. Có bầu hai tháng rồi.
Tôi tṛn mắt:
- Tao c̣n phục tài mày hơn nữa. Cái ǵ mày cũng đáng là “sư phụ “của tao.
Đám cưới vội vă, nhưng cũng linh đ́nh. Có lẽ v́ thế giá của ông bà thầu khoán. Chỉ có điều đại diện bên nhà trai chỉ toàn là lính. Cha của Long thương thằng con, nhưng c̣n hận đời nên đành “vắng mặt có lư do”.
Tám tháng sau tôi về phép ghé thăm. Vợ chồng nó vẫn ở trong khu cư xá, nhưng được cấp ưu tiên một căn rộng và khang trang hơn. Trong nhà bày biện sang trọng hơn. Gặp tôi bất ngờ nó mừng ra mặt, v́ đúng lúc nó tổ chức ăn khao lên chức, nhưng lần này là chức... Cha, v́ vợ nó vừa sinh đứa con trai đầu ḷng. Niềm vui của nó lớn hơn khi cha nó lặn lội từ Vĩnh Long ra thăm để được bồng thằng cháu đích tôn. Nó nâng thằng con lên khoe với mọi người:
- Như vậy là tao cũng báo hiếu được cho ông già, sau này cũng có người bưng h́nh cho ổng.
Có người không hiểu hỏi bưng h́nh làm ǵ. Nó giải thích:
- Là khi nào ông già tao qui tiên, nó bưng h́nh ổng đi trước quan tài đó.
Tôi thúc tay vào hông nó, bảo đừng nói điều gở.
Buổi chiều, khi chia tay, tôi nắm chặt tay hai vợ chồng nó:
- Mừng cho ông bà, tài lộc ǵ có đủ rồi đó nghe. Trong đám bạn nghèo, mày là thằng số một đó nghe Long.
Hai vợ chồng ôm lấy tôi cười rạng rỡ.
Sau cái ngày ăn mừng “chiến thắng” của nó, th́ trên chiến trường thực sự của tôi lại bắt đầu sôi động. Từ Sông Mao, đơn vị tôi di chuyển khẩn cấp lên An Khê vào đúng chiều ba mươi tết. Sau khi đánh một trận thần tốc, giải tỏa mấy cái đồn của Sư Đoàn Mănh Hổ Đại Hàn bị địch bao vây ở đèo An Khê. Chỉ vài tháng sau toàn bộ lại di chuyển lên phi trường Pleiku để không vận lên Kontum, giữa “mùa hè đỏ lửa”.
Đầu tháng 3/75,sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, từ Pleiku tôi theo đơn vị trực thăng vận đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất của Tỉnh Đắc Lắc c̣n lại, nằm dưới cây số 14 trên Quốc Lộ 21 về hướng Dục Mỹ, trong kế hoạch tái chiếm thành phố đất đỏ “bụi mù trời” này. Nhưng lực lượng địch quá đông, đại quân với chiến xa T-54 của chúng từ Ban Mê Thuột ào ạt tràn xuống, trong khi chúng tôi gần như hoàn ṭan không có phi pháo yễm. Kế hoạch tái chiếm bất thành. Đơn vị tôi bị thiệt hại nặng. Sau khi bàn giao vị trí lại cho Lữ Đoàn Dù, riêng đơn vị tôi được biệt phái bảo vệ BTL Tiền Phương Quân Đoàn. Nói là tiền phương nhưng đóng tại Nha Trang. Trên đường di chuyển, tôi ghé lại Đồng Đế thăm vợ chồng Long một lần vội vă, nhưng chỉ gặp nó, c̣n vợ con th́ phải “di tản” trước về ở với ông bà già trên đường Độc Lâp NhaTrang.
Chỉ một ngày sau, những người đầu tiên sống sót từ ḍng người di tản theo tỉnh lộ 7 về đến Nha Trang, mang không khí hốt hoảng bao trùm lên thành phố biển. Long liên lạc tôi qua tần số vô tuyến, hẹn gặp gấp trước cổng Grand Hotel, đang được xử dụng làm BTL tiền phương QĐII. Trên xe vừa bước xuống, nó bảo tôi đi với nó tới Nam Việt Ngân Hàng ở góc đường Độc Lâp - Nhà Thờ, dẫn theo một tiểu đội lính.
Tôi vừa được trung tâm hành quân cho hay: một số tù trong quân lao vừa phá cổng thoát ra ngoài, nên nghĩ ngay đến chuyện có cướp ở ngân hàng. Tôi bảo nó:
- Lính tráng trong t́nh trạng ứng chiến, muốn đi đâu tao phải xin lệnhTrung Tâm Hành Quân.
Nó ngăn lại, ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ:
- Tao nhờ mày việc riêng. Mày có lính tráng dễ nói hơn tao. Tao mang cái phù hiệu quân trường, nói không mạnh lắm. Bao nhiêu tiền vợ chồng tao đều gởi trong ngân hàng. Bây giờ đến rút nó không cho, bảo phải vào ngân hàng chính trong Sài G̣n. Tay giám đốc chi nhánh bảo là cả tiền bạc và sổ sách đă gởi đi Sài g̣n rồi. Nhưng tao không tin. Hơn nữa tao là lính tráng, đâu có muốn bỏ đi Sài g̣n lúc nào cũng được.
Tôi ngần ngừ, bảo nó là không được xử dụng lính tráng trong việc này, nhưng nghĩ nó là thằng bạn thân, sống chết có nhau, hơn nữa nó nói có lư. Của ḿnh ḿnh lấy, có ǵ là phi pháp. Tôi vào nói nhỏ thằng bạn sĩ quan trực trong TTHQ, rồi gọi hai chú lính thân cận đi theo. Đậu xe bên kia đường, chỉ có tôi và Long vào ngân hàng. Hai thằng nói nhỏ với mấy anh cảnh sát gác cửa xin vào gặp ông giám đốc. Bắt tay chào hỏi ông xong tôi “dùng t́nh cảm xuống nước nhỏ”:
- Nhờ ông giám đốc đặc biệt giúp cho anh bạn thân của tôi. Chắc ông cũng biết, đây là tiền buôn bán làm ăn của vợ ảnh chứ có thụt két tham nhũng ǵ đâu. Hơn nữa tụi tôi là lính, phải đi theo đơn vị, đâu có biết lúc nào mới vào được Sài G̣n mà rút tiền. Tôi biết là khó khăn cho ông, nhưng mong ông giúp đỡ đám nhà binh tụi tôi trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này.
Ông giám đốc nghiêm mặt chau mày suy nghĩ, rồi hạ giọng.
- Thực là khó cho tôi quá, v́ tôi phải làm theo lệnh của trung ương. Nhưng thôi được, nể t́nh mấy anh, tôi phải lấy quỹ dự trữ an toàn ra mà phát cho anh. Nhưng xin các anh đừng tiết lộ cho ai biết nghe.
Chúng tôi nói cám ơn đến mấy tiếng. Và như để đáp lễ tôi cũng báo cho ông biết (mà có lẽ người Nha Trang nào cũng biết rồi) là t́nh h́nh nguy hiểm lắm, tù trong quân lao đă thoát được ra ngoài. Ông phải đề pḥng.
Trước đây tôi đă nghe nó khoe mấy lần là con vợ Bắc kỳ của nó làm ăn rất giỏi, nhưng tôi cũng không ngờ thằng bạn nghèo của tôi ngày xưa bây giờ lại có nhiều tiền đến như vậy. Tôi không rơ bao nhiêu, nhưng thấy nó phải dùng đến mấy thùng đạn đại liên để chứa tiền. Nó dúi vào tay tôi một xấp bạc, bảo để tôi có xài tạm trong lúc khó khăn (sau đó tôi đếm được 30.000). Nó ông vai tôi chia tay và quay trở về Đồng Đế ngay. Tôi bảo sao không cất tiền ở nhà ông bà già vợ mà đem vô chỗ giặc giă, lính tráng làm ǵ. Nó lắc đầu:
- Tao chẳng bao giờ muốn dính dáng tới cái bà già Bắc kỳ giết giặc đó. T́nh h́nh này th́ người đâu của đó cho bảo đảm. Hơn nữa ở cư xá tao c̣n có lính tráng canh gác.
Hôm sau, Trung Tâm Hành Quân được báo cáo là địch quân đang tập trung quân cố chọc thủng pḥng tuyến cuối cùng của Lữ Đoàn Dù ở Khánh Dương. Các Trung Tâm Huấn Luyện ở Dục Mỹ chuẩn bị di tản về Phan Rang. Ṭa Lănh Sự Mỹ cũng đă rời khỏi Nha Trang, và ông tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Khánh Ḥa một thời hét ra lửa cũng đă biến mất từ lúc nào, không có mặt trong buổi họp khẩn cấp sáng nay của Tiểu Khu. Ngày hôm sau, tướng Phú bay vào Sài g̣n tŕnh diện Tổng Thống. Đám chúng tôi không có ai để nhận lệnh lạc nữa. Liên lạc với người bạn thân trong TTHL Hải Quân, được biết chiến hạm 401 HQ sẽ ủi băi tối nay để di tản toàn bộ SVSQ /HQ vào Vũng Tàu hoặc Cát Lở. Anh ta có trách nhiệm đi theo. Tôi xin anh dành cho tôi mấy chỗ và giúp đưa vợ con tôi đi trước, c̣n tôi cùng đơn vị sẽ di chuyển vào Đồng Bà Th́n, Cam Ranh để sáp nhập với đại đơn vị ở đây. Anh bạn tốt bụng trả lời OK ngay. Tôi vội vă xách xe Jeep chạy về Ninh Ḥa đón vợ con.
Đồng hồ trên tay tôi chỉ 2 giờ 15 phút chiều. Tôi gọi vô tuyến cho Long, bảo nó cùng vợ con chuẩn bị sẳn sàng tại cư xá hoặc tại nhà ông bà già vợ nó, tôi về Ninh Ḥa đón vợ con vào rồi ghé đón gia đ́nh nó cùng đi luôn. Nó bảo nó sẽ đón vợ con nó về cư xá để chờ tôi, và chúng tôi hẹn gặp nhau đúng 5 giờ chiều.
Đến đèo Rù Ŕ, tôi vững tâm và thầm cảm phục khi thấy một đơn vị Dù vừa được trực thăng đổ xuống, đang b́nh tĩnh dàn quân pḥng thủ dọc theo sườn núi trên đèo. Nhưng xe vừa xuống đèo, tôi giật ḿnh khi thấy vô số xe cộ, dân, lính đủ loại nối đuôi không dứt, hối hả chạy ngược chiều về hướng Cam Ranh. Chỉ duy nhất cái xe của tôi là đơn độc hướng về phía bắc, Ninh Hoà. Tôi giành tay lái, bảo anh tài xế ôm súng ngồi bên cạnh. Anh cũng là dân Ninh Ḥa nên xin về với gia đ́nh luôn, không muốn đi theo.
(Có một chi tiết nhỏ nhưng đă làm tôi cảm động và khó quên: Khi tới chân Đèo Rọ Tượng, nơi trước kia đă học khóa Rừng Núi Śnh Lầy, tôi thấy một chiếc xe đám cưới, mà cô dâu là cô bé láng giềng xinh đẹp của bà xă tôi, và chú rể là một sĩ quan Pháo Binh trẻ. Đôi tân hôn nhớn nhác hối hả chạy theo ḍng xe định mệnh. Trong những ngày trong tù, đôi khi tôi nghĩ tới cô dâu chú rể giờ thứ 25 này và không biết t́nh duyên của họ giờ đă ra sao).
Khi chở vợ con trở lại Nha Trang, từ quốc lộ rẽ vào trường Đồng Đế để đón gia đ́nh Long như lời hẹn, tôi chứng kiến một cảnh tượng thật thê lương: quân phục, súng ống vất dọc đường, mấy ngôi nhà đang cháy, có vài ba xác chết. Khó khăn lắm tôi mới lái xe tới được khu cư xá của Long. Nhà mở toang cửa, trong nhà vật dụng ngổn ngang, không một bóng người. Tôi gọi Long trên máy vô tuyến, nhưng không nghe lên tiếng. Tôi lo lắng cho nó khi nghĩ tới số tiền lớn của nó mang về từ Ngân Hàng. Và cũng kể từ đó tôi không c̣n liên lạc được với Long nữa.
Qua bao khó khăn nguy hiểm, đơn vị tôi mới vào được Vũng Tàu. Tôi xin phép về Sài G̣n, t́m gặp và sắp xếp nơi ăn chốn ở cho vợ con xong, rồi trở lại tŕnh diện đơn vị cũ. Đơn vị tôi cùng nhiều đơn vị khác di tản từ Quân Khu 2 về đây, đều được giải tán để tái lập Sư Đoàn 22BB. Tôi được Đại tá Vơ Ân, người hùng từ chiến trường Ban Mê Thuột t́m và nhận về Trung Đoàn 47 vừa mới tái lập đạt dưới quyền chỉ huy của aanh. Đại Tá Vơ Ân tốt nghiệp khóa 12 Thủ Đức, dáng dấp nhỏ nhắn và hiền lành như một ông thầy giáo nhưng lại là một vị chỉ huy trẻ tuổi, tài năng đảm lược, nổi tiếng tại Vùng 2. Đặc biệt trong trận chiến Ban Mê Thuột, khi đại quân Cộng Sản đă chiếm hết thành phố này, ông chỉ huy đơn vị (khi ấy là Trung Đoàn 53/SĐ23BB) cố thủ tại phi trường Phùng Dực (chỉ với một Tiểu Đoàn và Đại Đội Trinh Sát) đến mấy ngày sau trước một lực lượng địch đông đăo bao vây. Khi sắp hết đạn, ông mở đường máu rút quân, phân tán từng toán nhỏ di chuyển về điểm hẹn Phước An.
Trung Đoàn 47 BB vừa tái lập xong, chúng tôi nhận lệnh di chuyển xuống Long An để mở những cuộc hành quân nhằm ngăn chặn địch quân kéo về vây hảm và pháo kích vào Sài g̣n.
Rồi cuối cùng cái biến cố đau thương cũng phải đến. Khi đám Cộng quân tràn vào Dinh Độc Lập sau khi Ông Tổng Thống Dương văn Minh lên đài phát thanh mời “người anh em bên kia” đến nhận bàn giao th́ đơn vị chúng tôi vẫn đang hành quân dưới miệt Cần Giuộc, và vừa tái chiếm xă Mỹ Lộc, một số đồng đội bị thương vào giờ thứ 25 chưa kịp tản thương. Đất nước thống nhất, “những người anh em bên kia” đă đăi ngộ tôi bằng tám năm đọa đày trong các trại tù cải tạo tận vùng Việt bắc. Vợ con ở nhà th́ nheo nhóc, thê lương. Cha tôi cũng bị bắt vào trại tù Đá Bàn và đă chết gần một năm sau đó.
Ra tù, không c̣n đất sống, tôi phải liều thân dẫn vợ con vượt biển ra đi. Sau bốn năm định cư ở Na Uy, cuộc sống gia đ́nh tạm ổn định. Hai cô con gái lớn may mắn được một trường đại học bên Mỹ nhận, vợ chồng tôi đưa hai cháu sang Cali t́m nơi ăn chốn ở, nhân tiện thăm đám bạn bè cùng đơn vị ngày xưa. Gặp thằng bạn này th́ nghe thêm tin tức của vài thằng bạn khác, đứa c̣n đứa mất, mỗi thằng một cảnh long đong. Và bất ngờ tôi biết được tin Long. Một thằng bạn, khi mới chân ươt chân ráo từ trại tị nạn Bidong sang Mỹ, được ông chủ gốc nhà binh ưu ái nhận vào làm trong một siêu thị trên Michigan. Người chủ ấy chính là Long. Thằng bạn cho biết Long sang đây từ năm 75, và có tài kinh doanh nên bây giờ đă là triệu phú. Anh ta rất tốt với đám nhà binh lưu lạc sang đây. Biết ai là lính ngày xưa, Long cũng đến thăm, giúp đỡ tận t́nh, nếu chưa có việc làm, anh sắp xếp vào làm tạm tại các siêu thị, nhà hàng của anh, đảm trách những công việc nhẹ nhàng, lương bổng cũng khá. Anh bạn lục lọi trong cuốn sổ tay t́m đuợc số phôn gọi lên t́m, nhưng siêu thị đă bán cho chủ mới. Họ tốt bụng hứa là sẽ t́m số phôn mới của Long. Lần ṃ đến ba hôm sau, chúng tôi gọi được Long. Nó đúng là thằng bạn chí t́nh. Giàu nhưng không quên bạn. Nhận ra giọng nói của tôi trong điện thoại, nó hét lên mừng rỡ:
- Bây giờ mày đang ở đâu? Mày đi một ḿnh hay có vợ con không? Nghe tin mày vượt biển, tao t́m mày khắp nước Mỹ mà không ra.
- Tao đang ở nhà người quen ở Sacramento với bà xă và hai đứa con gái. Tao ở bên Âu châu qua, chứ có ở Mỹ này đâu mà mày t́m. Tôi trả lời
- Tao “búc” vé máy bay ngay bây giờ, tụi mày lên tao ngay chiều nay nghe?
- Không được, chiều nay tao đă có hẹn ở San Jose, hơn nữa đâu có biết là gặp mày, nên tao đă mua vé rẻ đi một ṿng qua nhiều tiểu bang lắm. Chiều mai tụi tao bay lên Maryland, Houston rồi sang Florida, North Carolina và một vài nơi nữa, làm sao gặp mày bây giờ.
Nó bảo tôi cho số phôn và nó sẽ gọi lại sau mười phút. Nó gọi lại, hẹn gặp tôi tại phi trường San Jose. Nó bảo vợ chồng nó có nhà nghỉ mát ở gần đó. Vợ chồng nó sẽ đến San Jose bằng chuyến bay 5 giờ chiều nay.
Tôi đón nó ở pḥng đợi phi trường cùng với vợ chồng thằng bạn khác ở San Jose mà tôi đă hẹn. Long nhận ra tôi trước. Nó khác xưa nhiều lắm, mập ra và trông bệ vệ như một chính khách hơn là một thương gia. Nó ôm chặt lấy tôi quay mấy ṿng.
Sau khi ăn tối xong nó đưa bọn tôi về nhà nghỉ mát của nó. Ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi nh́n xuống cây cầu nổi tiếng Golden Gate ở San Francisco. Ngôi nhà nhỏ, nhưng khá xinh, có cậu em trai út của vợ nó đang ở và một người Mễ trông coi. Nó bảo ngôi nhà này lúc trước nó mua cho cô con gái ở trong thời gian theo học trường Stanford. Bây giờ có chồng nên dọn đi nơi khác. Nó tính sau này vợ chồng nó sẽ về đây dưỡng già, nên giữ cái nhà này lại.
Hôm ấy, chúng tôi thức suốt đêm, nhắc nhở bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, điểm danh lại đám bạn bè, tính xem đứa mất đứa c̣n, đang trôi dạt nơi đâu. Tôi kể cho nó nghe hơn tám năm tù đày khốn khổ, vợ con nheo nhóc, và nhớ lại trước ngày mất Nha Trang, khó khăn và nguy hiểm lắm tôi mới đến được Cam Ranh rồi Vũng Tàu, nhưng t́m khắp nợi mà không thấy vợ chồng nó, nên rất lo lắng.
Nó rơm rớm nước mắt:
- Tao thường nhắc với vợ con tao về mày, bảo tất cả phải nhớ ơn mày. V́ nhờ mày tao mới rút được tiền ở ngân hàng Nam Việt hồi ấy. Và chính nhờ số tiền đó, khi đưa cả gia đ́nh tao và gia đ́nh bà xă tao đến Cam Ranh, xe cộ chật cứng, cả đêm không nhúc nhích được, mạnh ai nấy t́m đường sống. Tao trả giá rất cao mới mua được một chiếc tàu máy rồi cả nhà chạy ra đệ thất hạm đội. Nếu không có tiền, chẳng hiểu bây giờ tụi tao ra sao nữa.
Nghe nó nhắc gia đ́nh vợ, tôi hỏi bố mẹ vợ nó bây giờ ở đâu và sức khỏe ra sao. Nó bảo ông cụ hiền lành th́ mất hơn năm năm rồi, bà già “Bắc kỳ giết giặc” th́ vẫn c̣n sống và đang ở San Jose cũng gần đây thôi. Có lẽ nó vừa nhớ tới chuyện ngày xưa nên câu chuyện trở nên sôi nổi:
- Lúc chạy bà cũng gần trắng tay. Của ch́m của nổi bỏ lại hết. Tao hận cái nghèo, hận chuyện ngày xưa, nên qua đây tao đi làm đầu tắt mặt tối, kiếm một số vốn rồi ra kinh doanh. Tao nghĩ ở cái xứ này chỉ có làm business th́ mới sớm đổi đời. Không ngờ tao có lộc trời, chưa đầy mười năm sau tao có mấy cái nhà hàng, và một siêu thị. Tao mua cho ông bà cái nhà cả triệu đô, nuôi đám con của bả, em của bà xă tao, thằng nào cũng xong đại học, hai thằng ra bác sĩ, c̣n thằng út, đang ở nhà tao đây, th́ học MBA ở Stanford. Tao làm cho bà ấy thấy tiền bạc có nghĩa ǵ đâu, mà ngày xưa bà khinh rẻ gia đ́nh tao, làm cho ba tao buồn đến phát bệnh luôn. Cả đời này tao sẽ c̣n hận bà. Lo đầy đủ cho gia đ́nh bà xong, vợ chồng tao “mu” lên Texas, rồi Washington DC, Michigan, Oregon và cuối cùng th́ tới đóng đô ở Seattle. Từ đó tao không muốn gặp bà ấy nữa, v́ mỗi lần gặp bà tao lại nghĩ đến nỗi hận của Ba tao. Chỉ có vợ tao lâu lâu về thăm bà mà thôi.
- C̣n mấy đứa con của mầy ra sao, không nghe mầy nhắc tụi nó.
- Lúc tụi tao ra đi, chỉ có thằng Đăng bảy tuổi và con Tâm mới năm tuổi. Sang đây đổi tên thành Danny và Tammy, Qua Mỹ, tuị tao chỉ có thêm thằng Kevin. Thằng Danny th́ tốt nghiệp luật ở Yale, đang làm cố vấn pháp luật cho hảng Boeing, con Tâm th́ ra trường Stanford ngay San Francisco này. Bây giờ làm SFO cho Bank of America. Cái nhà này lúc trước tụi tao mua cho nó ở. C̣n thằng út Kevin th́ đang học ờ Harvard, trên Massachusetts.
Mắt tôi sáng lên, mừng cho sự thành công của vợ chồng nó:
- Tao phục mày. Con cái mày giỏi quá. Tụi mày vừa được vinh dự lại vừa tha hồ hưởng phước.
Nó trợn mắt:
- Dự với phước cái con khỉ. Tụi nó lấy vợ Mỹ, chồng Mỹ hết. Bây giờ tụi nó thành Mỹ hết. Mà lại là thứ Mỹ “quí tộc”. Cả năm nay tao chưa gặp tụi nó. C̣n bọn nó đâu có rảnh. Có vacation là nó đưa vợ con nó đi đó đi đây. Lâu lâu nó gọi phôn hỏi thăm tao vài câu. C̣n bà vợ tao nói tiếng Anh rặt giọng Bắc kỳ, nên mẹ con, bà cháu nói một hai câu là cúp phôn. Nghĩ lại, “lỗi tại ta mọi đàng”. Sang đây vợ chồng tao cứ lo làm giàu. Tao nghĩ ở Việt Nam v́ gia đ́nh tao nghèo, nên bị người ta khinh rẻ. Mặc dù tao cũng có chức có tước như ai. Tao nghĩ có tiền là có tất cả. V́ vậy mà đâu có c̣n th́ giờ để gần gũi con cái, cứ bắt tụi nó phải học, cho nó ở hẳn trong “dorm”, không cho nó kết bè kết bạn với đám nhỏ Việt Nam, để cho tụi nó sớm thành Mỹ, mà phải là Mỹ thượng lưu, trí thức. Bây giờ nó đă thành Mỹ thiệt rồi th́ càng lúc tao thấy càng cách xa tụi nó, có khi mất luôn. Tính ra con cháu cũng cả đàn đó chứ, vậy mà bây giờ nh́n trước nh́n sau cũng chẳng có ai. Không biết lúc về già vợ chồng tao sẽ sống ra sao đây, vào viện dưỡng lăo th́ chán chết.
Tôi đùa để an ủi nó:
- Que sera sera! mày cứ khéo lo. Ở ngoài này đa số là vậy. Rồi đến khi lá rụng cũng sẽ về cội thôi.
Nó thở dài:
- Cội ở đâu mà rụng. Chính lúc tao “rụng” cũng không về được với cội, chứ nói chi tới đám con cháu. Cội của tao là ở cái xứ nghèo Chợ Lách, Vĩnh Long bên Việt Nam ḱa. Tao cũng đă tính mai mốt về già, vợ chồng tao sẽ về sống vài năm cuối đời rồi chết ở Việt nam. Nhưng khốn nỗi chẳng c̣n chỗ để mà về nữa. Bà già tao, như mày biết, qua đời hồi tao c̣n trung học. Ông già tao th́ mất từ năm 78. Ở cái làng nghèo mà có một thằng làm đến quan tư như tao là được xếp loại ác ôn ghê lắm. Tao đi rồi, ở nhà ông già tao lănh nợ cho tao. Bị bắt lên bắt xuống, hành hạ đủ kiểu, nên phải chết sớm. Tội nghiệp, ngày xưa khi vợ tao sinh con trai đầu ḷng, tao mừng v́ nghĩ khi nào ông già qui tiên sẽ có thằng cháu đích tôn bưng tấm h́nh của ông đi trước quan tài. Vậy mà cho đến bây giờ, chính tao cũng không biết ngội mộ của ổng ra sao. Tao chỉ c̣n có thằng em trai, lúc nó theo ông già vào thăm tao trong Thủ Đức chắc mày c̣n nhớ. Hồi xưa nó chịu khó học hành, hiền lành hiếu để lắm. Tao có mỗi nó là em, nên thương nó hết ḿnh, tiền bạc tao gởi về như nước. Không ngờ có nhiều tiền nó trở chứng, bỏ vợ bỏ con xuống Sài g̣n rượu chè bài bạc, sống hết với con này tới con khác. Cuối cùng th́ nó hút x́ ke. Vợ nó bán cả nhà từ đường, thu tóm tiền bạc dẫn đứa con trai đi biệt tích. Sau này nghe nói nó theo một tay Bắc kỳ nào ra tận Hà Nội, Hải Pḥng ǵ đó. Tao phải thuê người bà con xây lại ngôi mộ cho ông bà già tao, và đến ngày giỗ th́ thắp cho ông bà cây nhang. Nằm dưới suối vàng chắc ông bà cũng tủi thân lắm. Tao chưa về Việt nam, nhưng ở đây có nhiều người đă về thăm, họ bảo là bây giờ cái xă hội “ kinh tế thị trường theo định hướng ǵ đó” ở bên nhà đă làm cho con người ta đổi thay nhiều lắm. Đồng tiền nó đă xói ṃn tất cả mọi thứ đạo đức ở quê nhà. Cái làng nhỏ ở xứ Chợ Lách khỉ ho c̣ gáy của tao bây giờ cũng đầy dẫy quán bia ôm, cà phê ôm, với đủ hạng đĩ điếm. Cha mẹ c̣n đem con gái bán cho đám Đài Loan, Đại Hàn, hay mấy mụ tú bà. Bọn chính quyền trong nước cứ bảo những người ở ngoài này là “khúc ruột ngàn dặm”, là “một bộ phận không thể tách rời” nhưng trong ḷng th́ vẫn c̣n mang nặng thù hằn. Tao rất sợ cái loại chữ nghĩa này của đám Cộng sản. Người chết nằm trong nghĩa trang Biên Ḥa c̣n bị đập bia, phá mộ, san bằng, huống hồ những thằng c̣n sống như tao với mày. Ai mà tin được. Mày c̣n nhớ câu nói của ông Thiệu: “Đừng tin những ǵ Cộng Sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ bọn nó làm” không?
Ngưng vài phút, nốc cạn cốc Cordon Bleu, nó ngẩng đầu lên nh́n tôi:
- Mày thấy không. Ngày xưa nghèo th́ bị người ta khinh rẻ. Bây giờ giàu có, tiền bạc lại không biết để làm ǵ. Đúng là khi mất quê hương th́ mất tất cả. Cuộc đời này khốn nạn thật. Sắc sắc không không! Có lẽ tao sẽ đi tu.
Tôi ôm chặt vai nó:
- Th́ mày c̣n bạn bè, mày c̣n tụi tao đây. Có khi bạn già sống với nhau lại hay, v́ ḿnh dễ cảm thông, dễ chia sẻ mọi nỗi niềm.
Không ngờ lời nói chỉ cốt an ủi của tôi đă làm cho đôi mắt nó sáng lên:
- Hay là mày cho hai đứa con mày ở lại đây với vợ chồng tao. Tụi tao hứa là sẽ coi nó như con tao. Mấy cháu c̣n nói tiếng Việt giỏi quá, mà cũng lễ phép dễ thương. Nói chuyện với tụi nó tao thấy sao mà gần gũi quá, nhất là bà xă tao cứ ôm tụi nó mà nói đủ thứ chuyện dưới đất trên trời. Tao sẽ lo cho tụi nó vô trường Stanford hay ít nhất là Berkeley, chứ học mấy cái trường State đó làm ǵ. C̣n vợ chồng mày cứ sang đây, tao nhường lại cây xăng, hay một cái nhà hàng. Mọi thứ đều free. Khi nào tụi mày giàu rồi th́ từ từ trả vốn cho tao cũng được. Để tụi mày c̣n sớm được cấp thẻ xanh nữa.
Tôi cười, vỗ vai nó,
- Cám ơn mày. Con tao sang đây đă lớn, bên Việt nam th́ cũng chẳng được bọn Cộng sản cho phép học hành ǵ. Tụi nó học không giỏi lắm, vào được State là tao mừng rồi. Tao chỉ mong ra trường tụi nó kiếm việc ǵ đó làm, đủ để tự lo cho ḿnh. C̣n tụi tao có biết buôn bán kinh doanh ǵ đâu. Tao ở lại sau tháng 4/75 nên thấy mọi thứ sao mà phù du quá. Nhiều kẻ vong ơn, phản trắc quá. Con người đối xử với nhau sao mà ác độc quá, c̣n tệ hơn loài cầm thú. May mà đám bạn bè tụi ḿnh c̣n giữ được chút t́nh. Cái này quư lắm, nên hăy cố mà giữ lấy, đừng để giàu nghèo nó làm mai một. Tao buồn lắm, khi thấy trong đám nhà binh của tụi ḿnh, có nhiều thằng cũng từng một thời đánh đấm, tù tội với nhau, vậy mà ra ngoài này mới sung sướng một chút, đă tranh nhau chức tước hư danh mà chia bè chia nhóm, chữi bới nhau c̣n hơn là kẻ thù. Thấy mà ngán ngẫm. Thôi, để tụi tao về Na Uy làm tà tà cũng đủ sống. Hơn nữa tao cũng thích ở cái xứ Bắc Âu hiền ḥa yên tĩnh, hợp với những thằng chậm chạp như tao. Và tao cũng cần tịnh dưỡng để chữa những vết thương khó mà lành được trong ḷng tao nữa. Nghe mày tâm sự, tao cũng thấy sợ. Sang đây với mày, không khéo sẽ trở lại cái điệp khúc cũ của mày.
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao trên đỉnh đồi, hai thằng mới chui vào pḥng ngủ. Trước khi chợp mắt, hồi tưởng lại ngày xưa, tôi thấy ḷng lâng lâng tiếc nuối. Dù sống trong nghèo khó, hiểm nguy, nhưng ḷng lúc nào cũng vui, cũng thấy yêu đời. Cả đất trời và ai nấy cũng dễ thương. Có lẽ bởi con người c̣n nặng t́nh với nhau và ḿnh c̣n có cái cội đích thực để dù đi đâu cũng c̣n chỗ để quay về - Và dĩ nhiên, đó là thời gian trước tháng 4/1975.
(Mùa Hè 1990)