BBT xin được giới thiệu Bác Sĩ Phạm Anh Dũng, tốt nghiệp khóa 21 Quân Y Hiện Dịch, nhận nhiệm sở tŕnh diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y /Sư Đoàn 3 BB vào giữa tháng 3, 1975, và ngay sau đó phục vụ Đại Đội QY của Trung Đoàn 2 BB. Không đầy 2 tuần sau, anh đă phải di tản về Đà Nẵng. Là một chứng nhân trong những ngày cuối trước khi Đà Nẵng mất vào tay CS, anh đă mô tả t́nh trạng hỗn độn của thành phố và anh đă may mắn đă rời được Đà Nẵng trong giờ cuối của ngày 29 tháng 3, 1975.
Mời quư Anh Chị Em đón đọc bài "Những Ngày Cuối Cùng ở Đà Nẵng và Cam Ranh".
Bác sĩ Phạm Anh Dũng, tuy hành nghề Family Practice tại San Diego từ nhiều thập niên qua, nhưng đặc biệt được biết đến là một nhạc sĩ nổi tiếng trong giới Y học, với hàng trăm bài nhạc tự sáng tác hay phổ từ thơ. Như: Dạ Quỳnh Hương, Gọi Mùa Thu Mơ, Yêu Em và Yêu Em, T́nh Khúc Mùa Đông, T́nh Khúc Mùa Xuân, Rồi Em Đă Xa Tôi... cùng cả chục bản nhạc với thể điệu Blue với giai điệu tuyệt vời.
BBT thân mến cám ơn Bs. Phạm Anh Dũng chia sẻ bài viết này, nhân tưởng nhớ Tháng Tư Đen
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG Ở ĐÀ NẴNG VÀ CAM RANH
Phạm Anh Dũng
1. Ngày 29 tháng 3, 1975 ở
Đà Nẵng
Ngày 29 tháng 3, 1975 là ngày mất Đà Nẵng. Buổi sáng
29 tháng 3, tôi vẫn c̣n ở Tiểu Đoàn 3 Quân Y Sư
Đoàn 3 Bộ Binh.T́m Vũ Quốc Cường, cùng lớp
Y Khoa Sài G̣n 1974 và cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21 (QYHD-21)
th́ được biết Cường được anh
ruột Vũ Quốc Cương, bác sĩ quân y chuyên
khoa Gây Mê ở Tổng Y Viện Duy Tân, đón đi từ
hôm qua, sau khi Tổng Y Viện Duy Tân “tan hàng”.Tôi thật t́nh
cũng không biết phải làm ǵ, v́ không phương tiện
di chuyển và cũng không biết đi đâu bây giờ!
Tôi hoàn toàn không biết đường lối v́ mới ra
trường và đáo nhậm đơn vị mới có
hai tuần lễ! T́nh cờ gặp xe Jeep của Nguyễn
Hữu Măn (QYHD-20), lúc đó là y sĩ trưởng Thiết
Kỵ của Sư Đoàn 3. Trên xe đă có 3 dược
sĩ, Lê Văn Khoa (QYHD-18), Lê Tử Ư và Trần Văn Quang
(QYHD-21). Họ rủ tôi cùng chạy ra Đà Nẵng.
Đoán chừng là đến lúc phải đi, tôi vội vớ
lấy cái đàn guitar và bốn quyển sách nhạc chép tay
mà tôi rất quư, theo các bạn lên xe. Thành phố Đà Nẵng
lúc đó coi như thành phố chết, thỉnh thoảng
có bóng người và tiếng súng nổ. Nhưng ra đến
bến tàu sông Hàn th́ đầy người. Lê Văn Khoa nhẩy
xuống được và đứng ở mũi một
chiếc ca nô. Khoa cầm súng M16 “giữ trật tự”, v́
dân chúng muốn ùn vào ca nô có thể làm ch́m. Lê Văn Khoa dục
tôi nhảy theo, nhưng không rơ v́ lư do ǵ không nhớ
được, tôi ở lại bến tàu! Tôi lại chạy
ngược về Sư Đoàn 3, h́nh như cùng xe Jeep với
Nguyễn Hữu Măn. Trước khi chia tay, tôi có thẩy xuống
ca nô cái đàn guitar và bốn quyển nhạc nhờ Khoa
giữ.
Về đến
Sư Đoàn 3, tôi gặp Lê Văn Thu, QYHD-20, đang chạy
ra. Thu hỏi: “Cậu c̣n quay về lại đây làm ǵ?
Đâu c̣n ai, c̣n ǵ nữa đâu!” Thu có hai xe gắn máy, Thu
chạy bằng chiếc Honda do vợ để lại (vợ
con Thu đă bay về Saigon trước đó một tuần),
và đưa tôi cái xe Bridgestone bảo tôi chạy… ngược
lại bến tàu. Thật là luẩn quẩn!
Đào Tư Huyền (y sĩ
trưng tập, vừa được bổ nhiệm ra
Thiết đoàn Kỵ Binh của SĐ3BB, chuẩn bị
thay Nguyễn Hữu Măn) lái cái xe gắn máy Yamaha chạy
cùng lúc. Tôi lại chạy qua thành phố Đà Nẵng, tiện
ghé pḥng mạch Nha Khoa của anh Nha sĩ Nguyễn Nhật
Thăng (QYHD-19) rủ cùng đi. Anh Thăng đă đi rồi,
nhưng lại bất ngờ gặp bạn thân Nguyễn
Tiến Dũng, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) QYHD-21, em
ruột anh Thăng.
Đào Tư Huyền biết
đường phóng Yamaha chạy đi trước dẫn
đường, hai thằng Dũng chở nhau theo sau để
ra bến tàu. Giữa đường xe Bridgestone chết
máy. May sao Đào Tư Huyền, không bỏ bạn, quay lại
t́m và thế là cả ba đèo nhau trên xe Yamaha ra được
băi biển Tiên Sa, ở bán đảo Sơn Trà.
Lúc đó coi như tuyệt vọng:
Cả ngàn người chen nhau đứng trên xà lan thành
không c̣n hy vọng ǵ. Ba thằng bèn đứng ở bến
tàu nh́n …người.
(Băi biển Tiên Sa, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng 29 tháng 3 năm 1975)
Khoảng 3 giờ rưỡi
chiều, sao tự nhiên có cái thuyền nhỏ xáp vào. Người
chủ thuyền mời ai muốn đi ra khơi. Không ai
dám theo, nhưng tôi bảo Dũng và Huyền: “Đằng
nào ḿnh cũng hết đường”.
Cả ba móc túi có bao nhiêu tiền đưa gần hết
cho chủ thuyền. Thuyền ra sau một rặng núi bên bờ
biển th́ chúng tôi thấy một số tàu nhỏ há mồm
(tàu đổ bộ-Landing craft LCU) đậu đợi
đón đám quân Lôi Hổ. Một thiếu uư Lôi Hổ trên
một tàu dơ tay, bàn tay chiến hữu, kéo chúng tôi từng
người vào tàu.
Và v́ vậy sau đó cả ba về được Cam Ranh.
Lê Văn Khoa rồi cũng về được Cam Ranh
nhưng đàn và sách nhạc thất lạc hết
trơn.
Lê Văn Thu th́ bị kẹt ở Đà Nẵng.
Xe tăng của Việt Cộng vào Đà Nẵng cũng
buổi chiều cùng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
2. Ngày 2 Tháng Tư 1975
ở Cam Ranh.
Sau mấy ngày đêm lênh đênh trên chiếc tàu
đổ bộ nhỏ đi chậm từ Đà Nẵng
đến được Cam Ranh. Nguyễn Tiến
Dũng, Đào Tư Huyền và tôi được tàu cập
bờ cho xuống. Ba thằng mệt nhoài sau những ngày
đêm đói và khát, v́ chỉ được cho chút nước
uống cầm hơi.
Vừa lên bờ cả bọn t́m một quán ăn uống
cho đỡ đói ḷng. Ăn xong ra khỏi quán th́ gặp
một đám lính Thủy Quân Lục Chiến. Đó lại
là quân của TĐ-TQLC 1 cũng thoát về đến Cam
Ranh. Nguyễn Tiến Dũng, y sĩ trưởng
TĐ1-TQLC, gia nhập lại đám lính của ḿnh và theo họ
đi với Tiểu Đoàn.
Tôi và Huyền đi loanh quanh.
Bến tàu đầy lính: Đa số là TQLC, rồi Nhảy
Dù, Biệt Động Quân, Bộ Binh…. Đủ mọi
binh chủng Hải Lục Không quân từ vùng 1 và một số
vùng 2 chiến thuật đă mất đổ về. Tôi và
Huyền, hai y sĩ của Sư Đoàn 3, chỉ t́m
được vài người lính ở Sư Đoàn 3. Hai
đứa không biết phải làm ǵ bây giờ!
Tôi chợt nhớ ra đến Hải Quân Đại tá Bùi
Cửu Viên. Anh Viên là chồng chị Hồng Thủy, bạn
thân chị Nga, chị ruột tôi. T́m gơ cửa và được
anh cho vào nhà, “để anh sẽ tính sau”. Anh Viên lúc đó là
Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân
ở Cam Ranh. Anh cho biết t́nh thế rất nghiêm trọng
và anh đang t́m cách đưa “cả trường” về
Nam. Huyền mệt lăn ra ngủ. Tôi không yên tâm, lại
lẻn bỏ ra phố đi luẩn quẩn một ḿnh.
T́nh cờ có một xe đầy lính TQLC đậu trên
đường. Trên xe, thấy có hai bạn QYHD-20 là Bùi Ngọc
Bảng và Phạm Ngọc Trâm cùng vài Y Sĩ TQLC đàn anh
khác. Tôi có vẫy tay chào để hỏi tin tức,
nhưng cả hai đều không kịp nh́n ra tôi v́ xe họ
lại chạy ngay lúc đó.
Chỉ độ ba giờ đồng hồ quay lại mà
thành phố đă đổi hẳn: Đông lính hơn và trật
tự không c̣n nữa. Lai rai đă có súng nổ và lính cầm
súng chạy vừa bắn mà không rơ bắn ai! Một
người bị trúng đạn xuyên qua cánh tay chảy
máu. Tôi phải xé tay áo rách của anh ta để chặn vết
thương cầm máu. Ngồi cột vải cho vết
thương mà thấy …lạnh ở lưng, v́ súng vẫn
nổ!
Tôi gơ cửa một quán ăn, không phải để
vào ăn mà để t́m chỗ … tránh đạn! Khi tiếng
súng vừa ngưng tôi vội trở về nhà anh Viên. Anh
Viên nổi giận “la” cho một trận bảo không
được ra khỏi nhà nữa.
3. Ngày 3 tháng
Tư 1975 ở Cam Ranh.
Sáng sớm, anh Viên đánh thức hai đứa
dậy, cho biết Nha Trang đă mất ngày hôm trước.
Anh không cho th́ giờ đánh răng và rửa mặt. Anh chở
thẳng hai đứa ra bến tàu, dẫn lên tàu HQ-802. Trên
tàu gặp lại Nguyễn Tiến Dũng và thêm Nguyễn
Bá Linh (TQLC, QYHD-21). Linh kể khi ở Đà Nẵng, suưt chết
đuối trên biển khi đang bơi ra tàu. Tôi cũng
được kể bạn thân Vũ Đức Giang
(TQLC, QYHD-21) bị kẹt và bị bắt ở băi biển
Thuận An, Huế (Giang về sau, 1976, tự tử
chết trong trại cải tạo.)
Hai đứa, Huyền và tôi, theo tàu HQ-802 chở đám c̣n
lại của sư đoàn TQLC (chắc chỉ hơn 1000
quân) về đến Vũng Tàu.
Anh Bùi Cửu Viên ở lại Cam Ranh lo cho các khóa sinh của
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân.
4. Ngày 4 tháng Tư 1975.
Ngày 4 tháng Tư 1975 là ngày mất Cam Ranh.