50 năm đă qua từ khi VNCH mất và chúng ta trở thành người Việt tỵ nạn CS. Xin quư Anh Chị Em thắp nén nhang ḷng tưởng nhớ đến cả triệu quân dân cán chính Miền Nam VN đă chết trong cuộc chiến cho Tự Do.
BBT xin được giới thiệu BS. Bạch Thế Thức, tốt nghiệp khóa 21 Quân Y Hiện Dịch, nhận sứ vụ lệnh về tŕnh diện TYV Duy Tân vào ngày 20 tháng 2, 1975. Đầu tháng 3, 1975, anh đến Đà Nẵng, là nơi anh từng theo học trung học tại trường Phan Chu Trinh. Và kể từ ngày đến lại Đà Nẵng, anh đă gắn bó với khu ngoại thương, liên tục thay phiên cùng với các quân y sĩ khác tận lực làm việc trong pḥng mổ, chữa trị vô số thương binh.
Mời quư Anh Chị Em đón đọc "Những Ngày Cuối Cùng Ở Tổng Y Viện Đà Nẵng, 03/1975", để cảm nhận và chia sẻ những trách nhiệm và những bồi hồi lo lắng của một quân y sĩ trong những ngày cuối, trước khi Đà Nẵng mất vào tay CS vào ngày 29, tháng 3, 1975.
Bs. Bạch Thế Thức hành nghề Giải Phẫu Tổng Quát từ năm 1981, tại Pasadena, hiện tại chỉ làm việc bán thời gian sau khi về hưu được 2 năm qua. Được biết Bs. Thức là người bác sĩ chữa trị cho Đại Tướng Dương Văn Minh khi ông ta du lịch tại Mỹ, lâm trọng bệnh và mất sau đó vào tháng 8, 2001.
BBT YKH Hải Ngoại cám ơn Bs. Bạch Thế Thức đồng ư cho chúng tôi đăng bài viết này trong Mục 99 Độ.
Những ngày cuối cùng ở Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, 03/1975
Hiệp định đ́nh
chiến Paris có hiệu lực từ ngày 27 tháng Giêng năm 1973 với
niềm hân hoan và phấn khởi của mọi
người mọi giới nhất là những
người đang mặc quân phục với suy nghĩ
về một cơ hội sớm giă từ vũ khí
để xây dựng lại đất nước sau bao
nhiêu năm tang thương đổ vỡ do chiến
cuộc điêu tàn; nhưng rồi: chỉ là một nỗi
thất vọng ê chề. Vỏn vẹn 2 ngày sau cái
ngày ḥa b́nh ma quái này, Trung Tâm Tiếp Huyết
báo động đang thiếu máu trầm trọng và Y
sĩ Đại tá Chỉ Huy Trưởng Trường
Quân Y kêu gọi Sinh Viên Quân Y hiến máu ngay chính dưới
cột cờ ở Vũ Đ́nh Trường, nơi mà 2
ngày trước đây họ đă làm lễ chào mừng
ngày ḥa b́nh và tưởng niệm các chiến sĩ vị
quốc vong thân thật cảm động.
Ḥa b́nh đâu không thấy, chỉ thấy chiến cuộc
ngày một khốc liệt hơn với sự thất
lợi ở phía Việt nam Cộng Ḥa. Nhu cầu về
nhân lực cho chiến trường và các đơn vị
yểm trở vẫn đ̣i hỏi rất cao. Ngày 20
tháng 2 năm 1975, khoá 21 Quân Y Hiện Dịch chúng tôi
gặp nhau lần cuối để nhận nhiệm
sở; 68 Y sĩ, 8 Dược sĩ và 5 Nha sĩ
được phân phối đi phục vụ trên toàn
quốc trong lúc cuộc chiến đang diễn ra một
cách khốc liệt khắp mọi nơi. Chúng tôi chỉ
c̣n đủ th́ giờ để chụp tấm h́nh
kỷ niệm với Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân
chỉ huy trưởng trường Quân Y trước khi
chia tay ra đơn vị.
Lễ Măn Khóa 21 Quân Y Hiện Dịch 12/1974. Từ trái sang: Nguyễn Đ́nh Ngọc, Bạch Thế Thức, Y Sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, BS Thúy San (phu nhân BS Thức) cùng thân mẫu và nhạc mẫu
Chiến
trường đang sôi động, hầu hết các Quân Y
sĩ đều ra phục vụ ở các binh đoàn,
Thủ khoa Nguyễn Phan Khuê đuợc bổ nhiệm
về QYV Ban Mê thuột. Và v́ nhu cầu trong chiến
tranh, một số các cựu nội trú Ngoại khoa
được bổ nhiệm về các Quân Y viện. Phan
Thanh Hải và tôi về Tổng Y viện Duy Tân, Đà
Nẵng, Nguyễn Dương Mỹ về QYV Nguyễn Tri
Phương, Huế, Nguyễn Chí Vỹ và Trần Ngưu
Tử về QYV Pleiku, Trần Văn Cương về QYV
Ban Mê Thuột.
Và Mọi người rồi sẽ vất vả.
Bồi hồi khi trở lại Đà nẵng, nơi tôi
đă lớn khôn dưới mái trường Trung Học
Phan Chu Trinh; phấn khởi khi t́m lại những kỷ
niệm ở chốn cũ trường xưa.
Đầu tháng 3/1975, chúng tôi đă t́m phương tiện
ra đà nẵng đến tŕnh diện Y sĩ Trung Tá Lê
Xuân Thảo (chỉ Huy Trưởng) và Y sĩ Trung Tá
Tạ Thúc Phú, chỉ Huy Phó. Đứng nghiêm, chào tay và
xưng danh: “tôi Y sĩ Trung Uư BT Thức tŕnh diện Trung tá
Chỉ Huy Trưởng...” Hai vị đàn anh thấy
thế khoát tay và nói ngay: “anh khỏi phải xưng danh
tŕnh diện nữa, tôi biết anh là ai rồi, anh có
thể ngồi xuống đây nói chuyện....”
BS Phạm Văn Lương khi c̣n mang cấp bậc Đại úy
Bác
sĩ Thảo và BS Phú lật quyển kỷ yếu của
khoá 21 Hiện dịch của chúng tôi và cho biết các anh
đă đọc qua và thông hiểu mọi thứ. Hai anh
niềm nở chào đón chúng tôi và cho người
đưa chúng tôi về thẳng khối Ngoại Khoa.
Trưởng khối Ngoại Khoa là Y sĩ Thiếu tá
Phạm Văn Lương và phụ tá là Y sĩ Đại
Uư Phạm Bá Khá. Tôi đă nghe danh Thiếu tá Lương
từ nhiều năm trước, khi ông mang lựu
đạn ngồi trước thềm Hạ Nghị
Viện để phản đối chính phủ và đ̣i
điều tra về cái chết của bạn anh: BS Hà Thúc
Nhơn. Giờ được diện kiến anh,
người nhỏ nhắn rắn chắc, quyết
đoán, nói giọng Miền Trung, nhỏ nhẹ, lưu
loát. Anh chào đón chúng tôi chờ sự hợp tác
nhiệt t́nh và hứa giúp đỡ những ǵ chúng tôi
cần thiết trong phạm vi quyền hạn.
Trại Ngoại Khoa có khoảng 10 bác sĩ giải
phẫu: ngoài anh Lương và anh Phạm Bá Khá có anh Vũ
Quốc Cương, Trưởng khoa gây mê, các anh Nguyễn
Ngọc Khôi, Trương Ngọc Thạch, Khưu Ngọc
Tiên, anh Tuấn (không nhớ họ) trên tôi vài lớp,
xuất thân từ khu tai mũi họng (ORL) của Bệnh
viện Nguyễn Văn Học... Tôi và Phan Thanh Hải là
hai tân binh.
Một ngày sau khi chúng tôi tŕnh diện th́ anh Nguyễn Văn
Hiếu cũng đến tŕnh diện. Anh Hiếu trên chúng
tôi mấy lớp v́ trục trặc về t́nh trạng Quân
dịch nên tŕnh diện trễ vào khoá Trưng tập 16,
học chung hành Chánh Quân Y với chúng tôi. Anh Hiếu rất
nhiều năm làm Nội trú ở Khu Thần Kinh Giải
phẫu, là đệ tử của thầy Đặng
Văn Chiếu.
Ba người “chân ướt” chúng tôi được
giao nhiệm vụ ngay. Anh Hiếu coi khu Thần Kinh
Giải Phẫu thay Y sĩ Đại Uư Nguyễn
Đăng Tri thuyên chuyển đi nơi khác, Phan Thanh
Hải về khu chỉnh trực (Orthopédie) c̣n tôi th́ về
khu Tê Liệt thay thế Y sĩ Trung Uư Đặng Văn
Chất được thuyên chuyển về Sài g̣n. Tôi
thất vọng khi về khu Tê Liệt v́ đây không
phải là chuyên môn của tôi, nhưng là lính mới ṭ te, tôi
chấp nhận nhiệm sở, cố gắng hoàn thành
nhiệm vụ và hy vọng ngày mai trời lại sáng.
Khi xuống trại Tê Liệt, ông Y tá trưởng,
Thượng sĩ Thọ đă cho nhân viên "dàn chào"
tiếp đón tôi. Tất cả 15 Y tá và nhân viên xếp 2
hàng, nghiêm chỉnh chào tay khi tôi bước về bàn
giấy. Một chút ngỡ ngàng và hănh diện v́ là lần
đầu tiên trong đời tôi được chào đón
theo nghi lễ với chút địa vị và trách nhiệm
đi kèm.
Bàn giấy c̣n tên của BS tiền nhiệm: Y Sĩ Trung Uư
Đặng Văn Chất, Trưởng Khu Tê Liệt; bên
cạnh là điện thoại và tủ sắt đựng
dụng cụ Y khoa, một ít thuốc men và vật
dụng cá nhân; tôi được trao ch́a khóa để
sử dụng. Sau vài câu chào đón và đáp lễ,
Thượng sĩ Thọ lấy ḷng tôi: “mong rằng
chúng em được học hỏi thêm nhiều kiến
thức Y khoa từ Bác sĩ.” Tôi cũng nói vài câu
đưa đẩy nhưng không khách sáo.
Vạn sự khởi đầu nan, một việc khó
xử đối với tôi chỉ vài phút sau đó.
Thượng sĩ Thọ đưa ra một xấp
giấy khá dày và xin tôi kư tên, ông nói đó là danh sách thuốc
của bệnh nhân ngày hôm nay; nếu không có chữ kư
của tôi, tất cả bệnh nhân trong trại khoảng
60 người sẽ không có thuốc dùng. Tôi ú ớ, không
biết mô tê ǵ cả.
Thuốc cho bệnh nhân nhưng bệnh nhân là những ai?
Họ bị bệnh ra sao, đă dùng thuốc bao lâu
rồi, tất cả tôi đều không biết ǵ hết.
Tôi dùng dằng chưa muốn kư, định đi hỏi
anh Lương và anh Khá nhưng th́ giờ không cho phép. Tôi
phải cắn răng mà kư tên và định sẽ đem
vấn đề này tŕnh với anh Lương.
Y sĩ Trung úy Nguyễn Đăng Tri người tạm
thay anh Chất kiêm nhiệm Trại Tê liệt hướng
dẫn tôi đi coi bệnh trong trại để bàn giao.
Phải mất 3 giờ, đi suốt trại, xem lại
từng người bệnh. Anh Tri đă giúp tôi có một ư
niệm về cách sinh hoạt tại trại này. Tôi có
cảm tưởng trại này sinh hoạt như một
viện điều dưỡng (Nursing home).
SVQY Bạch Thế Thức / TQY 1969
Tất cả bệnh nhân trong trại đều đă
bị thương tích phải tê liệt vĩnh viễn v́
chiến thương, bệnh tật hoặc những
di chứng của các bệnh khác; họ đă ở đây
nhiều năm tháng v́ những bệnh lư kinh niên; vấn
đề điều trị cấp tính gần như không
c̣n cần thiết nữa. Bệnh nhân cần Vật lư
trị liệu và trợ cấp xă hội để làm
lại cuộc đời mới, nhưng v́ phương
tiện của Quân đội không có đủ nên họ
không c̣n chỗ nào khác để sinh sống, họ tiếp
tục ở lại trại tê liệt nhiều năm tháng
và gia đ́nh, vợ con cũng đến giăng mùng, kê
giường tá túc với họ, trông thật tội
nghiệp. Mỗi buổi sáng tôi phải kư giấy
để họ lănh thuốc và đồ ăn sống qua
ngày.
Công việc hằng ngày của chúng tôi ngoài việc thăm
khám bệnh nhân ở trại, c̣n khám bệnh ngoại
chẩn, khám bệnh nhân ra Hội Đồng Miễn
Dịch và coi và điều trị bệnh nhân ở pḥng
Cấp cứu trong ngày trực. Việc khám và phân loại
bệnh nhân ở Hội Đồng Miễn dịch
đối với tôi là một việc mới mẻ
mặc dù từ trước chúng tôi đă qua các khoá Hành
Chánh Quân Y và Hồi sinh cấp cứu trước khi
nhận nhiệm sở. Chúng tôi chưa nắm vững
những tiêu chuẩn để phân loại tàn phế
của thương binh để có những quyết
định đúng đắn cho thương binh đúng theo
điều kiện và quyền lợi của họ.
Việc này khá rắc rối và tế nhị v́ tôi vẫn
biết “bút sa gà chết” nên tôi rất nhiều
lần phải chạy tới chạy lui để
hoỉ ư kiến của các vị đàn anh.
Khó khăn nhất là trong những phiên trực của tôi
thỉnh thoảng có vài anh y tá mang đến cho tôi
một số chứng từ nhờ tôi kư cho những
bệnh nhân mà tôi không hề biết, với lư do là các vi bác
sĩ điều trị, những đàn anh của tôi quên
kư mà giấy tờ th́ phải cần kư cho kịp ngày
giờ... Đó là điều làm tôi lo ngại nhất v́
không biết phải làm sao.
Về vấn đề chuyên môn tôi thấy thoải mái và
tự tin hơn, tôi không cảm thấy rụt rè hay lo
ngại; những điều học hỏi từ trong
trường và những kinh nghiệm khi làm nội trú
được đưa ra áp dụng cho bệnh nhân và
đă được nhiều thành quả tốt
đẹp. Anh Phạm văn Lương nhiều lần
đến trại xem tôi làm việc và bàn luận về
những trường hợp bệnh lư phức tạp,
hẳn anh nghĩ rằng tồi vừa mới rời
trường Y khoa, c̣n nhớ nhiều bài vở. Tôi đă
đối đáp theo những điều hiểu biết
với kiến thức của ḿnh. Có lẽ anh Lương
đă tin tưởng ở tôi nhiều hơn, điều
này làm tôi tự tin hơn.
Phiên trực được phân chia mỗi 4 ngày trực
một ngày. Trong ngày trực 2 Bác sĩ làm việc trong
Bệnh viện, hai bác sĩ ứng trực tại nhà,
chờ tăng cường nếu t́nh h́nh đ̣i hỏi.
Trong phiên trực, chúng tôi phải lo giải quyết
tất cả mọi trường hợp cần phải
giải quyết gấp. Tôi lo ngại nhất là khi
phải đối phó với những trường hợp
không thuộc về chuyên môn của ḿnh ví dụ như các
trường hợp về thần kinh giải phẫu; c̣n
anh Hiếu th́ rất ngại ngùng khi phải đốí phó
với những thương tích ở bụng ngực,
ruột gan. Chúng tôi có chung niềm lo lắng với
những trường hợp không thuộc chuyên môn của
ḿnh. Chúng tôi thoả thuận với nhau: Anh Hiếu chuyên
về Thần Kinh Giải Phẩu sẽ giúp tôi khi tôi
gặp trường hợp Thần Kinh Giải Phẫu, và
tôi sẽ giúp anh nếu anh gặp những trường
hợp khẩn cấp về bụng ngực hay các
thuơng tổn phần mềm, mạch máu... Tôi chưa có
một chút kinh nghiệm nào về Thân Kinh Giải Phẫu,
chưa bao giờ khoan sọ; giờ đây nhờ lời
hứa của anh Hiếu tôi cảm thấy an tâm. Và như
thế tôi và anh Hiếu an tâm làm việc cho đến ngày
cuối cùng phải từ giă Tổng Y viện Duy Tân.
Nhưng mọi việc nhiều lúc không theo sự tính toán
và xếp đặt của ḿnh, chỉ một tuần
lễ sau khi chúng tôi nhận nhiệm sở, trận
chiến trở nên khốc liệt. Ban Mê Thuột nguy
kịch và thất thủ sau mấy ngày kịch chiến,
Quân đoàn II triệt thoái từ Pleiku qua ngả Phú Bổn
như một cuộc hành quân không được
định liệu kỹ lưỡng đưa
đến những suy sụp khó cứu chữa làm mọi
người hoang mang. Chúng tôi lo lắng cho số phận
những người bạn đồng khóa
được bổ nhiệm về Quân khu II: Nguyễn
Chí Vỹ, Trần Ngưu Tử, Thái Văn Châu, Phan
Ngọc Hà, Thịnh "điếc", Tân, Nghĩa, Khuê,
Cương, ..., Nhất là Khuê, Nguyễn Phan Khuê, chàng
Thủ Khoa chân chỉ hạt bột, chỉ biết có sách
vở không biết có đủ khéo léo và can đảm trong
cuộc đào thoát này?
Chúng tôi đă mất liên lạc với nhau từ ngày
rời Trường Quân Y, cuối tháng 2 năm 75, và
Nguyễn Đ́nh Ngọc, người bạn thân
đồng khóa về Sư đoàn I cùng với Chu Kỳ
Đức, Nguyễn Đỗ Quan cũng đă mất
liên lạc từ dạo đó.
Một tuần sau khi đáo nhậm nhiệm sở, Phan
Thanh Hải được phép 7 ngày về Trường Y
khoa tŕnh luận án tốt nghiệp nên thoát được
"cơn hồng thủy" ở Đà nẵng.
Thấy t́nh h́nh ở Đà nẵng đă có những
bất ổn và suy sụp nhanh chóng, nhân dịp Hải
về lại Sài G̣n tôi gửi về Gia đ́nh vài vật
tuỳ thân trong ấy nhớ có quyển Principle of Surgery
của Sabiston và chiếc béret màu tím than mà tôi đă dùng
từ năm đầu tiên vào Trường Quân Y.
T́nh h́nh chiến sự từng ngày càng bi quan: Quy nhơn,
Quảng Ngăi , Quảng Tín mất liên lạc vô tuyến,
chúng tôi ở Đà nẵng bị cô lập như một
ḥn đảo giữa đại dương cách ĺa Quê
hương, đất nước và gia đ́nh, tuy vậy
chúng tôi vẫn phải làm việc để chu toàn trách
nhiệm của một y sĩ; hằng đêm lúc ngồi
nghỉ mệt giữa các ca mổ chúng tôi chỉ biết
nghe đài BBC và VOA để theo dơi t́nh h́nh nhưng chỉ
nghe được toàn những tin tức bi quan làm cho chúng
tôi chỉ biết tuyệt vọng.
Giữa tháng 3 năm 1975, anh Truong Ngọc Thạch đi
phép, tôi được kiêm nhiệm thêm phần điều
trị cho các bệnh nhân của anh Thạch, trại
Giải Phẫu lồng ngực, tôi thầm mơ
ước một ngày đẹp trời nào sẽ chính
thức về làm việc tại đây theo đúng chuyên môn
và sở thích của tôi, nhưng điều mơ
ước này đă không bao giờ thành hiện thực
v́...
Ngày 25 tháng 3 là ngày sinh nhật của tôi. Dù không
phải là ngày trực, v́ công việc rất bận rôn,
bệnh nhân tràn ngập, tôi phải cố gắng giải
quyết công việc măi đến 10 giờ đêm mới
có thể ra về, quá mệt mỏi nằm lăn ra
ngủ. Ngày hôm đó, là ngày Huư nhật của cụ Phan
Châu Trinh, năm nào Trường Phan Châu Trinh cũng tổ
chức buổi lễ rất trang nghiêm để nhớ
ơn cụ, tôi đă chờ đợi và mong mỏi
được trở lại mái trường xưa trong
ngày lễ này để ôn lại những kỷ niệm
thời thơ ấu, nhưng v́ quá bận rộn không
về sớm được mà t́nh h́nh chiến sự th́
ngày một cam go, Quảng trị, Huế đă bị
bỏ rơi, hàng trăm ngàn người dân tị nạn
ào ào chạy về đà nẵng. Đường phố
đông nghẹt người và xe cộ. Dân tị nạn
đổ dồn về bất cứ nơi nào họ có
thể tạm tá túc: nhà thờ, chùa chiền, trường
học nên buổi lễ Húy nhật cụ Phan không thể
thực hiện được.
Ngày 27 tháng 3 nhằm phiên trực của tôi và anh Tuấn,
thương bệnh binh rất đông, anh Phạm Bá Khá vào
tăng cường. Lúc 8 giờ sáng vào pḥng cấp cứu
tôi phải đối phó với trường hợp
một em bé trạc 3-4 tuổi bị thương nặng
v́ trúng đạn pháo kích rơi vào nhà cướp ngay sinh
mạng của 5 người trong nhà, chỉ c̣n em bé c̣n thoi
thóp với vết thương sọ năo. Tôi đến
nơi em vừa ngưng thở. Cấp cứu tim phổi
bằng cách xoa bóp lồng ngực (CPR) mong cố hồi
sinh cho em nhưng với phương tiện thiếu
thốn, không c̣n ống thông khí quản để giúp
thở, nước biển c̣n rất ít, thuốc men
gần cạn sạch, tôi chích 1 ống epinephrine, tiếp
tục xoa bóp tim phổi nhưng vô hiệu; nửa giờ
sau phải khai tử cho em. Người cha khóc lóc kêu gào bên
xác con làm tôi ứa lệ. Lời khóc than rưng rức:
“tại sao ông trời lại để một ḿnh ông
sống sót khi quả đạn nổ trong nhà lúc nửa
đêm?”.
Chiến tranh thật là tàn nhẫn khiến dân lành chịu
nhiều mất mát thiệt tḥi. Suốt ngày hôm ấy,
bệnh nhân tràn ngập pḥng cấp cứu, mỗi
đợt xe cứu thương mang về hàng chục
nếu không muốn nói hàng trăm thương binh. Bệnh
binh th́ nhiều mà nhân lực, phương tiện tiếp
liệu và th́ giờ th́ quá eo hẹp, dù chúng tôi tả xung
hữu đột cũng không cách nào chữa trị cho
tất cả mọi người. Những người
ngắc ngoải sắp chết chúng tôi chỉ biết
để cho họ ra đi êm thắm, chúng tôi phải dành
th́ giờ, nhân lực và thuốc men cho những
người có cơ may sống c̣n. Thuốc men, y cụ,
nước biển c̣n rất ít, không c̣n dồi dào như
thuở Thanh B́nh trước đây. Giống như anh
bạn tôi y sĩ Trung úy Phạm Anh Dũng ở SĐ3
tả lại: Binh sĩ tại đơn vị anh v́
thiếu đạn dược đă có người
phải bỏ tiền túi ra để mua đạn.
V́ số thương binh tràn ngập , suốt ngày hôm đó
có 3 bác sĩ giải phẫu ứng trực làm việc
suốt ngày cùng với 2 pḥng mổ và nhân viên làm việc
liên tục từ sáng sớm.
Chúng tôi mổ xẻ, rửa ráy vết thương, bó
bột và băng bó vết thương rồi chuyển
bệnh nhân về trại. Một bệnh nhân bị
thương ở đầu gối, động mạch
bắp chân (popliteal artery) bị tổn thương,
tuần hoàn tắc nghẽn và chân tím, lạnh ngắt. Tôi
mổ xẻ và mất gần 3 giờ đồng hồ
để khâu vá lại động mạch, tái lập
tuần hoàn cho hạ chi từ dưới đầu
gối và may mắn cứu được cái chân bị
thương của người bệnh đó.
Đang tối tăm mày mặt, ngẩng mặt lên
thấy Nguyễn Đ́nh Ngọc, người bạn thân
di tản từ Sư đoàn 1. Không cần hỏi tôi
đă biết Sư đoàn 1 đă tan ră và Ngọc là
một trong số rất ít người may mắn thoát
hiểm sau thảm họa ở Huế và Thuận an,
về Đà nẵng t́m tôi. Ngọc hôm nay đen kịt,
quần áo lấm lem rách rưới với những thay
đổi trong bộ quân phục: hai bông mai màu đen,
bảng tên màu màu đen trên nền xanh olive cùng với huy
hiệu Sư đoàn 1 cũng màu xanh-đen. Tôi mừng
rỡ ôm chầm lấy Ngọc. Nh́n Ngọc tôi
sực nhớ cho đến giờ, gần một tháng
phục vụ tại Duy Tân, tôi vẫn c̣n mặc quân
phục của Trường Quân y với 2 bông mai vàng trên
cổ áo, bảng tên màu đen trên nền trắng và
nhất là huy hiệu màu đỏ của Trường Quân
Y vẫn c̣n trên bờ vai trái. Biến chuyển chung quanh quá
dồn dập khiến tôi không có th́ giờ để nh́n
lại ḿnh đang mặc một bộ quân phục không
hợp thời.
Nh́n Ngọc đang ră rời, xác xơ tơi tả tôi
biết Ngọc đă trải qua một cuộc đào
thoát hiểm nguy và gian khổ, tôi t́m một ít đồ
ăn và đưa Ngọc về pḥng trực của tôi
nghỉ ngơi cho lại sức. Sau đó tôi lại
ra tay quần thảo với hàng chục bệnh nhân
đủ mọi loại vết thương cần
băng bó, rửa ráy mổ xẻ và thuốc men. Tôi mổ
3 ca lớn từ sáng cho đến khoảng 6 giờ
chiều. Lúc này bệnh nhân đă ổn định, tôi
đi t́m Ngọc rủ đi ăn tối, nhờ anh
Hiếu thay tôi khi tôi vắng mặt. Gặp anh Lương
đi vào kiểm tra và thăm ḍ công việc, và hỏi tôi có
cần giúp ǵ không. Tôi báo cáo mọi việc xảy ra từ
sáng , anh có vẻ hài ḷng v́ hầu hết bệnh nhân mới
về đă được chăm sóc và chữa trị chu
đáo, và anh đồng ư cho phép tôi ra ngoài ăn tối
với Ngọc.
Trời đă nhá nhem tối, đèn đường đă
lên, chúng tôi ngồi trên vỉa hè một quán ăn và gọi
đồ dùng bữa tối. Sau vài lời thăm hỏi,
Ngọc khuyên tôi phải t́m cách đào thoát càng sớm càng
tột, ráng tránh cái thảm hoạ mà Ngọc biết
sẽ xảy đến với chúng tôi bất cứ lúc nào,
cái thảm hoạ mà Ngọc vừa mới trải qua ngày
hôm trước và v́ đó những người bạn
đồng khóa của chúng tôi ở mặt trận
Huế, Quảng trị đều ḥan toàn biệt tăm.
Tôi nghĩ đến Vũ Đức Giang và Nguyễn
Tiến Dũng, hai người bạn đă t́nh nguyện
về Thuỷ Quân Lục Chiến khi chọn nhiệm
sở. Họ t́nh nguyện về đơn vị thật
sự "đánh đấm", giờ này hai
người bạn nghệ sĩ ấy, một tay chơi
trống và một tay chơi Tây ban cầm, nhạc cổ
điển giờ xoay xở ra sao? Và c̣n Bá Linh, Châu, Sĩ,
Hiền, H Đ Đại, Bùi Ngọc Sĩ...các bạn ra
sao?
Tôi tự hỏi có thể làm được ǵ trong đêm
tối này và nhất là tôi c̣n phải làm nhiệm vụ
trực bệnh viện đêm nay và c̣n biết bao nhiêu
thương binh đang cần sự giúp đỡ
chữa trị.
Tôi t́m cách trấn an Ngọc và khuyên Ngọc sáng hôm sau t́m
mọi cách thoát hiểm về miền Nam, c̣n tôi, tôi c̣n
nhiệm sở, tôi cũng sẽ t́m cách xoay xở tùy theo
t́nh thế biến chuyển thế nào. Tôi không thể
bỏ đơn vị vào lúc này. Sau nhiều lần
thuyết phục mà không lung lạc được tôi,
Ngọc bật khóc: “nếu tôi thoát hiểm và về
được Sài g̣n một ḿnh tôi sẽ nói sao với bà
xă Thuư San của Thức và Gia đ́nh Thức “.
Tôi thuyết phục Ngọc rằng tôi tôi chỉ có
một ḿnh cũng dễ xoay trở và khi t́nh h́nh cho phép
sẽ có quyết định đúng. Hẹn gặp
lại Ngọc một ngày gần đây.
Bữa ăn chấm dứt, tôi không nhớ tối hôm
đó chúng tôi ăn những ǵ, đưa Ngọc về
pḥng trọ của tôi trong thành phố để tránh pháo
kích, c̣n tôi trở lại bệnh viện tiếp tục
quần thảo với thương binh.
Tôi làm việc thâu đêm. Vừa xong một ca mổ
trở xuống pḥng cấp cứu đă 3 giờ sáng,
gặp một bệnh nhân bị thương ở ổ
bụng đă 2 ngày và rơ ràng đă bị viêm phúc mạc
(péritonite), tôi đưa bệnh nhân lên pḥng mổ và
quyết định mổ ngay. Nhóm Y tá làm việc
với tôi đêm đó than phiền: “Bác sĩ bắt chúng
em làm việc nhiều quá ai cũng mỏi mệt kiệt
lực hết, ngày trước các Bác sĩ Phạm Hà Thanh,
Nguyễn Quang Huấn, ... họ có phải làm việc
nhiều như thế này đâu?". Tôi cảm thấy
bị xúc phạm khi họ đem tên tuổi của các
đại huynh trưởng ra hù dọa tôi, nhất là
thời các vị đó làm việc ở đây, chiến
tranh đâu đă khốc liệt như bây giờ. Tôi
trả lời với họ rằng chính tôi, tôi cũng
đă mệt mỏi v́ tôi đă làm việc không nghỉ
từ sáng hôm qua. Nhưng đây là việc cần phải
làm chúng tôi phải làm ngay và tôi hỏi lại họ nếu
đây là thân nhân của họ, họ có muốn đi
ngủ, bỏ bệnh nhân lại cho phiên trực ngày mai
không? Và chúng tôi đă mổ bệnh nhân đó với
vết thương bụng thủng ruột làm viêm
phúc mạc. Ca mổ chấm dứt lúc 6 giờ sáng, tôi có
một giờ để chợp mắt trong pḥng trực.
Bảy giờ rưỡi sáng, một đợt
thương binh 5-7 người được đưa
đến pḥng cấp cứu. Nhóm bệnh nhân này không có ǵ
trầm trọng, chỉ những vết thương
ở phần mềm tứ chi, chúng tôi rửa ráy thay
băng và cho thuốc ổn định th́ nhóm bác
sĩ trực ngày hôm sau, (ngày 28 tháng 3) vừa đến.
Gặp Y sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Khôi, tôi bàn
giao phiên trực, anh Khôi nói: “toa khỏi bàn giao bệnh
nhân cho moa, ra mà bàn giao với VC ngoài hàng rào kia ḱa".
Tôi giật ḿnh bừng tỉnh và ư thức
được rằng t́nh h́nh tuyệt vọng đang
xảy ra trong thành phố.
Ngay sau đó chúng tôi được lệnh tập họp
ở văn pḥng trưởng khu Ngoại khoa để
gặp anh Lương. Giờ phút này tôi tin rằng
những điều Ngọc nói đêm qua là đúng. T́nh h́nh
đă tuyệt vọng, đă đến lúc phải thoát
hiểm.
Buổi họp hôm đó có hầu hết mọi
người trong khu Ngoại khoa: anh Lương, anh Khôi, anh
Vũ Quốc Cương, anh Tuấn anh Khá (phó
trưởng khối ngoại khoa), anh Hiếu, anh Khưu
Ngọc Tiên và cả Nguyễn Đ́nh Ngọc (thuộc
Tiểu đoàn 1 QY), cả anh Trương Ngọc
Thạch vừa đi phép ở Saig̣n mới ra tŕnh diện
sáng nay. Mọi người xúm lại hỏi tại sao anh
Thạch dại vậy. Anh Lương thông báo với chúng
tôi là t́nh h́nh đă ḥan toàn suy sụp, Bộ tư lệnh
Quân đoàn 1 đă di tản, không c̣n ǵ có thể cứu văn
được nữa; anh không thể điều hành và
chịu trách nhiệm về chúng tôi được
nữa. Anh nói đến lúc này các anh nên tự lo
liệu thoát thân. Lệnh tan hàng đă chính thức ban ra,
chúng tôi hết sức lo lắng, cuống quít chẳng
biết làm ǵ.
Anh Khưu Ngọc Tiên than phiền rằng phải
chi lệnh tan hàng ban bố sớm hơn, vào
đêm hôm qua th́ tôi có thể đưa các anh lên tàu
Đồng nai v́ tàu vẫn c̣n đậu ở sông Hàn
tối hôm qua, bây giờ không biết phải làm sao! "Chúng
tôi vội vă bắt tay nhau và rời bệnh viện. Tôi
đến chào từ biệt anh Phạm Văn
Lương. Thiếu tá Lương bắt tay tôi và nói: “rất
tiếc, anh mới ra đơn vị, chúng tôi chưa làm
lễ tiếp đón anh mà bây giờ chúng ta phải chia
tay.” Anh hỏi tôi sẽ làm ǵ, tôi đáp: “em
phải t́m cách xuôi Nam về với gia đ́nh”. Anh chúc tôi
may mắn. Tôi hỏi lại anh sẽ làm ǵ. Anh trả
lời (nguyên văn): "tôi không thể sống
được với chế độ cũ nhưng
cũng sẽ không thể sống được với
chế độ mới". Đó là câu nói cuối
cùng của anh đối với tôi. Lúc bắt tay anh, nh́n
xuống bàn giấy tôi c̣n thấy 2 quả lựu
đạn trong chiếc xắc tay đang để mở
của anh. Chúng tôi rời TYV Duy Tân lúc 10 giờ sáng và
chạy ra bến tàu. Thành phố ngập xe cộ, giao thông
tắc nghẽn, mọi sinh hoạt đều tê liệt,
mọi người đều hốt hoảng t́m cách
chạy lấy thân.
Năm giờ chiều, sau nhiều giờ ngược xuôi
chen lấn trong hàng chục ngàn người chạy
loạn, như một phép lành, tôi và Ngọc lên
được một chiếc tàu đậu ở quân
cảng Đà nẵng. Tàu Trường Sơn là chiếc
tàu dân sự duy nhất c̣n lại. Chúng tôi bỏ lại
hết mọi thứ chỉ lo chạy lấy thân. Chỉ
15-20 phút từ lúc tôi và Ngọc nhảy được lên
tàu, tàu nhổ neo và chỉ chở khoảng 100 người
tị nạn. Tàu đậu lại qua đêm ở
vịnh Đà nẵng và nhổ neo xuôi Nam sáng hôm sau khi thành
phố đă đổi chủ.
Đó là những kinh nghiệm và kỷ niệm của tôi
trong những ngày cuối cùng phục vụ tại TYV Duy
Tân. Những đóng góp của chúng tôi cho quân đội quá
ít ỏi nếu không muốn nói là không đáng kể. Quê
hương và đất nước đă sớm mất
trước khi chúng tôi có dịp đóng góp kiến thức
và khả năng cho xă hội. Các bạn đồng khóa 21
QY Hiện dịch với tôi cũng đă tan tác trong
biến cố di tản từ miền Trung, nhiều
bạn đă hy sinh, nhiều bạn bị bắt cầm
tù và một sộ bạn may mắn thoát được
về Nam, để rồi sau đó một số lớn
phải vào trại tập trung của Cộng sản sau
ngày sụp đổ của nền Cộng Ḥa non trẻ
của quê hương Việt nam.
Ngày 28 tháng 3 năm 1975 là ngày cuối cùng tôi từ giă
Tổng Y viện Duy Tân và các đồng nghiệp đàn
anh với lời chúc may mắn. Anh Phạm Văn
Lương tôi không c̣n dịp nào gặp lại nữa, anh
đă tự vẫn trong trại tù Cộng sản
khoảng năm 1976. Tôi không có tin tức ǵ về anh
Tuấn và anh Phạm Bá Khá. Các anh Nguyễn Ngọc Khôi,
Trương Ngọc Thạch và Vũ Quốc Cương
định cư ở miền Nam California ( anh Cương
vừa tạ thế 2-3 năm trước), anh Khưu
Ngọc Tiên h́nh như đang ở Fresno, miền Trung
California, anh Hiếu đang ở San Jose. Phan Thanh Hải
vẫn ở lại Saigon và ngày nay đă trở thành
một đại gia.
Nguyễn Đ́nh Ngọc và tôi thoát được về
Miền Nam, tôi may mắn thoát khỏi Việt nam vào ngày
cuối cùng của chế độ Cộng ḥa, trôi
dạt sang Mỹ từ năm 1975 và may mắn không "được
đi học tập cải tạo" như những
người bạn khác; nhưng Nguyễn Đ́nh Ngọc
bị kẹt lại ở quê nhà, tinh thần suy sụp
trong cảnh “nước đau dân khổ” và vừa
mất v́ bạo bệnh khoảng 3-4 năm trước.
“Những người muôn năm cũ.”
“Hồn ở đâu bây giờ?”
Hồi tưởng lại những kỷ niệm 40
năm trước, ngày tôi rời Đà nẵng và Tổng
Y Viện Duy Tân, là những ngày cuối cùng tôi phục
vụ đất nước và quân đội. Chúng tôi
đă chu toàn nhiệm vụ của một quân Y sĩ cho
đến phút cuối cùng khi có lệnh đào thoát
trước khi Đà nẵng rơi vào tay Cộng
sản. Chúng tôi không tự rời bỏ nhiệm
sở như những người khác đă nói và đă
làm..
Gần đây, có một bài báo đăng trên tuần báo KBC
viết về Quân Y (tháng 11/2014), tác giả là một Quân Y
sĩ của Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến,
đă tả lại những ngày giờ cuối cùng ở
Đà nẵng (bên cạnh các vị chỉ huy cao cấp
ở vùng 1) với những chi tiết về ngày giờ
khác hẳn những ǵ chúng tôi đă trải qua ở Duy Tân.
Tác giả đă viết rằng: “Tổng Y Viện Duy Tân
đă hoàn toàn bỏ ngỏ v́ tối ngày 25/ 3/75, ông vào
Bệnh viện và thấy Bệnh viện trống
trơn, tối om chỉ có vài y tá c̣n làm việc. Ông t́m
măi mới thấy một bóng người đơn
độc đi trong bóng tối, mang quân phục Nhảy Dù
và đeo lon Thiếu Tá, hỏi ra mới biết đó là Y
sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương". Theo ông
kể: Bác sĩ Lương nói rằng mọi
người đă bỏ đi hết rồi.
Thật sự, trong suốt thời gian làm việc
tại Tổng Y Viện Duy tân, tôi chưa bao giờ
thấy Thiếu tá Lương mặc quân phục Nhảy
Dù và tôi nhớ rất rơ những thời điểm này v́
ngày 25/3 là ngày sinh nhật của tôi, tôi và các bạn
đồng ngũ đă làm việc bất kể giờ
giấc ngày đêm và măi đến sáng ngày 28 tháng 3 chúng tôi
mới đào thoát khi có lệnh tan hàng. Chính anh Trương
Ngọc Thạch (hiện ở Pomona) trở lại tŕnh
diện đơn vị sau những ngày phép ở Sài g̣n
cũng có mặt sáng hôm 28/3 ấy cùng với hầu
hết các Quân Y sĩ cơ hữu của Khối ngoại
thương Tổng Y Viện Duy Tân.
Có lẽ v́ lư do TYV Duy Tân đă bỏ ngỏ từ ngày
25/3/75, mà người đồng nghiệp Thuỷ Quân
Lục Chiến đă đưa Đại tá Nguyễn
Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ
đoàn 147 TQLC với vết thương với mảnh
đạn c̣n nằm ở đầu gối về
Bệnh Xá Cam ranh để tự mổ, thay v́ đưa
vào Duy Tân để chữa trị.
Xong rồi một cuộc can qua dai dẳng, nhưng dâu
bể khó quên. Tổng Y viện Duy Tân ngày nào sinh hoạt
nhộn nhịp, chẳng biết bây giờ ra sao. Có
chăng là:
Dấu binh lửa nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
(Đoàn Thị Điểm: Chinh Phụ Ngâm)
Bạch Thế Thức
Pasadena, Tháng 3/2015