Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của Giáo sư Nguyễn Văn Trường.  Đây là một trong những vị giáo sư khả kính đă góp phần thành lập Viện Đại Học Huế từ buổi ban đầu.  Sau khi du học tại Pháp, Ông trở về Huế năm 1957 cùng Cha Cao Văn Luận phát triển một nền giáo dục đặc thù cho miền Trung, và nền văn học ấy ngày càng vững mạnh qua bao thăng trầm lịch sử.  Hiện ông đang hưu trí tại Houston, Texas.

 

Xin thành thật cám ơn Giáo sư Nguyễn Văn Trường.

 

BBT

 

 

TÂM VÔ TRỤ

CHÂN VÀ VỌNG

 

GS. Nguyễn Văn Trường 2014

 

Chân Truyện

 

Truyện rằng:

‘Tanzan và Ekido trong lúc di hành, gặp một cô gái đẹp, đang lúng túng v́ không thể qua ngă tư đoạn đường lầy lội. Lập tức Tanzan bảo “Đi này cô bé.” Rồi Tanzan bế cô gái lên và đưa qua quăng đường lầy. Ekido từ đó không buồn nói một tiếng nào cho đến khi cả hai dừng lại trong một ngôi đền. Rồi như không c̣n chịu được nữa, Ekido lên tiếng nói với Tanzan “Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, làm như thế là phạm giới và bị người đời dị nghị.’ Tanzan mỉm cười đáp “Tôi đă bỏ nàng ở chỗ đó rồi, anh c̣n mang nàng theo đây sao?”’[1]

Đó là một câu chuyện thiền, cổ điển, để minh họa ‘tâm vô trụ’. Tanzan không trụ ở giới luật, không ngại dư luận người đời, không sợ sự quyến rũ duyên dáng của người đẹp, và sau khi giúp người đẹp qua con đường lầy lội, không c̣n giữ một h́nh ảnh nào của nàng trong tâm, cũng không nghĩ tốt nghĩ xấu về việc giúp đỡ người mà đang gặp khó khăn. Trái lại Ekido th́ dính mắc ở giới luật, e ngại sự dị nghị của người đời, và những ư nghĩ nầy đă ở trong Ekido suốt cuộc hành tŕnh sau khi người đẹp đă qua đoạn đường lầy lội.

Tâm của Tanzan là tâm vô trụ. Tâm của Ekido c̣n trụ ở giới luật, c̣n e ngại dị nghị của người đời.

Danh xưng và con đường tu học

Trụ là một từ Hán-Việt.
Trong ‘Thành, Trụ, Hoại, Không’ của nhà Phật, th́ ‘Thành’ là thời kỳ từ sanh đến trưởng thành, con người hay sự việc luôn biến đổi, h́nh thành, lớn mạnh trong mọi mặt. ‘Trụ’ là thời kỳ đă trưởng thành, sung măn cực đa, nên có một bên ngoài không biến đổi. ‘Hoại’ là thời kỳ hoại diệt, biến đổi tiêu cực, từ có đến không. Sau đó là Không. Cái may, cái rủi của người đời, hay bất cứ cái chi đều phải qua các giai đoạn ‘thành, trụ, hoại, không’.

Đó cũng là nghĩa, hiểu một cách đơn sơ, trong các cụm từ: ‘trụ tŕ Phật Bảo’[2], ‘trụ tŕ Pháp bảo’[3].  Chữ ‘Trụ’ nầy, từ Hán Việt, gồm bộ nhơn—đứng bên trái—và chữ ‘chủ’, bên mặt. ‘Chủ’[4]—Hán Việt— có nghĩa trong các danh từ đôi: chủ-nghĩa, chủ-thuyết, chủ-ḥa, chủ-ư, chủ-nô, chủ -điền, chủ hộ, chủ-lực, chủ-tịch, chủ-tướng, v.v.… ‘Chủ’ như nhấn mạnh trên cái nghĩa là chủ yếu:
Trong cái may sung măn tận cùng của thời-kỳ-thành-trụ, con người có thể cảm nhận như đă thành đạt, rồi buông trôi trong thích thú, bằng ḷng và hưởng thụ. Người th́ ‘chồng quan sang, vợ hầu đẹp, thần tiên chi nhất thế’; người th́ ‘công thành danh toại, phỉ chí nam nhi, bia truyền tạc để’,.. Thậm chí có người trở thành ngông, hô hào ‘nghiên đồng đổ nước, thay trời làm mưa’[5]
Trong cái rủi kéo dài cùng tột, th́ có người ôm măi hận đời, ‘trụ’ ở đó, ‘nuôi hận thù thành sức mạnh’, để, khi quyền lực đến tay, kêu gọi: “Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ, Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho Đảng bền lâu, Cùng rập bước chung ḷng, Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!”[6]

Cả hai thái độ hay chủ trương nầy đều không tốt.

Đó cũng c̣n là nghĩa trong câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm— 應無所住而生其心-- cần phải không có chỗ trụ, th́ cái tâm ấy mới xuất hiện”[7]. Cụm từ ‘sở trụ’ có thể làm cho ta nghĩ:   một nơi chốn, một cơ sở, một cây gậy, một vật ǵ đó, một thang giá trị, để nương tựa, trú ẩn. Cũng có người nghĩ rằng, ‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ có nghĩa là ‘nên vô sở trụ để cái tâm kỳ diệu phát sinh’[8].


Vô trụ là không trụ, không dừng lại ở sự thành đạt nhất thời, cũng không ôm măi hận ngàn thu.  Dừng lại là chấp nhận không tiến triển. Cái ǵ không c̣n phát triển là đi vào thời-kỳ-hoại, nói rộng ra là ‘chết trước khi chết’. Ôm hận th́ nặng ḷng, làm tâm thức tối tăm, có mắt nhưng như mù, cho nên mới thốt lên những câu thơ tanh mùi máu nh
ư trên đây

Nói chung, tâm vô trụ là tâm không ‘trụ’, không dính mắc ở thành bại, ở thói quen, tập tục, giới luật, định  kiến, ở những giá trị, cũng không dính mắc ở một tâm thức—vui, buồn, hờn ghen, sân hận—nhất thời. Tâm mà không dính mắc ở bất cứ cái ǵ là ‘tâm vô trụ’. Tuy nhiên, tâm vô trụ không là tâm trơ, không xúc cảm, không t́nh, không ư, không biết phải trái, không biết chánh tà. Hành tâm vô trụ không là nhằm để ‘trở thành như gỗ đá, vô cảm, vô t́nh’. Hành giả--người thực hành tâm vô trụ--cảm nhận cả thất t́nh (hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục) và cũng b́nh thường như mọi người trong nhăn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư. Nhưng không trụ, không giữ lại, không dính mắc, không cột ḿnh vào những cảm xúc, ư t́nh hay giá trị hay bất cứ cái chi xảy ra trong tâm thức. Tâm vô trụ càng không là: nhân danh vô trụ mà buông thả trong dục vọng, ‘nếm mùi đời cho đủ thứ mà chơi’.

Vô trụ cũng là vô sở trụ: không có một nơi chốn, một lư tưởng, một thang giá trị, một con đường tu học cứng ngắt phải theo hay một cái chi ghi khắc trong tâm—không có chỗ trong tâm, để ‘trụ’, ỷ lại, hay nương tựa vào đó mà phê phán hay hành xử.  


Minh họa ‘tâm vô trụ’, thật khó t́m được h́nh ảnh nào rơ hơn bốn câu thơ của Tô Đông Pha:

‘Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh,
Nhạn quá hàn đàm, nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.

Thị cố quân tử sự lai nhi tâm thỉ hiện

Sự khứ nhi tâm tùy không’
‘Gió qua lay trúc, gió đi rồi trúc không giữ âm thanh
Nhạn lướt mặt hồ, nhạn đi rồi hồ không lưu h́nh ảnh

Người quân tử cũng vậy, việc xảy ra tâm mới tiếp xử 
Việc qua rồi, tâm lại thảnh thơi’[9]

Như gió đưa khóm trúc, như chim nhạn bay qua mặt hồ trong-lặng, ‘người quân-tử, tức là hành giả, khi sự việc tới th́ tâm đón nhận, không chờ đợi, không mong muốn trước; sự việc đi th́ tâm lại rảnh rang, trống không. ‘Sự lai nhi tâm thỉ hiện’, tức là chỉ khi sự việc đến th́ mới để tâm nh́n nhận, với tất cả tâm ư. ‘Sự khứ nhi tâm tùy không’, tức là sự việc đi qua rồi th́ cái tâm ta theo đó mà trở thành vắng không.’[10]

‘Tự lai, tự khứ[11] là cách nói tóm gọn ư trong bốn câu thơ của Tô Đông Pha. Tự đến rồi tự đi, không để lại một dấu ấn nào trong tâm. H́nh ảnh của chim nhạn tự in trên mặt hồ rồi tự biến mất. Gió đến, cây khua, gió ngừng âm thanh lặng.


Nói khác đi là tâm trụ tức là tâm c̣n giữ một số dấu ấn. Nếu tâm c̣n giữ lại một dấu ấn, nhà thiền gọi đó là niệm. Tâm vô niệm là tâm không vướng mắc một niệm nào. Nói cách khác, tâm vô niệm là tâm vô trụ.

Niệm, các h́nh ảnh c̣n thấy được trên mặt hồ khi nhạn đă bay qua, hay dư âm xào xạc c̣n nghe được sau khi gió đă ngừng mà cành trúc chưa ngừng dao động. Niệm làm cho mặt hồ mờ đi hay không gian c̣n ồn ào, tâm v́ đó mà không nhận thức được những sắc thái khác, những âm thanh khác trong thực chất của chúng.  V́ vậy mà nói: niệm nhiễm tâm.  Tâm vô niệm theo đó cũng là tâm vô nhiễm.

‘Vô nhiễm’ là không bị các niệm—dư âm, dư ảnh, ... của một kinh nghiệm nhất thời—làm ô nhiễm.  Nhờ không giữ lại, ta không bị dẫn, không bị điên đảo trong cái rừng luôn khua động của các niệm, mà trong cái nh́n vĩ mô, Phật gia gọi là bát phong[12]. Không bị điên đảo, không bị qui định, không bị điều khiển, nên cũng gọi là tâm thanh tịnh, thanh tịnh như ‘mặt hồ tĩnh lặng.’ Cũng gọi là tâm giải thoát, giải thoát ra khỏi dấu ấn của quá khứ, ra khỏi những qui định của môi trường. Quá khứ có thể trở lại, nhưng rồi cũng tự đến, tự đi. 

Thông thường, người tu Phật nhằm được giải thoát ra khỏi cái chu kỳ ‘thành, trụ, hoại, không’ hay ‘sanh, tử, luân hồi’.  Đó là con đường Tứ Diệu Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Hoặc giải thoát ra khỏi vô minh.  Vô minh là dốt. Cái biết của con người hoặc giới hạn, hoặc chưa đến nơi đến chốn, chưa rốt ráo, cho nên gọi là vô minh. Vô minh là nguồn, làm duyên sinh sản mọi điên đảo, khổ đau cho con người. Giải thoát khỏi vô minh là con đường ‘Thập Nhị Nhân Duyên’[13].

Mỗi một danh xưng ghi một phương cách, một hướng tu học, nhằm đạt một thành quả, một quả vị. Ngoài tâm vô trụ, vô niệm, vô nhiễm, vô sở trụ, giải thoát, c̣n nhiều tên khác nữa. Tâm hiện tiền, tâm nhất tướng, tâm phi tư tưởng, tâm phi thời gian[14].

Thế nhưng, nói chung, mọi phương tiện, phương cách, con đường đều hướng về một cứu cánh duy nhất:  Tâm vô trụ,Phật tri kiến’, ‘chân tâm’, hay ‘Phật tánh’, hay ‘tâm chân như’.  Những tên gọi đó, theo nhà Phật, là cùng nghĩa. Quá tŕnh tu có thể tóm lược là ‘Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật Tri Kiến’, mở, thấy, gặp, và là một với chân tâm. Và trong giới hạn những bài giảng, luận, mà chúng tôi được học, hay đọc, th́ ‘chân tâm’ là cái tâm ‘chân thật bất hư’—không hư giả, hằng tồn, trong sáng, tuyệt đối thanh tịnh.

Hiện hữu, Có, Không, Tâm vô trụ, chân tâm, chân thật bất hư?


Hỏi: Chân tâm ấy hiện hữu, có thật hay không?

Đáp: Có. Có thật.

 

V́ theo Ngài Thần Tú, một vị Tổ thiền, th́: ‘Thân thị Bồ Đề Thọ, Tâm như Minh Cảnh Đài, Thời thời cần phất thức,Vật sử nhá trần ai.’ [15]Có nghĩa là: ‘Thân là cội bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm.’[16]

Tướng của tâm như gương sáng, luôn phải chùi lau. Có nhiều danh xưng, ắt có nhiều tướng khác nhau, sao lại gọi là nhất tướng?

Nhưng cũng đáp là Không—vô tướng.

V́ theo Tổ Huệ Năng, Ngài dạy:
‘Bồ Đề bổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhứt vật, Hà xứ nhá trần ai ?’ [17]
Có nghĩa là: ‘
Bồ-đề chẳng phải cây, Gương sáng chẳng nơi đài ; Xưa nay không một vật; Bụi trần bám nơi đâu[18]

Ngài Thần Tú nói có. Ngài Huệ Năng nói không. Vậy tướng của tâm có thể là ba: Có, Không, và có thể là vừa Có vừa Không? Vô tâm mà diệu hữu?

Hai vị tổ sư thiền, cả hai, cùng một thầy và đều có khả năng lănh y bát của thầy, thế mà, Tổ nầy nói Đông, Tổ kia nói Tây.

 

Tôi thật sự: Mù. Mù th́ phải hỏi? tôi đă hỏi Internet. Đến giờ nầy, vẫn chưa thông. Viết lên đây để mong được học.

 

Tuy nhiên, phải ghi rằng hai lời đáp là hai nét cơ bản cho hai trường phái:

Tiệm tu: Tâm như đài gương sáng, Luôn luôn phải lau chùi. Ngày ngày phải tu tập.

Đốn ngộ: ‘Bồ-đề chẳng phải cây. Xưa nay không một vật. Trực ngộ chân tâm.
Và theo đó, có một rường phái thứ ba, chủ trương: Tiệm tu và đốn ngộ: Phải tu luyện hằng ngày mới có cơ duyên trực ngộ chân tâm?

Tóm lại, Tu Phật nhằm giác ngộ chân tâm: chân tâm bị nhiễm, bị bụi trần che lấp. Tiệm tu là hằng ngày phải lau chùi.  Vứt bỏ bức màn vô minh—mà Phật gia c̣n gọi là ‘vọng’—th́ trực ngộ chân tâm. Đạo Phật là Đạo giác ngộ.

 

Vọng

Tâm vọng: hằng biến-hư giả-giả hợp?

Theo Phật gia, đối nghịch với chân tâm—hằng tồn, bất biến, thanh tịnh, mà ai ai cũng có, b́nh đẳng— là cái tâm hư giả. Hư là không thực như trong ‘hư danh, hư ngôn’[19]. Giả cũng là không thực, như trong ‘giả mạo’[20].  Cũng c̣n gọi là tâm giả hợp: Đủ duyên th́ thành, hết duyên th́ mất, như mây khói, có đó rồi mất đó. Cái tâm ấy đổi thay từng thời điểm một. Phật gia c̣n gọi nó là tâm vọng. Vọng nói: trông xa; như trong chiêm vọng (trông mong), danh vọng, uy vọng (mà người thường mong ước), hoặc như trong ‘hy vọng, thất vọng, tuyệt vọng’[21]. Không nên nhầm lẫn tâm vọng với hư tâm là cái tâm ‘không tự cho là đủ, c̣n cần phải học hỏi thêm’[22]
Nếu chân tâm hằng tồn, tuyệt đối trong sáng và tinh khiết th́ tâm vọng là hư giả, giả hợp, trong cái nghĩa: đổi thay từng thời điểm một.

Vọng nói phù du, ảo ảnh, có đó rồi mất đó.

Nhà Phật c̣n gọi tâm vọng là vọng ngă, v́ người đời thường đồng nhất ḿnh với nó, nghĩ rằng nó là chính ḿnh.

Đă nói chân tâm, phải xét vọng ngă.  Cái nầy soi sáng cái kia.

Phần sau đây dành cho vọng ngă.

Chân thuộc tiên thiên, con người ngay khi sinh ra đă sẵn có. Đó là Trời, Chúa ban cho mọi người.

Vọng thuộc hậu thiên. Nếu đời người là cuộc hành tŕnh từ sinh đến tử, th́ vọng ngă h́nh thành trong quá tŕnh nầy. Vọng ngă, trong một giới hạn nào đó, là thành quả của sự dưỡng nuôi, của giáo dục, của kinh nghiệm bản thân.

Con người luôn phải thích nghi với môi trường: trong bụng mẹ, trong gia đ́nh, ở học đường, ngoài xă hội, từ lúc c̣n là thai nhi, cho đến chết. Học ăn nói, đi đứng—ăn coi nồi ngồi coi hướng, tiên học lễ hậu học văn—sống theo gia phong, gia đạo; vào trường, học để luyện ḿnh trở nên một thành viên hữu ích của cộng đồng; vào đời, học qua giao lưu với tha nhân, qua những kinh nghiệm chung sống, và như thế măi, ta tích lũy—kiến thức, giá trị, kinh nghiệm, thói quen,… để có một nếp sống—và tôi luyện tài khéo và tính t́nh. Theo đó, ta xây dựng cho chính ḿnh một nhân cách, nhân phẩm, có danh, có phận. ‘Phải có danh ǵ với núi sông.’ ‘Không thành danh cũng thành nhân.’ ‘Vi nhân nan, vi nhân nan, làm người, khó! Làm người, khó!’ Là những câu mà ta thường nghe nhắc nhở. Hệ quả là ta có một cái ‘tôi’, một cái ‘ta’, một h́nh ảnh về ḿnh, mà ta gán cho một nhăn hiệu là tư cách, nhân cách, hay danh phận của ḿnh, mà từ của Phật gia là: vọng ngă.

Là người ai cũng có vọng ngă. Như đă nói, vọng ngă là hậu thiên, ta tự xây dựng lấy.

Luân hồi lục đạo— súc sanh, ngạ quỷ, atula, người, trời?  Nghĩ cho cùng, đó là những tâm thái—trạng thái tâm linh— của con người, từ cái sống bản năng—như thú vật—đến sự thăng hoa cao độ của vọng ngă. Trong cuộc hành tŕnh từ sinh đến tử, trên thế gian, không mấy ai tránh khỏi luân hồi trong cái nghĩa nầy, và luân hồi luôn tái diễn. Con người v́ đó mà đảo điên, quay cuồng trong hỉ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục, trong khổ lạc. Khóc rồi cười, cười rồi khóc. Phật gia cho rằng cái nguồn của mọi điên đảo, của mọi khổ đau, là vọng ngă: Vọng ngă là tội đồ. Vọng ngă che lấp chân tâm. Ta mù v́ tâm vọng, chẳng nhận được chân tâm ngay trong ta, và v́ thế, ta khổ.


R. Tagore nhận thức trong ‘Thơ Dâng’:

‘Tên tôi là một nhà tù,

Tôi đă tự nhốt ḿnh vào đó và tôi đang than đang khóc.

Ngày qua ngày, tôi đă dày công tô đắp bức tường chung quanh.

Ngày qua ngày, nhà tù vươn tới trời xanh; trong bóng tối của nó, tôi không c̣n thấy tôi đâu nữa.’[23]

 

 

Giác Ngộ

‘Phật’ hàm ư: giác ngộ hoàn toàn[24], viên giác.

Giác ngộ đầu tiên của hành giả là: ngục tù vọng ngă—con người không thấy bất cứ cái chi ngoài nhà tù nầy. ‘Ngày qua ngày, nhà tù vươn tới trời xanh; trong bóng tối của nó, tôi không c̣n thấy tôi đâu nữa’.  Tiếng kêu của Tagore cũng là tiếng gào thét của những con người giác ngộ–không phải là không nắm bắt được chân tâm—mà là thấy ḿnh đă mất ḿnhvong thân—trong vọng ngă. Con người cảm nhận khổ sở trong cái nhà tù nhỏ hẹp nầy của ḿnh. Rất nhiều người chỉ có định kiến, thành kiến, biên kiến, và tin chắc rằng vọng ngă là trụ  đồng kiên cố biện minh cho cái ‘tôi’ vĩ-đại của ḿnh, để không thấy những ǵ khác.  Bên trong cái ‘tôi’ là ánh sáng. Bất cứ ánh sáng ấy ra sao—mờ nhạt, chói mắt, xanh, vàng, trắng, đỏ, khổ hay lạc—tôi bằng ḷng nó, v́ nó là tôi. Thế là tôi tự giam ḿnh trong cái ‘tôi’ của tôi.  Sực tỉnh, tôi giựt ḿnh, ngộ ra rằng, lâu nay tôi mù, tôi dốt v́ không biết bất cứ cái ǵ bên ngoài. Và ngay chính ḿnh, ḿnh không biết ḿnh là ai.

Giác ngộ thứ hai: Thân phận con người là con rối mà xă hội là ông thầy tuồng?


Nói giáo dục là nói có sự tác động bên ngoài và phản ứng bên trong: có dạy, có học, có tập luyện theo bài bản hay không theo bài bản. Sống là tương quan với một xă hội cụ thể trong một bối cảnh lịch sử cụ thể. Theo đó phải nói ngôn ngữ của xă hội ấy, theo những qui định của xă hội ấy: qui định trong cấu trúc ngôn ngữ, trong nghĩa các từ, qui định trong nếp sống, phong tục tập quán, luật pháp… Đứa bé vừa chào đời phải nhờ sự chăm sóc của mẹ cha mà sinh tồn. Không có sự chăm sóc nầy đứa bé khó sống sót. Rồi nó được chuyển giao một gia phong, gia đạo, những tập tục, truyền thống dân tộc, nói chung là cả một di sản ngàn đời của tiền nhân mà ít nhiều nó hănh diện nhận lănh.  Một chuỗi dài những tác động qua lại, theo đó, đứa bé tôi luyện thành người hữu dụng.


Tóm lại, ngay từ lúc lọt ḷng mẹ, con người bị qui định, và như thế suốt gịng đời. Rồi đến một tuổi nào đó, con người như sực tỉnh, tự vấn: Tôi là ai? Tôi phải chăng chỉ là sản phẩm của các qui định của xă hội? Tôi phải chăng chỉ là anh kép hay cô đào hát trên sân khấu mà xă hội—gia đ́nh, học đường và môi trường— là ông thầy tuồng, người viết kịch bản? Vọng ngă, cái ‘tôi’ vĩ-đại của tôi, chẳng qua là một con rối do tṛ đời điều khiển?

Tỉnh thức!

Tỉnh thức! Tôi từ chối cái khám đường chật hẹp vọng ngă và khẳng định, tôi phải ra khỏi đó. Ở đó, thiếu sinh khí. Tôi từ chối và khẳng định không là một con rối cho xă hội luôn giựt giây điều khiển. Tôi cảm nhận có một cái tôi-thực-chất, một cái tôi-chân-như, mà tôi đă đánh mất. Tôi đi t́m tôi.

 

Cái vọng ngă ấy, không ư thức nó th́ không sao, mà ư thức nó rồi th́ cảm thấy nó là tội đồ, là nguyên nhân của vô minh, nguyên nhân cho sự tha hóa, vong thân. Vong thân v́ tôi cảm nhận đă mất cái tôi-chân-như, cái tôi-thật-là tôi, mất trong nhà tù vọng ngă. Vọng ngă lại là những sở đắc, tích lũy suốt gịng đời, cho đến giờ nầy. Nói là nhà tù, v́ khi sực tỉnh, thấy rằng ḿnh đă bị cột, nhốt trong nó. Càng muốn tháo gỡ, càng muốn ra, càng bị thắt chặt.


‘Không thành danh, cũng thành nhơn.’
‘Phải có danh ǵ với núi sông.’
Những câu tục ngữ học đầu đời, giản đơn, như câu thiệu nghề vơ, thế mà có hiệu quả chết người, v́ nó có thể giam người trong một cái danh phù du, hăo huyền, hay chỉ trong một cái tên gọi.

Cái tôi-chân-như là ǵ? Nó là một thực thể rơ ràng, phân biệt với cái tôi-vọng-ngă hằng biến? Hay vọng ngă là biểu hiện bên ngoài của cái-tôi-chân-như bất-biến-hằng-tồn ở đâu đó bên trong? Hoặc cái tôi-chân-như chỉ là kết quả của một lư luận, hệ quả logic của con người? Vọng ngă là phù phiếm, hư giả, sinh tử, tử sinh, giả hợp, phù du, th́ có thể là những biểu hiện của một cái ǵ chân như, hằng tồn bất biến hay không? 


Mọi suy tư, mọi logic, mọi biện giải đều là ngôn từ, qui ước, và chỉ dẫn đến những quan niệm, nguyên lư, nguyên tắc trừu tượng đều không-thật-có v́ chỉ có trong trí năo, trong luận cứ.
Nếu Phật-Tánh chỉ là hệ quả của một lư luận, suy từ cái vọng ngă—mà tôi cảm nhận thật-có ở mỗi thời điểm—th́ Phật Tánh chỉ là một ư niệm trừu tượng. Theo đó cũng không thật.

 

Ở đây, h́nh như mỗi người phải ‘tự đốt đuốc lên mà đi’.

 

·        Tuy nhiên,
Đông đảo là những người theo lời gọi của ‘thầy’—Đại Đức, Thượng-Tọa, Ḥa Thượng, Giáo Chủ: ‘Đời là khổ, hành khổ, hoại khổ, khổ-chồng–lên-khổ, hăy theo ta, ta có con đường tu thoát-khổ? Hoặc như một ông bạn tu hành rất mực của tôi dạy: tu là để tịch diệt sinh tử,…?’
Trong thực tế, nói khổ phải nói lạc. Cuộc sống có khổ, có lạc. Đời người là một cuộc hành tŕnh đầy khổ và lạc, do có lắm vấn đề, vô cùng đa dạng và phức tạp. Thất t́nh lục dục, có đủ cả và đó chỉ là cái nh́n vĩ mô.
Không khổ làm ǵ có lạc?  Không lạc làm ǵ có khổ?


Cuộc sống là vấn đề, có lo âu, phiền toái, bực dọc, đổ mồ hôi, có khi cả nước mắt, để thích ứng. Mà vấn đề là thử thách. Thử thách khả năng—suy tư, t́m ṭi, thử nghiệm, ứng xử, hành động, giải quyết.  Thử thách tính t́nh— siêng năng, cần mẫn, kiên nhẫn, bền ḷng, chịu khó, b́nh tĩnh, năng động mà không giao động... Đó là cái giá phải trả để trưởng thành, để có cái vui—lạc thú-- cảm nhận ḿnh lớn mạnh. 
Cho nên không nhẹ dạ theo ‘thầy’, không theo những khẩu hiệu, không theo những câu thiệu, nhất là không theo những lời lẽ ‘nhân danh’. Nhân danh Kinh, Tổ, hay Phật.
Cũng không có lời giải lười biếng. Không có bữa cơm miễn phí. Muốn được một cái ǵ có giá trị, có bổ ích, phải chịu khó.
 
Chân-tâm, Phật-Tánh? Tôi là ai? Là ǵ trong cuộc đời nầy? Cái ư, cái lư của cuộc sống? Đó là vấn đề trọng đại của cuộc hành tŕnh c̣n lại của tôi. Nó nằm trong tôi, bức thiết với tôi. Tu là hành tŕ, trực nghiệm, thực nghiệm, kinh nghiệm. Tôi phải để công, để sức, để thời gian, không chỉ nghe kinh, t́m hiểu, suy tư, lư luận, mà thực chất phải hành, để nhận thức khoảng cách giữa tri và hành, lư luận và thực sống, vọng và chân.

 

Vấn đề của tôi không hẳn là của thầy—sư, săi, giáo chủ, giáo hội.  Thầy là người, cũng như tôi, có ưu, có khuyết.  Cái biết của thầy, cũng như của tôi, cũng giới hạn, cho nên không có lư do để tôi giao cái việc khó khăn nhất của tôi—tôi là ai? cuộc đời nầy là gỉ?—nhờ thầy giải quyết.

·        Có một số thầy muốn lập giáo, xây dựng giáo hội, giáo phẩm, để ban pháp, và đem pháp đến mọi người, mọi tŕnh độ, cho nên phải tạo duyên cho mọi người đến chùa.  Thế nên, chùa phải to, phải rộng, phải ‘hoành tráng’, và như các chùa Tàu, có xin xăm, có cúng sao, có cầu hồn, và chùa ngày nay, có cả đại nhạc hội gây quỹ.

·        Có thể v́ thế nên trong nghi thức quy y, ‘thầy’ bảo người tín hữu phải nguyện: “nương tựa, vâng lời, phục tùng tam bảo”[25] Phật, Pháp, Tăng.
- Phật th́ xa ở thời gian.
- Pháp th́ là cái rừng ngôn từ. Ngôn từ do qui định của con người, như mọi vấn đề thuộc con người, nó hằng biến trong nội dung và cả cấu trúc h́nh thức. Huống chi, kinh kệ là truyền khẩu, rồi kiết tập—lần 1, lần 2, lần 3—rồi đến các tổ giảng theo các tổ, rồi phiên dịch từ Phạn, Pali,…Tam sao thất bổn.
- C̣n lại là Tăng, mà đại diện là hàng giáo phẩm VN mới h́nh thành từ 1963, và cần phải củng cố và ổn định quyền bính.  Thế nhưng, vừa h́nh thành chưa được một thập niên th́ đă tranh chấp nội bộ--tranh chấp ảnh hưởng hay quyền lực—giáo hội chia ra từng mảnh. Giờ lại có thêm tăng quốc doanh.

·        Xây dựng giáo hội, giáo phẩm, giáo quyền, tổ chc thần quyền—theocraty—là việc của các ngài Tăng Thống, Tổng Thư Kư, chủ tịch, tổng vụ trưởng, vụ trưởng, vụ phó chuyên ngành—nội vụ, ngoại vụ, tài chánh, nghi lễ, cư sĩ, tăng sự,…--không ‘mắc mớ’ đến việc tu hành hay thân phận làm người mà chúng ta vấn hỏi.  Không nên can dự vào. Chú tâm của hàng giáo phẩm là trật tự, đẳng cấp, quyền bính, quyền lực,.., cho nên họ cũng không hiểu, không biết ǵ nhiều về những vấn nạn của chúng ta.

·        Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc tùng gây quỹ, bán đấu giá tượng Phật, kư sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời,... dâng sớ cầu an, cầu hồn, … giới thiệu ca sĩ, vận động xin tiền, xây chùa, xây thêm pḥng họp, trai đường,.. cũng không can ǵ đến chúng ta.

  

 

Hăy trở về với những vấn đề của chúng ta,

Đó là:

·        T́m lại chính ḿnh. T́m cái tôi mà ḿnh cảm nhận đă mất trong những qui định xă hội. Hoặc muốn rơ ư nghĩa hay cho một ư nghĩa cho cuộc hành tŕnh trăm năm nầy của ḿnh.

·        Hoặc chỉ làm nhẹ những ràng buộc của môi trường, đang đè nặng cuộc sống hằng ngày.

·        Hoặc đơn giản hơn nữa chỉ là một sự là tỉnh thức. Ư thức ở mỗi thời điểm về ḿnh, về tha nhân, về những tương quan phức tạp—ḿnh-và-môi trường— trong quá tŕnh đổi thay của cuộc sống. Tự tin mà không cao ngạo, nghe giảng, nghe kinh mà t́m hiểu và kiểm nghiệm trong thực tiễn hằng ngày.  Tin ở tam bảo mà không ỷ lại, không mất ḿnh trong tam bảo hay v́ tam bảo. Tam bảo, mà dạy cầu hồn, cầu phước, cầu an, cầu siêu thoát, là tam ma. Nói khất thực—xin ăn—mà thật sự là xin tiền— là nói dối.

·        Tỉnh thức cũng là trực nhận vọng ngă. Trực nhận là sống ư thức ở mỗi thời điểm. Một thời điểm, không đo lường được.  Cho nên, không thể diễn tả cái xảy ra ở một thời điểm bằng lời. Nó vô ngôn, nhưng thật sự hiện hữu ở thời điểm mà nó xảy ra. Nh́n lại, ta có thể diễn tả nó bằng lời, để ghi lại. Nhưng nó là nó, lời không nói hết được, và không lúc nào là trung thực với nó. Lời chỉ nói được những kư ức về nó, một h́nh ảnh ít nhiều thô sơ của nó, mà không là nó. Cho nên có câu: ‘Lời không nói hết ư, ư không nói hết t́nh.’ Huống chi là những sự việc gồm cả t́nh lẫn ư, và những thứ khác nữa.

·        Sự việc xảy ra ở một thời điểm là thật có, thật sự hiện hữu, nhưng nhất thời, có đó rồi mất đó. Nó phù du, qua nhanh như chớp, ta không nắm bắt nó được, không giữ nó bất biến dù trong một thời khoảng ngắn, vô cùng bé; nó không thuộc bất cứ ai, nó vừa hiện, liền biến mất. Nó vô ngôn, không diễn tả được bằng những qui ước của loài người. Cái-thật-nhất-thời nầy là tuyệt đối thật: tuyệt đối trong cái nghĩa là nó tự hiện—hiện hữu, tự biến—tự hủy diệt ngay sau đó; nó tự-lai-tự-khứ.
V́ ta không nắm bắt nó được, ổn định nó được trong một thời-khoảng dầu rất ngắn, ta gọi nó là phù du, là giả hợp, là hư giả, là vọng.
Thật sự, bản chất của nó—vọng ngă—là thật, nhất thời thật có, nhất thời hiện hữu. C̣n tâm-chân-như trong giới hạn hiểu biết và lư luận, th́: bên ngoài là kết quả của một lư luận, ít nhiều logic, v́ vọng mà nói chân, vọng nguồn của khổ đau th́ chân là nơi an nhiên tự tại, vọng là phù du thay đổi, th́ chân là hằng tồn vĩnh cữu.
Vọng chân đối kháng, th́ nếu vọng là phù du, th́ chân cũng phù du.
Tỉnh thức là luôn vấn hỏi về vọng và chân.

·        Nhưng Phật gia sẽ bảo:“Chân ở đây là chân thật tuyệt đối, ‘chân thật bất hư’. Kinh sách ghi chép như vậy. Và Phật là Đức Giác Ngộ, giác ngộ sự huyền diệu của chân tâm.
Sư dạy: “Ai tu nấy hưởng. Hăy theo ta, ta dạy cho con đường giải thoát.”
Tín hữu theo sư. Kẻ không tin th́ bảo sư lấy kinh kệ lấp miệng người. Đường Tăng—nhân vật chánh trong Tây Du Kư—khi t́m được chân kinh, th́ thấy là kinh vô tự, không có một chữ?

Kết Luận:

 

Thêm một lần nữa, xin lặp lại:
Không có lời giải lười biếng, Không có free lunch.
‘Hăy tự đốt đuốc lên mà đi.’
[26]
Mỗi người chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống, trên dưới trăm năm. Rất giới hạn, phải biết trân trọng. Đó là một cuộc hành tŕnh từ sinh đến tử. Càng đi, càng khám phá. Khám phá là giác ngộ. Giác ngộ: thật-giả, đúng-sai, đẹp-xấu, giàu-nghèo, khổ-lạc,…, cái tính đối-đăi, tương đối –nghiệt ngă hay may mắn— của cuộc đời. Một sự giác ngộ tạm thời, đúng đó rồi lại sai đó, một sự giác ngộ bất toàn, nhờ vậy mà con người tiếp tục cuộc hành tŕnh, luôn mở rộng tầm nh́n, luôn hướng thiện—cái thiện nhứt thời tuyệt đối, nhưng tương đối trong cuộc hành tŕnh. Một sự tương đối nhứt thời,
xảy ra ‘cùng khắp’ và thường xuyên như có vẻ vô tận và không bị gián đoạn.
Đức Giáo Hoàng Benedict XVI và Francis I, gọi đó là sự độc tài chuyên chế của chủ nghĩa tương đối—the dictatorship or tyranny of the relativism.
Vậy th́ Chúa ở đâu? Chân-như ở đâu? Sự thật tuyệt đối, vĩnh hằng ở đâu?
‘Hăy tự đốt đuốc lên mà đi.’

‘Trong quy y, ngoài sự quy y c̣n lư quy y. ‘Lư quy y là trở vế với chính ḿnh.
[27] Sư ở chùa. Phật tâm.

‘Nước của Đức Chúa Trời là ở ngay trong bạn—the realm of God is within you,” là tựa của một quyển sách của Lev Tolstoy. Nó gợi ư: đừng t́m Nước của Chúa—sự thật tuyệt đối--ở ngoài, mà phải nh́n lại bên trong chúng ta. Cái ở ngoài—tiếp cận, tương giao với ngoại nhân—là sự thật tương đối. Chân-như ở bên trong, thực chất là nội tại, toàn vẹn bất khả phân?  

Tỉnh thức
là đốt ngọn đuốc bên trong. Ánh sáng đến đâu, thấy đến đó. Không có phép lạ. Phép lạ do Chúa, do Trời, do những ngẫu nhiên ngoài dự đoán, tính toán của con người.
Phép lạ không là bùa chú, không do các pháp sư, cậu trạng, bà bóng, thầy bùa, thầy chùa, sư săi.
Nhất thiết không ṭng phạm với giới buôn thần bán thánh.

Người tu không để dính mắc ở trụ hay vô trụ.

Tu là tỉnh thức. Tỉnh thức để buông xả?

 

Và lời sau cùng để suy nghiệm là lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma:

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật ǵ mà không buông xuống, th́ anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, th́ anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác. Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của ḿnh, không chịu buông xuống th́ trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”[28]

 

 

Nguyễn văn Trường

 

Houston, June 30, 2014

 



Ghi chú:  Chúng tôi chân thành cám ơn bác sĩ Nguyễn văn Vĩnh, giáo sư Vương Thúy Nga, giáo sư và nhà văn Trần Bang Thạch và ông đồ Đỗ Chiêu Đức đă chịu khó đọc, góp ư, khuyến khích. Nhờ vậy, chúng tôi có những hiệu chính thích ứng.

 

 

Mục Lục 99Độ 

 

 



[1] Internet

[2] Phật tuy tịch rồi, c̣n tượng Ngài lưu lại, cũng như Phậtở đời măi, thế là ‘trụ tŕ Phật Bảo.  Thiều Chửu.  Hán Việt Từ Điển. Tái Bản Lần thứ hai. trang 20

[3] Pháp tuy tịch rồi, nhưng kinh sách c̣n lưu truyền lại,  thế là ‘trụ.tŕ Pháp Bảo’, Thiều Chửu.  Hán Việt Từ Điển. Tái Bản Lần thứ hai. Trang 20

[4] Thiều Chửu.  Hán Việt Từ Điển. Tái Bản Lần thứ hai. Trang 6

[5] Thơ Tố Hữu. Nguồn Internet

[6] Thơ Tố Hữu. Nguồn Internet.

[7] Duy Lực Thiền. Posted on 09/07/2013. Internet.

[8] Nhi Chỉ Nhược.  Giải thoát tức th́. Tâm Vô Trụ. Nguồn : Internet.

[9] Nguyễn Duy Nhiên, Ấm một B́nh Minh. Sinh Thức 55-1.
Phật học Online.  Trái Tim của Bụt.

[10] Phật học Online.  Trái Tim của Bụt

[11] Từ mượn của một bức tranh Thiền của giáo sư Nguyễn Đức Hiển.

[12] "thịnh và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tức là bát phong có bốn cặp: Một là hưng thịnh, lợi lộc và suy sụp, điêu tàn. Hai là hủy báng, gièm pha và danh dự, tiếng thơm. Ba là xưng dương, tán tụng và cơ bài, chỉ trích. Bốn là phiền năo, khổ đau và an lạc, hạnh phúc.’ Nguồn: Cư Trần Lạc Đạo, Bát Phong. Phật Học Ngày Nay.  Internet

[13] Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa lam nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật ǵ có tánh cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công... là trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ duyên cho tất cả vật chung quanh nó. 
Chữ "Nhân duyên" lại có nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ v.v... là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành ra cái nhà. V́ các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh chép: "Chư pháp trùng trùng duyên khởi".  Thập nhị nhân duyên gồm có:  1. Vô minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lăo tủ.  Tạnh Thư Phật Học. Thích Thiện Hoa. Phật Học Phổ Thông. Internet.

 

[14] Nhi Bất Nhực, Tâm Vô Trụ. Giải Tức Th́.  Nguồn: Internet/

[15] Pháp Bửu Đàn Kinh. Internet

[16] Pháp Bửu Đàn Kinh. Internet

[17] Pháp Bửu Đàn Kinh. Internet

[18] Pháp Bửu Đàn Kinh. Internet

[19] Đào Duy Anh: Hán Việt Từ Điển

[20] Thiều Chửu: Hán Việt Từ Điển.  Lạc Thiện: Hoa Việt Thông Dụng Từ Điển.

[21] Thiều Chửu. Hán Việt Từ Điển

[22] Thiều Chửu. Hán Việt Từ Điển. Lạc Thiện:  Hoa Việt Thông Dụng Từ Điển. Đào Duy Anh:  Hán Việt Từ Điển.

[23] Nguyên Nguyên Huỳnh Hồn Cẩm. Nguồn Thiền. Nhà Xuất Bản Văn Học Thông Tin. trang 34.

[24] Thiều Chửu. Hán Việt Tự Điển. Lạc Thiện. Hoa Việt Thông Dụng Tự Điển.  Đào Duy Anh. Hán Việt Từ Điển.

[25] HT Thích Thiện Hoa. Phật Học Phổ Thông.  Sự Quy Y.

[26] Lời của Đức Phật.

[27] HT Thích Thiện Hoa. Như Trên.

[28] Nguồn. Internet