Tản Mạn Về Việc Thành Lập Trường ĐHYK Huế.

 

lm cao văn luận from havuvhp.blogspot.comCổng thông tin sinh viên, cựu sinh viên, học viên Đại học Huế - Sự thành  lập các trường đại học trực thuộc Viện Đại học Huế

+ LM Viện trưởng Cao Văn Luận   + Trường ĐH Y khoa Huế 1974.

 

Thời đó miền Nam Việt Nam rất thiếu bác sĩ, điều này rơ như ban ngày. Nhưng lấy đâu ra bác sĩ, ai có thể giải quyết?

 

Năm 1957 LM Cao Văn Luận được phép thành lập ĐH Huế. Năm sau lúc bốn phân khoa đầu tiên: Văn, Luật, Sư phạm, Khoa học đă nhanh chóng đi vào ổn định, cha Luận nẩy ư kiến thành lập thêm một khoa Y. Trong cương vị viện trưởng th́ hầu hết ai cũng làm như Cha, cùng viễn kiến thế.

Hồi tôi lên chức khoa trưởng, tôi từ lơ là bỗng đổi tính, muốn trường phát triển các chuyên khoa sâu, mở thêm Nha, Dược… không nghĩ ḿnh có cái nh́n rộng lớn ở tầm vóc quốc gia.

 

Cuối năm 1958 Cha thuyết phục được Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ban hành sắc lệnh thành lập trường ĐHYK Huế. Song từ có được sắc lệnh đến thực hiện là một quăng đường xa gần chưa biết. Như Tam Tạng cầm chiếu chỉ đi Tây Trúc thỉnh kinh.

 

Hồi kư “Bên gịng lịch sử (1940-1965)” của Linh mục Cao Văn Luận kể lại những khó khăn. Cha đến các ṭa Đại sứ Pháp, Mỹ, Đức, Bỉ… đều chỉ nhận được lời hứa sẽ nghiên cứu vấn đề trợ giúp.

Cuối cùng nếu không có GS Krainick th́ trường YKH đă không thể khai giảng năm thứ nhất vào cuối năm 1961. Để rồi “Để lâu cứt trâu hóa bùn” sắc lệnh thành lập trường YK quá hạn sử dụng, mất tác dụng. Khi Trường YKH có đủ mọi điều kiện th́ bộ Giáo dục và trường YKSG không có ư kiến thắc mắc ǵ thêm.

___

 

Cũng tương tự năm 1970 Linh mục Bửu Dưỡng viện trưởng ĐH Minh Đức có viễn kiến mở trường Y khoa Minh Đức. Cha chỉ cần kiếm một giáo sư làm khoa trưởng cho trường là đại công cáo thành. Ở Sài G̣n năm 1970 giáo sư không thiếu: Từ Mỹ về có các bác sĩ có bằng PhD như ĐH Anh VQ Đài, NK Minh, HT Bảo, BD Tâm… hoặc Thạc sĩ từ Pháp như PĐ Tuân, BQ Hương, NH Can, LX Chất… và nhiều nữa. Đặc biệt GS. Nguyễn văn Ái (Viện Trưởng Viện Pasteur và đồng thời là Chủ Tịch Hội Trí Thức Công Giáo Pax Romana).

 

Chẳng ngạc nhiên khi những người được mời đều từ chối chức vụ khoa trưởng, không sờn ḷng do sự thành lập trường YKMĐ bị chống đối từ tứ phía, mà do ai nấy đều thấy trước khó bề kiếm được bệnh viên thực tập cho sinh viên.

Chỉ có GS BD Tâm nhận làm khoa trưởng, phải chăng ông nh́n xa thấy rộng như cha viện trưởng Bửu Dưỡng! Nếu rủi không có GS BDuy Tâm làm khoa trưởng th́ mời mà không ai chịu làm, không khéo trường YKMĐ chẳng bao giờ được mở cửa, để rồi t́nh trạng kéo dài đến ngày 30/4/1975 ngọc nát đá tan.

 

Tra Google th́ được biết GS Trần Đ́nh Đệ là vị Tổng trưởng Y tế có sự nghiệp, các vị khác không thấy Google nói ǵ.

BS Trần Đ́nh Đệ (1917-2003). “Ông cũng được biết như một người thầy đă khuyến khích nhiều phụ nữ Việt nam đi vào ngành y khoa để sau này ra bác sĩ, một việc làm nh́n khá xa đối với thời bấy giờ. Trong thời gian làm Tổng trưởng Y tế (1960-1963), ông cũng đă t́m tài chánh và phương tiện để xây hàng chục nhà thương và trạm xá ở các tỉnh miền Nam và miền Trung hầu tránh cho bệnh nhân phải đi xa mới được chữa chạy. Ông khuyến khích việc chích ngừa để làm giảm bớt những bệnh thông thường như sốt rét rừng do muỗi gây nên. Ông cũng bành trướng mạng lưới y khoa để cho ở những chỗ xa xôi cũng tối thiểu là có y tá và các bà đỡ cho người dân, nhất là vào thời gian đó khi Việt nam chỉ có vài ngh́n bác sĩ cho một dân số 18 triệu dân. Năm 1966, ông nhận làm cố vấn về giáo dục y khoa cho Tổ chức Y tế Thế giới, tức WHO, và trong tư cách này ông đă có tay trong việc thành lập Viện Đại học Y khoa Yaoundé ở Cameroon, Phi châu…”

____

 

Ở miền Nam VN hồi cuối thập niên 1950, mạng lưới y tế ngoài 2 trường Y khoa ở SG và Huế c̣n gồm nhiều trường y tá, trường nữ hộ sinh và trường cán sự y tế, có trước trường YKH. Đến nỗi Wikipedia nói trường Nữ hộ sinh và trường Cán sự Y tế Huế là tiền thân của trường ĐHYK Huế. Không biết Wikipedia lấy nguồn tin từ đâu khiến mắc phải sai lầm to lớn như vậy!  Hai trường NHS và CSYT Huế đâu có đóng cửa để trở thành trường Đại học Y khoa, mà vẫn c̣n sờ sờ đó, phát triển mạnh, tọa lạc kẹp (trụ sở) trường YKH ở đường Ngô Quyền vào giữa.

 

Năm 1960 tôi đang là bác sĩ tại BV Trung ương Huế có đảm nhiệm dạy về Nội khoa, niên khóa 1960-61 cho cả hai trường Cán sự Y tế và Nữ hộ sinh Huế. Tôi soạn bài kỹ, dạy kỹ và nhận thấy các sinh viên rất ham thích. Thi cuối năm họ làm bài thi rất tốt, đạt điểm cao.

Ở BV Trung ương Huế lúc đó có ông Mầu tác người bé nhỏ, đă lớn tuổi, y tá trưởng pḥng mổ. Ông được phép mổ sỏi bọng đái, cắt bao quy đầu hẹp, cắt bỏ u nang… Trong xóm ông ở, xóm Phú Cam hoặc đâu gần đó, ai bệnh ǵ cũng tin ở ông như bác sĩ, đến nhờ ông xem bệnh, cho thuốc và ai cũng lành bệnh. Ca khó th́ ông giúp đưa bệnh nhân vào bệnh viện.

Cán sự y tế trường Huế hầu hết nắm vững tay nghề, ham hố học hỏi, được tín nhiệm nơi làm việc và trong dân chúng. Hai trường Y tá và Cán sự y tế thi vào không phải dễ, sự tranh đua là gay cấn. Năm 1987 tại BV ĐB Phủ, TPHCM một cô bác sĩ trong khoa nói với tôi: “Hồi đó em sợ, chỉ nộp đơn thi vào trường Y tá nhưng trượt, thi liều vào trường Y khoa ra bác sĩ th́ lại đậu”.

____

 

Tại miền Bắc về cán bộ phục vụ cho công tác mắt hột, đến cuối năm 1965, Viện Mắt và các địa phương đă đào tạo bổ túc được:

……….

- 7.000 cán bộ y tế xă, trong đó có 1.500 người biết mổ quặm.

Mổ quặm không phải là một phẫu thuật đơn giản. Là một trung phẫu. Người thực hiện phải là một bác sĩ chuyên khoa mắt.

 

Năm 1972, Giáo sư Nguyên, viện trưởng viện Mắt Hà Nội đă đưa ra khuyến cáo "Giải pháp giải phóng nhanh hơn nữa mù ḷa do đục thể thủy tinh ở người già"… Những “đội quân” mổ đục thủy tinh thể liên tục “ra đời” và “tấn công” vào những “điểm nóng” vùng xa, vùng nông thôn, mang lại ánh sáng cho hàng vạn người, góp phần giải phóng sức sản xuất…  (Báo Sức khỏe và Đời sống).  

Thiếu chỉ khâu mổ mắt, miền Bắc có sáng kiến lớn chế tạo chỉ khâu mắt tự tiêu làm từ gân đuôi chuột đồng, chuột cống. Nhờ đó, nhiều khoa mắt ở các tỉnh đă tự túc được chỉ dùng trong phẫu thuật mắt.

 

Tuy nhiên sau năm 1975 tại BV Trung ương Huế, khoa Mắt mổ đục thể thủy tinh (cườm khô) vẫn dùng chỉ nhập, mảnh như sợi tóc, đầu chỉ gắn vào vào kim cong nhỏ. Khoa không nhận được chỉ gân đuôi chuột ngoài Bắc gởi vào. Nếu có chắc chỉ phải lớn. Nhỏ quá chỉ đă tự tiêu trước khi vết mổ lành hẳn. Lại c̣n vấn đề chế tạo cây kim cong có lỗ xâu để dùng với chỉ chuột. Nhiều năm sau, tại các bệnh viện Mắt TPHCM cũng không hề thấy mặt chỉ gân đuôi chuột thần kỳ này h́nh dáng ngang dọc ra sao.

 

Mổ đục thủy tinh thể tay mơ gây ra hàng loạt biến chứng khiến mắt mù luôn như cũ hoặc chỉ đếm được ngón tay, thấy lờ mờ cảnh vật để ḷ ṃ đi lại, như thế đối với người già ở thôn quê được xem là hài ḷng. Thật đúng có bác sĩ yếu c̣n hơn không có bác sĩ!  Mổ đục thủy tinh thể thuộc loại đại phẫu.

Ở BV Trung ương Huế, năm 1972 khoa Mắt mổ khoảng 10 ca mỗi tuần lễ. Bệnh nhân đến khám được nhập viên, mổ sau vài hôm. Tất cả miễn phí.

___

 

Năm 1956 tôi là sinh viên Nội trú bệnh viện, làm việc tại BV Chợ Rẫy, Sài G̣n, năm 1958 là Y sĩ Trung úy tại BV Quân Y Mang Cá, Huế, năm 1960 là bác sĩ Dân Y bộ Y tế tại BV Trung ương Huế. Hồi đó miền Nam thái b́nh, phồn thịnh.

Tôi nhận thấy đâu đâu, ở bệnh viện nào th́ bệnh nhân cũng được khám bệnh ngay, được cho đơn thuốc về nhà, hoặc được cho nằm viện mà thủ tục rất đơn giản, chỉ khai tên tuổi, địa chỉ để liên lạc và khai bệnh tật, không cần xuất tŕnh giấy tờ ǵ thêm. Nằm viện, thuốc men, xét nghiệm, áo quần, bữa ăn, khẩu phần đặc biệt, mọi thứ nhất nhất đều được bệnh viện đài thọ, cung cấp miễn phí toàn bộ.

 

Về khoa ngoại th́ bệnh nhân được lên lịch mổ rất sớm, quanh quẩn mổ loét dạ dày, sỏi thận, bọng đái, bướu cổ, cắt trĩ, nối găy xương…và các tiểu phẫu khâu vá vết thương do tai nạn lao động, giao thông, chọc nhọt mủ… Cấp cứu th́ có viêm ruột dư, viêm phúc mạc, viêm túi mật, tắc ruột…Sản phụ khoa th́ có mổ đẻ, thai ngoài tử cung, u nang buồng trứng, cắt sa tử cung…

Hồi đó y khoa đơn giản, không tiên tiến, phức tạp như hiện tại.

 

Năm 1972  BS H.J Candela nhi khoa, BS Momin phẫu thuật lồng ngực và BS H.G Dupuis, phẫu thuật trẻ em, đang dạy ở trường và làm việc tại bệnh viện. BS Dupuis gặp tôi và gợi ư hợp tác mở một cơ sở phẫu thuật thẩm mỹ ở Huế. Tôi ngần ngừ. Chắc ông c̣n tiếp xúc với các bác sĩ khác nhưng rồi không nghe ông nói ǵ thêm cho đến khi ông rời Huế sau đó.

Từ năm 1964-1965 trở đi chiến tranh lan rộng, bệnh nhân bị thương tích chiến tranh, lủng phổi, thủng ruột, bể gan, lá lách, găy xương, đạn, mảnh ḿn ghim trong người…

rất nhiều khiến các bệnh viện quá tải, đ̣i hỏi tăng cường số lượng bác sĩ, trợ y, y tá.

____

 

Ở miền Bắc trong thời chiến để giải quyết khan hiếm bác sĩ, các lớp đào tạo cấp tốc, ngắn hạn được tổ chức. Có lư lịch tốt, các y tá được cho học lên y sĩ, các y sĩ lên bác sĩ. Thà đào tạo một BS yếu c̣n hơn không có…

Miền Nam cũng đă thử nghiệm. Hai viện đại học Sài G̣n và Huế  có trường hộ sinh với giáo tŕnh ba năm. Ở các tỉnh th́ có giáo tŕnh rút ngắn sáu tháng để nữ hộ sinh có thể tác nhiệm mau chóng.[27] Thà có một NHS 6 tháng mà giỏi hơn là NHS 3 năm mà yếu?

Ở tuyến huyện bệnh viện trang thiết bị y tế thiếu thốn + bác sĩ yếu kéo dài thời gian điều trị, không những làm hại một, mà nhiều mạng người. Có bác sĩ tốt th́ giải pháp phổ biến vẫn là túc trực xe cứu thương lớn nhỏ, sau khi sơ cứu, không chần chừ, bất kể ngày đêm, kư giấy chuyển tức tốc các ca khó lên bệnh viện tuyến tỉnh có đầy đủ phương tiện cứu cấp. Hồi ở BV Trung ương Huế, tôi cũng như các đồng nghiệp thường gặp và giải quyết ngay các trường hợp này. Ở chiến trường th́ các trực thăng tải thương được sử dụng.

Một vấn nạn khác là các bác sĩ dù đào tạo nhiều bao nhiêu cũng kéo nhau về lập nghiệp nơi thành thị.

Lê Bá Vận.

____