Ngày hôm qua, tôi nhận được một package lớn do gia đ́nh cố GS. Viện Trưởng Viện ĐH Huế Lê Thanh Minh Châu gởi, trong đó gồm rất nhiều tài liệu xưa, vô cùng quư báu, liên quan đến cả 2 trường YKH và YK Saigon. Như danh sách toàn bộ các bác sĩ VNCH tốt nghiệp trước 1975 của AMA, danh sách các bác sĩ VN định cư sau 1975 tại Mỹ, Canada, Úc, Âu Châu.. danh sách các các bác sĩ được AMA cấp lại chứng thư, giấy giới thiệu.. và ngay cả danh sách tên, phân loại các luận án TS YK Quốc Gia của các bác sĩ Huế (từ 1967-1972) và của Saigon (từ 1971-1972... Một kho tàng vô giá để bất cứ người có đầu óc khảo sát sẽ t́m hiểu và trân trọng sự giúp đở ban đầu của các cơ quan American Medical Association, Canadian Medical Association...mà nhờ đó hàng ngàn bác sĩ Việt Nam tỵ nạn chúng ta tốt nghiệp trước 1975 đă trở lại hành nghề.
Trong chiều hướng nói trên, BBT YKH Hải Ngoại xin mời quư ACE đọc "Viết Trước Khi Quên", một tài liệu biên soạn rất kỹ lưỡng của Bs. Nông Thế Anh, về giáo dục YK Saigon, sự liên hệ giữa YK Saigon và cơ quan AMA, các giúp đở thiết thực của AMA tại VN, như xây dựng cơ sở, gởi các GS YK Hoa Kỳ sang dạy/ làm việc tại Saigon, chương tŕnh du học cho các bs. ĐH YK Saigon- mà trong đó ĐH YK Huế có được 4 bs. là Bs Nguyễn Tinh Châu (Berkeley), Tôn Thất Chiểu, Huỳnh Kim Giám và Hồ Chung Tú - chương tŕnh huấn luyện thi chứng chỉ ECFMG, FLEX cho các Bs. VN tỵ nạn, chương tŕnh ôn học thi do chính Bs. Nông Thế Anh một ḿnh đứng ra chủ trương, tại Trung Tâm Y tế San Bernardino mà cá nhân V. Chánh được bạn cùng lớp là Bs. Vơ Văn Phác chở đến học 3-4 lần trong gần cuối năm 1980...
BBT chân thành cám ơn Bác Sĩ Nông Thế Anh về tài liệu quư báu này. Riêng cá nhân V. Chánh không thể quên cách giảng dạy dễ hiểu, lưu loát và đi thẳng vào trọng tâm của Bs. Anh, mà nhờ đó V. Chánh Passed kỳ thi FLEX ngay tháng Giêng 1981.
VIẾT TRƯỚC KHI QUÊN
Nông Thế Anh
Gần đây một số đồng nghiệp muốn
biết thêm về t́nh trạng y sĩ Miền Nam Việt
Nam sau ngày 30 tháng 4, 1975. Kẻ viết đọc lại hai
bài viết về lịch sử của trường Đại
Học Y Khoa Saigon. Bài 2 cũng có nhiều chi tiết như
trong bài của GS Đào Hữu Anh, nhưng có thêm vài tin sau
1975 và một số h́nh ảnh NHƯNG KHÔNG CÓ TÊN TÁC GIẢ.
Bài viết này xin gửi đến quư độc giả vài chi tiết:
I/ AMA - VIETNAM MEDICAL EDUCATION PROJECT.
Chương tŕnh này rất lớn lao và bao gồm nhiều
kế hoạch cho nhiều cơ quan giáo dục y tế tại
Miền Nam. Tiếc thay t́nh trạng trong thời gian
1966-1975 không cho phép hoàn tất phần lớn của kế
hoạch giáo dục này. Bài này chỉ viết về
chương tŕnh giáo dục y khoa cho trường Đại
Học Y khoa Saigon mà thôi (AMA-USMSMEP, American Medical
Association-University of Saigon Medical School Medical Education Project.).
AMA-USMSMEP chỉ dùng trong bài này thôi.
II/ CHƯƠNG TR̀NH LUYỆN THI CHỨNG CHỈ ECFMG
(Educational Commission for Foreign Medical Graduate) cho y sĩ Việt
Nam tỵ nạn. 1976 Oklahoma City, OK
III/ CHƯƠNG TR̀NH LUYỆN THI FLEX (Federal Licensing
Examination). Về sau, FLEX đổi thành USMLE United States
Medical Licensing Examination.
IV/ CHƯƠNG TŔNH HỌC ÔN THI Chứng Chỉ ECFMG / FLEX tại San Bernardino County Medical Center (SBCMC), tại San Bernardino, CA, 1980.
V/ CHƯƠNG TR̀NH CHUẨN BỊ VÀO LÀM VIỆC Tại BV Mỹ (Externship) SBCMC 1989.
***
I / AMA-VIETNAM MEDICAL EDUCATION PROJECT
Phần này chỉ ghi nhận một
số dự kiện thôi.
1. a HỔ TRỢ CỦA CHÍNH PHỦ MỸ
Mặc dù
Hoa Kỳ đă cung cấp viện trợ cho Việt Nam từ
năm 1950 nhưng măi đến 1956 Cơ Quan Hợp Tác Quốc
Tế (International Cooperation Administration ICA), tiền thân của
Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế (USAID United States Agency
for International Development) mới bắt đầu quan tâm
đến giáo dục y tế. Đến năm 1959, phái
đoàn Hoa Kỳ tại Sagion của ICA đă cam kết xây
dựng một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa bao gồm một bệnh
viện giảng dạy 500 giường. Dự án này nhằm
"phát triển các cơ sở và các cơ sở hạ tầng
đầy đủ để giáo dục và đào tạo
nhân viên y tế, điều dưỡng và các dịch vụ
y tế liên quan" và cung cấp sở vật chất khoa
học cơ bản của Khoa Y. Các kế hoạch kiến
trúc được phát triển sau môt thời gian tŕ hoăn đáng
kể, và công việc xây dựng cuối cùng bắt đầu
vào năm 1963 với dự kiến hoàn thành vào năm 1965.
Cũng vào năm 1965 chính phủ Việt Nam đă yêu cầu
tái kích hoạt hỗ trợ trong lĩnh vực này.
Theo kẻ viết, thời gian hoăn tŕ
nói trên cũng dễ hiểu. Sau cuộc đảo chánh
chính phủ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm vào ngày 1
tháng 11, 1963, t́nh trạng chính trị tại Miền Nam Việt
Nam không đủ ổn định để thi hành một
số kế hoạch quan trong và lớn lao cho hệ thống
Y Tế nước nhà. Dù sao đi nữa, Trung Tâm
Giáo Dục Y khoa Saigon được
hoàn tất và khánh thành vào năm 1966.
1. b HIỆP HỘI Y TẾ MỸ (3) AMA American
Medical Association
Chương tŕnh GIÁO DỤC Y KHOA của
USAID không được thành h́nh mặc dù đă gửi
chuyên viên cố vẫn giáo dục y khoa sang Saigon để
bàn luận và tiến hành chương tŕnh. Lư do về sau
được biết là Ban lănh đạo của USAID về
chương tŕnh giáo dục đ̣i t́m và chọn MỘT
ĐẠI HỌC tại Mỹ có một trường y
khoa đủ sức để tổ chức, gửi nhân
viên giảng huấn sang Việt Nam và đồng thời
có đủ nhân lực để d́u dắt, dạy dỗ
nhân viên giảng huấn của ĐHYK Saigon sang tu nghiệp
tại Mỹ. Tám năm t́m ṭi, thương thuyết không
đi tới kết quả nào. Vào đầu thu 1965, USAID bổ
nhiệm Thiếu Tướng Không Quân James W. Humphreys Jr. MD
làm Chủ tịch Ủy Ban của Chương tŕnh giáo dục
y khoa của USAID. Bác sĩ Humphreys có tiếng là người
lănh đạo giỏi, có nhiều kinh nghiệm về hành
chánh và đồng thời có nhiều liên hệ với ṭa
Bạch Ốc thời đó. Ông khuyến nghị hoàn thành
xây cất Trung Tâm Giáo Dục Y khoa cho Trường y Khoa
Đại Học Saigon. Ông bổ nhiệm Bác sĩ Lawrence
L. Pratt làm Cố Vấn Giáo Dục Y Tế cho USAID. BS
Pratt, một Y sĩ giải phẫu lồng ngực, là
người kiên tŕ, có óc sáng tạo và tài "ngoại giao
khéo léo". Ông làm liền 3 chuyện:
1) Thay v́ t́m MỘT trường y khoa Mỹ lo cho tất cả các khu y khoa của trường Y Khoa Đại Học Saigon (TYKDHSG), ông đề ngh́ t́m sự hỗ trợ các khu y hoc (Clinical departments) của MỘT SỐ TRƯỜNG Y KHOA của Mỹ Quốc. (Ví dụ như KHU NGOẠI KHOA của Trường Y Đại Học Pittsburgh thiết lâp mối quan hệ với Khu Ngoại Khoa của TĐHYKSG)
2) Ông xin gặp Giáo sư Trần Ngọc Ninh, lúc đó là Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Giáo Sư Phạm Biểu Tâm, Khoa Trưởng của TĐHYKSG để tŕnh bày và thảo luận về dự định của USAID
3) Ông hiểu rơ vấn đề t́m trường y khoa Mỹ ủng hộ chương tŕnh Việt Nam Medical Education Project rất khó. Do đó ông đi thẳng con đường "Y SĨ NÓI CHUYỆN VỚI Y SĨ " và thành công, được sự ủng hộ của AMA (Ban lănh đạo của AMA - Chicago, và của BS Norman W. Hoover của Mayo Clinic tại Rochester, Minnesota). Đây là một "tuyệt chiêu" của BS Pratt. Chương tŕnh Giáo dục Y khoa của USAID cho TĐHYKSG được thành h́nh. Nhân vật chính và rất quan trọng của phía AMA là Tiến Sĩ Ira Singer, Giám đốc cho chương tŕnh từ năm 1966 - 1975. TS Singer về sau là Trưởng Bộ của AMA cho chương tŕnh tại Việt Nam từ 1974 tới 1975.
1. c. CHƯƠNG TR̀NH NỘI KHOA tại Oklahoma City
APPENDIX A của sách AMA ghi lại những
nhân viên của những đại học MỸ và của Đại
Học Y khoa Saigon đă sang Việt Nam hay qua Mỹ trong thời
kỳ 1966-1975. Mỗi phân khoa của ĐHYKSG đă gửi
nhân viên giảng huấn sang Mỹ quan sát hay tu nghiệp.
Kinh nghiệm của mọi người của mọi Khu
khác nhau. Hy vọng độc giả có th́ giờ coi kỹ
Appendix này.
Trong đoạn viết này, chắc
cũng nên viết vài hàng về CHỮ FELLOWSHIP. Chữ này
trong môi trường hàn lâm có nhiều nghĩa. Trong AMAVNMSP
chữ này dùng để chỉ tất cả những
người của AMAVNMSP đă sang Mỹ lúc đó.
Nhưng sự thực là có vị sang để QUAN SÁT KHÍA
CẠNH TỔ CHỨC của nền Giáo Dục Y khoa tại
Mỹ. Một số y sĩ sang Mỹ để học
thêm, trau dồi thêm kiến thức y khoa của chuyên môn
ḿnh. Họ có thể không nhúng tay vào thực hành mà chỉ
ghi nhận, quan sát thôi nhưng một số khác là phải
nhúng tay vào săn sóc bệnh nhận. Dưới đây
xin ghi lại phần Nội Khoa:
- Tháng 2, Năm 1972, Khu Nội Khoa
gửi 3 nhân viên giảng huấn thuộc cấp Giảng
nghiệm viên (qua kỳ thi tuyển) : Nông Thế Anh (GS Trần
Lữ Y của Bệnh Viện Nguyễn Văn Học), Trần
Quang Mỹ (GS Lê Xuân Chất, Chợ Rẫy)
Đào Thế Xương (GS Lê Xuân Chất) sang Oklahoma. Lúc
đó nếu người viết không lầm th́ GS Nguyễn
Ngoc Huy lên làm Viện Trượng Viện Đại Học
Saigon.
- Tháng 10, 1972, Bùi Ngọc Điệp
(GS Lê Xuân Chất) và Hồ Đắc Đằng (GS Trần
Lữ Y, BV NVH) gia nhập trở thành Nhóm Năm Người
mà BS Norman W. Hoover, trưởng bộ của AMA tại Việt
Nam, đặt ra tên THE SAIGON FIVE.
- Trước khi rời Việt Nam sang
Mỹ, GS Trần Lữ Y và BS Hoover trong buổi họp
riêng với kẻ viết có nói rơ vài điểm sau đây
: (1) Các anh được gửi đi sau khi đă qua một
kỳ thi tuyển (2) Các anh đă có sẵn chứng chỉ
ECFMG (3) Trường YKSG Saigon tin tưởng là quư anh sẽ
trở về để phục vụ nước nhà.(4)
Chúng tôi cũng hiểu gia cảnh của quư vị nhưng
hy vọng các anh sẽ ở lại OK City ít nhất hai
năm.
- Tháng 4, 1974, thêm hai GNV sang OK: Nguyễn
Thị Nhơn (Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, Chợ Rẫy.
Trưởng Khu thay đổi mỗi hai năm th́ phải)
và Trần Quốc Toản (GS TLY, BV NVH). Sau đó thêm anh Nguyễn
Ngọc Lĩnh (GS Trần Văn Bảng, Bệnh Viện
Chợ Quán). BS Lĩnh mất vào khoảng cuối tháng 3 hay
đầu tháng 4, 1975 v́ biến chứng sau cuộc mổ
tim tại Nhà Thương Cựu Quân Nhân Oklahoma. Được
biết trước khi sang Mỹ, BS Nguyễn Thị
Nhơn được học bổng 3 Năm NỘI KHOA của
Mayo Clinic, Rochester, Minnesota do GS Joe Kiely (Mayo Clinic) dàn xếp.
Nhưng chương tŕnh của AMA không chấp nhận có
hai trường Mỹ cho bất cứ chuyên khoa nào.
- Tại Oklahoma City, nhóm GNV Nội Khoa đ̣i
hỏi được làm việc như tất cả các Y
Sĩ Thường Trú của Trung Tâm Giáo Dục Y khoa. Trực
tiếp săn sóc bệnh nhân và đọc sách báo và tập
san YK để học hỏi thêm hầu mở rộng kiến
thức y khoa tổng quát rất quan trọng trước khi
về quê nhà phục vụ. Cũng nên nhắc lại là
trước khi ra đi, những GNV này đă biết rằng
trong những lớp dưới của họ đă có nhiều
sinh viên học giỏi và trong quân đội cũng như
trong cộng đồng dân y có rất nhiều vị
đàn anh xuất sắc. Họ hy vọng ngày mai chiến
tranh chấm dứt và một khi trở về sẽ
được cơ hội làm việc cùng với quư vị
giáo sư, đồng nghiệp đàn anh và đàn em để
thành lập một Trung Tâm Giáo Dục Y khoa tân thời và hữu
hiệu cho dân tộc Việt. Vào đầu năm 1975, c̣n
lại 2 GNV (NTN và TQT) quyết định hoàn tất
chương tŕnh thường trú Nội Khoa để thi
American Board of Internal Medicine. Trong khi đó, NTA đă làm xong 3
năm Nội Khoa và sau tháng 4, 1975 làm instructor in Medicine at OK.
Sở dĩ NTA không về Việt Nam vào tháng 2, 1975 (02/1972-/02-1975)
là v́ kỳ thi American Board of Internal Medicine 1975 nằm vào tháng
6. AMAVNMSP cho phép ở lại tới tháng 6. Chương
tŕnh AMAVNMSP chính thức được USAID chấm dứt
vào tháng 8, 1975.
- Thêm hai điểm đáng ghi cho rơ:
a) Giáo Sư James Francis Hammarsten đă sang Việt Nam nhiều
lần khảo cứu t́nh trạng giáo dục Y khoa trước
khi nhận lời tham dự AMAVNMSP về khu nội khoa (Trường
Y Oklahoma c̣n có hợp đồng với AMAVNMSP về Môn
Parasitology, Community Medicine/Preventive Medicine và Public Health). Vào mùa
xuân 1974, Bác sĩ Hammarsten sang thăm Việt Nam lần chót
và có lên Dalat thăm và ở tại nhà của BS Nguyễn Thị
Nhơn. Chuyến thăm này trở thành quan trọng cho Nhóm
" Mít Nội Khoa" (MNK) đang tu nghiệp tại
OK. Thật vậy, trước 1974, sự liên hệ giữa
ông Trưởng Khu Nội Khoa OK và nhóm MNK không được
thân mật lắm mặc dù các giáo chức, y sĩ thường
trú, sinh viên y khoa của OK rất thân thiện với Nhóm “MNK”.
Sau chuyến đi cuối cùng, BS Hammarsten trở thành khá
thân thiện, nói chuyện nhiều hơn và dự ăn những
bữa cơm Việt Nam do Chị Nhơn làm. Người
viết cảm thấy đây cũng là cái duyên cho y sĩ
Việt Nam Tỵ Nạn bởi v́ chính BS Hammarsten có công lao
lớn lập ra chương tŕnh huấn luyện thi chứng
chỉ ECFMG cho Y sĩ Tỵ Nạn Việt Nam (Vietnamese
Refugees Physicians) tại Mỹ vào năm 1976. (xin xem 2.)
b) Nhóm MNK hết ḷng tỏ ơn với AMA/USAID đă giúp kẻ
viết rất nhiều để chuyển thi hài của
anh LĨNH về Việt Nam an táng vào đầu tháng 4, 1975.
Tháng TƯ ĐEN 1975 không bao giờ quên được. Mất
nước mất bạn.
II/ CHƯƠNG TR̀NH HUẤN LUYỆN THI CHỨNG CHỈ
ECFMG CHO Y SĨ TỴ NẠN VIỆT NAM tại OK (5, 6)
Department of Health, Education, and Welfare Negotiated Contract November
20, 1975: PROPOSAL FOR Conducting Educational Commission for Foreign Medical
Graduates (ECFMG) Review Course for Refugees From Indochina (Hammarsten, JF,
Anh NT et al: An educational program for the Vietnamese emigre physicians.
Transactions Amer Clin and Clim Assoc 88:197-210, 1976) (6))
(Oklahoma State Medical Association journal September 1978 Vo.71. Page 343-350)
(7)
- Ngày 30 tháng 4, 1975, nhóm MNK (mít nội khoa) GNV (giảng nghiệm
viên) chỉ c̣n 3 người, Nguyễn Thị Nhơn và Trần
Quốc Toản đang làm Thường Trú Nội Khoa
năm thứ 2 tại Oklahoma City, nơi là trụ sở của
Trung Tâm Y khoa Đai Học Oklahoma (OUHSC: Oklahoma University
Health Sciences Center) và NTA đang làm việc cho Khu Nội Khoa
OUHSC và vẫn c̣n ăn lương $250.00 mỗi tháng cho
đến tháng 8, 1975. Nhân Viên của Immigration Department của
Chính Phủ Liên Bang gọi tụi này là STATELESS. ĐĂ ĐANG
ĐAU ĐỚN MẤT NƯỚC MÀ BỊ THÊM MỘT QUẢ
ĐẤM VÀO "MẶT" THỜI ĐÓ th́ không bao giờ
quên được. Sau này nhiều người Việt Nam
ḿnh cũng kể lại nhiều chuyện buồn và "bực
bội". Lúc đó, cả ba chúng tôi vẫn không có tin tức
ǵ về gia đ́nh cả.
- Vài tuần sau, được biết có chừng 7-8 đồng
nghiệp từ Việt Nam tới OK (Oklahoma) và BS Hammarsten
nhiệt tâm giao cho tôi nhiệm vụ học chung với mấy
đồng nghiệp có chức vụ quan trọng tại
Việt Nam trước 1975. Ông không nói thêm ǵ nữa ngoài trừ
cho tôi chức vụ Instructor in Medicine. Tôi cám ơn Ông và nói
không biết Anh Ngữ của tôi, nhất là slang Mỹ, có
chịu nổi không. Tôi làm hai chuyện: dạy y khoa lâm sàng
cho sinh viên y khoa / Thường Trú khu nội khoa và tổ chức
buổi học ôn chung với đồng nghiệp mới
sang.
- Lúc đó ḷng vẫn nhớ nhà và buồn v́ Tổ Quốc-Tự
Do-Dân Chủ không c̣n nữa. Đột nhiên vào khoảng
tháng 7, 1975, tôi được lệnh đi dự môt buổi
họp quan trọng có dính dáng tới y sĩ Việt Nam mới
sang Hoa Ky. Tóm tắt là: "Đại diện của ngành
y tế ở OK đă khởi xướng các nỗ lực
để có sự ủng hộ của Chính Phủ Liên
Bang Hoa Kỳ cho một chương tŕnh giúp y sĩ tỵ
nạn Việt Nam tại Hoa Kỳ chuẩn bị thi chứng
Chỉ ECFMG càng sớm càng tốt". Về sau mới biết
người đề xướng là GS Hammarsten và người
đứng ra tổ chức buổi họp này là ông David
Bickham, Giám Đốc điều hành của Bộ Y Tế/Giáo
Dục/Phúc Lợi, OK. BS Hammarsten cũng được sự
ủng hộ của Thượng Nghị Sĩ Dewey
Bartlett (US Senator of Oklahoma) và Bác sĩ Malcom Phelps, nguyên giám
đốc vùng của Volunteer Physicians for Việt Nam 1966-1967
và một công chức của Bộ Ngoại Giao Hoa Ky mà tôi
không rơ tên. Hôm đó c̣n có vài người với chức vụ
quan trong về Y Tế mà tôi không nhớ. Thượng Nghị
Sĩ Bartlett kết thúc buổi họp nói rằng
1) "Chương tŕnh luyện thi ECFMG" (cho dễ hiểu, dễ nhớ tuy tên của chương tŕnh thiệt là Refugee physicians of Indochina. (7) CÓ THỂ được Quốc Hội Hoa Kỳ cho $ 1,200,000.00
2), 7 trường y khoa tại Mỹ đă tỏ ư tham gia thi hành công việc đầy ư nghĩa này: University of Arkansas/ UC San Diego, CA / Loma Linda University, CA/ University of Miami, FL /University of Nebraska / University of Oklahoma College of Medicine/ OK và Hahnemann School of Medicine/ PA.
3) chương tŕnh kéo dài 4 tháng từ tháng 3 đến tháng 7-1976 dạy về Y Khoa và Anh Ngữ.
4) Kỳ thi ECFMG là gần cuối tháng 7-1976
5). H́nh như mỗi y sĩ sẽ
được $250.00 mỗi tháng.
- Sau hôm họp vào tháng 7, 1975, không có thêm tin tức về
chuyện luyện thi ECFMG của Chính phủ nữa. Đồng
nghiệp tới OK càng ngày càng đông, và người Việt
nói chung đến OK, Texas, Nebraska và California khá nhiều, tại
v́ trong thời điểm đó dân Việt Nam tị nạn
Cộng Sản được dàn xếp định cư
tạm thời tại Guam, Camp Pendeton (CA) và Fort Chaffee
(Arkansas) tuy cũng có những nơi định cư khác.
- Đột nhiên vào cuối tháng 11-1975 BS Hammarsten cho tôi biết
là
1) Quốc Hội Mỵ sẽ kư giấy cho tiền về Chương Tŕnh Huấn Luyện thi chứng chỉ ECFMG vào khoảng tuần đầu tháng 12-1975
2) Sẽ có một buổi họp ECFMG Preparatory Course Project Director Meeting vào ngày 4-5 /12/1975 tại Washington D.C.
3) Anh sẽ đại diện tôi dự buổi họp này. Vé máy bay, nơi ăn ở đă dàn xếp xong rồi.
4) Anh đừng lo. Nhưng NHỚ TỚI VĂN PH̉NG THƯỢNG NGHỊ SĨ DEWEY BARTLETT và cám ơn thật nhiều về sự giúp đỡ của ông trong việc XIN QUỐC HỘI MỸ cho tiền chương tŕnh luyện thi ECFMG mà chúng tôi đă khởi xướng tại Oklahoma.
Hôm đó v́ một lư do nào đó - chắc là ÔNG TRỜI ĐĂI KẺ KHÙ KHỜ như tôi - tôi không nhớ có lo lắng nhiều và thản nhiên về apartment đọc xấp giấy 34 trang nói về Hợp Đồng giữa HEALTH RESOURCES ADMINISTRATION của DHEW (Department of Health, Education, and Welfare) và The University of Oklahoma Health Sciences Center/Division of Medicine...
Tiện đây xin kể hai chuyện vui:
(a) Gặp Thượng Nghị Sĩ Dewey Bartlett của Oklahoma : ông nói liền : "Tôi bị bệnh nặng nhưng đă cố gắng làm xong môt việc quan trọng cho quư vị y sĩ. Anh không cần cám ơn tôi nhưng anh nên sang văn pḥng Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy cám ơn Ông ấy đă giúp tôi rất nhiều trong chuyện này." Tôi được d́u dắt tới văn pḥng TNS Kennedy. Tại bàn tiếp khách, có hai thanh niên da trắng tóc vàng, cao lớn đẹp trai, giáng điệu kiêu ngạo kiểu “cựu sinh viên Harvard” hỏi tôi muốn ǵ. Nhân viên của TNS Bartlett nói là ông Bartlett muốn BS Anh gặp TNS Kennedy. Một chàng trả lời liền. Chúng tôi biết rồi và xoay sang nói với tôi: "ông có năm phút với His Excellency." Tôi vào chào TNS và (lúc đó tôi chẳng biết nói ǵ) tôi nói "đồng nghiệp y sĩ và gia đ́nh xin cám ơn sự giúp đỡ của Your Excellency " Rồi đứng yên như một cục gỗ. Ông nói "TNS Bartlett và tôi rất mừng làm xong được chuyện quan trọng này. Đột nhiên thằng khù khờ như tôi được ÔNG TRỜI thúc nói liền "Your excellency, tôi bảo đảm với Ông là nhóm y sĩ chúng tôi sẽ đóng góp rất mạnh cho nền y tế của nước này." Trời ơi, găi đúng chỗ ngứa của Ông TNS, người bao giờ cũng muốn nước Mỹ có một hệ thống Y Tế UNIVERSAL HEALTH CARE FOR ALL AMERICANS. Ông thao thao bất tuyệt, giữ tôi thêm 20 phút trước khi tôi ra về. Ra tới cửa tôi lại gặp lại hai chàng "Giữ cửa văn pḥng" và ngay lúc đó ḿnh "ĐIẾC KHÔNG SỢ SÚNG" nên tôi nói liền với sự hiện diện của Kennedy đang đứng tại cửa : " Tôi chỉ nói có 4 phút 59 giây thôi đấy. "
(b) Ngày mùng 5 tháng 12, 1975 là ngày thứ Sáu. Sau buổi họp Project Director vào buổi chiều, BS Pratt, người mà tôi đă quen biết nhiều 1970-1971 tại Saigon mời chúng tôi đi ăn cơm tối tại nhà hàng LA NICOISE ở khu khét tiếng Georgetown của DC. Nhà hàng đầy nghẹt, ồn ào, chỉ lâu lâu nghe tiếng Maitre D' kêu tên khách vào bàn thôi. Tôi hỏi BS có đặt chỗ chưa. CHƯA. Tôi nghĩ TẾT mới tới lượt ḿnh. Tôi chỉ nhớ là sau khi Maitre D' kêu một tên th́ ông Pratt tiến tới bắt tay ông Maitre D đồng thời 3-4 người khách khách đi theo Maitre D' vào chỗ ngồi. 10 phút sau nghe tiếng Maitre D' kêu DOCTOR PRATT AND COMPANY. CHÚNG TÔI CÓ CHỖ NGỒI NGON LÀNH. Ḷng tuy buồn về thời thế nhưng "vui" được ăn ngon, ăn chùa. Trước khi về khách sạn, tôi ở lại thêm vài phút với BS Pratt và hỏi "Làm sao ông lấy được chỗ ngồi giỏi vậy?" Ông nói, giữa anh với tôi thôi nhé (just between you and me):" Khi tôi bắt tay Maitre D' lần đầu chúng tôi không biết nhau nhưng trong tay tôi có tờ $ 20. Hơn nũa phải nhớ là trên tờ $20 đó phải viết rơ tên của ḿnh nhé". Một lần nữa xác nhận câu MONEY TALKS.
Nhớ ngày an táng ông Pratt tại
Cali, quan tài phủ cờ MỸ, có bốn người Miền
Nam Việt Nam (không nhớ ngày tháng năm), Suzie (vợ ông
Pratt, cùng làm việc tại văn pḥng ông Pratt ở Saigon,
GS Trần Ngọc Ninh, GS Đào Hữu Anh và kẻ viết).
- Tóm tắt chương tŕnh luyện thi ECFMG :
a. 7 trường y Khoa Mỹ dược chia ra
thành 4 vùng :
VÙNG 1 HAHNEMANN tại Philadelphia , PA:
số ước đoán của DHEW 90 y sĩ .
Dr. Pratt: 80-85
VÙNG 2 UNIVERSITY OF MIAMI School of
Medicine: 88 versus 80
VÙNG 3 Medical schools of the University of
ARKANSAS (20 ), NEBRASKA: 30
OKLAHOMA (100) : Con số chính xác của OK là 110 y sĩ
VÙNG 4 UCSD California + Loma Linda
University : 191. Người viết không có con số rơ của
hai trường này nhưng theo anh Vũ Đ́nh Minh (người
y sĩ giúp cho Chương tŕnh ECFMG của UCSD. Anh Minh lúc
đó là nhân viên giảng huấn chuyên môn về bệnh phổi
UCSD School of Medicine)
b. Chương tŕnh học nhấn mạnh về
clinical medicine và Anh Ngữ từ tháng 3 tới tháng 6, 1976
c. Tiền trợ cấp mỗi tháng là $ 250 cho y
sĩ tham dự chương tŕnh.
d. Trưởng ban huấn luyện của 7
trường cho biết là:
- Kết quả kỳ thi sau 1
năm (ECFMG x2) về kiến thức y khoa rất tốt: 85-95%
đậu
- Kết quả thi Anh Ngữ là trở
ngại lớn nhất: không quá 40-70 %
- ECFMG cần điểm tốt của
cả hai phần.
e. Vài cảm nghĩ của người viết :
Làm sao người Việt di tản chúng ḿnh có thể quên
được 4/30/1975. Đất nước, gia
đ́nh, thân quyến, họ hàng, bạn bè, tương lai mịt
mờ, tha hương với 1 văn hóa khác, 1 ngôn ngữ
khác ... Những đồng nghiệp tuổi tác khác nhau
trong môt hoàn cảnh khó khăn của năm đầu tại
Mỹ nói chung, tại Oklahoma City nói riêng, đă đoàn kết,
cố gắng hết sức để đạt tới
một mục tiêu rơ rệt: trở lại ngành y.
III/ Chương tŕnh luyện
thi FLEX (FEDERAL LICENSING EXAMINATION) tại Oklahoma City 1976-1980.
-
ECFMG là một chứng chỉ cho những y sĩ KHÔNG phải
tốt nghiệp từ những trường y khoa tại
nước Mỹ, Gia Nă Dại (Canada) hay Puerto Rico (4 trường
y khoa tại Puerto Rico được LIAISON COMMITTEE ON MEDICAL
EDUCATION LCME của Mỹ accredited. PR là 1 Commonweath trên
đất của MỸ hơn 100 năm rồi. Người
viết không chắc sinh viên của 4 trường thuốc
có được coi như US graduates hay không). Lịch sử
của ECFMG vào thập niên đáng bàn luận trong những
giây phút TRÀ DƯ TỬU HẬU giữa những bạn thân
(thành lập 1956. Kỳ thi đầu tiên 1958). Những y
sĩ tốt nghiêp tại các trường khác có tên trên danh
sách của WHO (World Health Organization) lúc đầu được
gọi là FOREIGN MEDICAL GRADUATES. Hiện giờ "người
ta" hay dùng IMG, International Medical Graduates. Một IMG khi
đậu được chứng chỉ ECFMG được
những bệnh viện thực tập tại Mỹ hay
Canada coi như là ĐĂ CÓ BẰNG BÁC SĨ TƯƠNG
ĐƯƠNG với những người bác sĩ tốt
nghiệp từ những trường y khoa tại Mỹ
hay Canada
- Trái lại, lúc 1975, chứng chỉ FLEX (FEDERAL LICENSING
EXAMINATION) là bằng mà các tiểu bang Mỹ hay Canada dùng
để CHO PHÉP người y sĩ hành nghề.
- Tại Oklahoma, người viết, sau khi hoàn tất sứ
mạng ECFMG của chính phủ Liên Bang (Tháng 8, 1976) cảm
thấy phải cố gắng học chung thêm với những
đồng nghiệp muốn có FLEX. Vào cuối hè 1977, được
phép của Giáo Sư Trưởng Khu Nội Khoa mới, Dr.
Solomon Papper (BS Hammarsten dọn đi Boise Idaho VA Hospital (câu
chuyện thuộc loại Thâm Cung Bí Sử) - và xin
được môt chút tiền từ 1 ân nhân tại Arkansas
(ông này nói thẳng là ông không có ư định cho tiền
nhưng vợ ông nói phải giúp !), một lớp học
khoảng chừng 30 người học từng ngày tại
Bệnh Viện Cựu Quân Nhân trong 3 tháng. Kết qua rất
tốt. Ai cũng vui vẻ cả tuy rằng t́nh trạng
nước nhà vẫn c̣n gây rất nhiều lo lắng, buồn
phiền và t́nh trạng nhiều gia đ́nh người Việt
tại Mỹ vẫn chưa được ổn lắm.
NHƯNG 1 CHUYỆN VUI VẪN LÀ 1 CHUYỆN VUI, đem lại
hy vọng mới, ḷng tự tin cao. Thêm một chuyện
đáng kể tuy người viết không biết rơ ngày
tháng, năm (1976?) : Tại một nhà thờ công giáo của
Oklahoma City, một đồng nghiệp, có tiếng giỏi
guitar, đệm cho nữ danh ca KHÁNH LY hát. Tâm trạng của
mọi người chắc khá buồn, nhạc Việt Nam
tại Tha Hương, vô tổ quốc, tiếng hát bất
hủ của Khánh ly... Người viết xin cáo lỗi
không biết ai tổ chức buổi tŕnh diễn nhưng
kỷ niệm hôm đó nhớ đời. Từ 1978 đến
tháng 6, 1980, người viết bắt đầu sửa
soạn Tây Du. Chỉ ôn bài vở với vài đồng nghiệp
sang Mỹ trễ thôi. Một trong những người
đó rất xuất sắc về Y khoa. Thi đâu đậu
đó.
- Cũng nên nói thêm về FLEX. NBME, USMLE. Y sĩ tốt
nghiệp trường y khoa US và CANADA vào thời 1975 hay thi
National Board Exams thay v́ FLEX. Trái lại IMG phải lấy bằng
FLEX để hành nghề. Năm 1993, FLEX được
thay thế bằng USMLE (United States Medical Licensing Examination). Bằng
này áp dụng cho tất cả y sĩ, US/Canada hay IMG. Thống
nhất hóa kỳ thi. Ở đây xin kể chuyện vui
sướng của một vài đồng nghiệp đàn
anh mà người viết quen khá thân. Một vài cơ quan cần
có y sĩ điều trị như trong cơ sở tiểu
bang hay trung tâm y tế. Tiền lương khá tốt tuy
không so được với hành nghề tư. Có cơ
quan chỉ cần y sĩ có bằng FLEX thôi. Hai anh bạn
nhờ viết thư giới thiệu. Lúc đó Giáo Sư
Đào Hữu Anh đang làm việc tại Tennessee đă nhắn
người viết là KHI ĐỒNG NGHIỆP XIN GIẤY
CHỨNG NHẬN HAY GIẤY GIỚI THIỆU, CHÚNG M̀NH NÊN VÀ
PHẢI VIẾT LIỀN TRONG 48 GIỜ NHÉ. Sau 20 năm,
người viết nhận được điện thoại
của một đồng nghiệp thân nói rằng nay
đă về miền Nam California, hồi hưu rồi và
mong có ngày gặp lai. Trùng phùng vui sướng nói chuyện
không hết. Anh ấy cho biết mỗi tháng tiểu bang gửi
cho $7,500 tiền hồi hưu: "tôi không sợ mất tiền
anh ạ. TRỪ PHI TIỂU BANG ĐÓ BANKRUPT THÔI "
IV/ CHƯƠNG TR̀NH HỌC ÔN THI CHỨNG CHỈ ECFMG/FLEX
tại San Bernardino County Medical Center (SBCMC), San Bernardino CA 1980.
- Người viết đi thăm người Chị Cả
tại Hồng Kông năm 1978. V́ Chị ấy có đứa
con trai học giỏi, cho nên vài minh tinh điện ảnh
tại Hong Kong có con cái và muốn thế hệ trẻ của
họ ăn học với con trưởng của bà Chị.
Vị vậy mà Bà Chị quen được Người
Coi Bói có tiếng lúc đó và nhờ vậy kẻ viết
được cái "vinh dự" được Ông Thầy
Bói nổi tiếng coi bói. Ông nói anh phải đi hướng
Tây. Ông c̣n nói tôi có 1 con trai đang học tại Columbia
University New York. Đó là hướng Đông đó. Hiểu
chưa. V́ lư do nào tôi không rơ, năm 1979 tôi quyết định
bỏ ư định đi Duke University làm Trưởng Khu
Primary Care và t́m cơ hội qua Nam California, một tiểu
bang có nhiều dân Việt Nam và có tiếng đời sống
đắt đỏ tuy thời tiết th́ là Hạng Nhất
nước Mỹ. Cùng lúc, trong giới giáo dục y khoa
phong trào Primary Care trở thành quan trọng trong khi đó hệ
thống Y Tế có nhiều y sĩ chuyên môn quá. Tôi rất
hên được trường Y của Đại Học
UCLA nhận vào Ban Giảng Huấn. Tôi nói thẳng với
Ông Trưởng Khu Nội Khoa UCLA là tôi không đủ tiền
để ở vùng Westwood của Los Angeles đâu. Ông nói là
Hệ Thống Giáo Dục Y Khoa UCLA có một số UCLA-affiliated
Teaching Hospitals và cho tôi danh sách của những nhà
thương để chọn. Lư do tôi chọn SBCMC rất
đơn giản (1) Thăm SBCMC làm tôi nhớ tới những
bệnh nhân lầu 22 của Bệnh Viện Chợ Rẫy
(2) SBCMC là một nhà thương của Quận San Bernardino,
nhỏ hơn Chợ Rẫy nhiều nhưng có rất nhiều
khu và nhiều bệnh nhân thiếu thốn, với những
bệnh quan trọng cho Giáo Dục Y Khoa. (3) Tôi biết những
nhược diểm của chính ḿnh: Chưa bao giờ làm một
khảo cứu khoa học đáng kể/ chưa bao giờ
viết bài nào cho tập san y khoa tiếng tăm/ tiếng
Anh ḿnh cũng thường thôi. Phong trào Primary care lúc đó
chú trọng d́u dắt sinh viên y khoa/y sĩ thường trú
trở thành y sĩ lâm sàng săn sóc bệnh nhân. Thời
gian 1972-1980 tại Oklahoma cho phép tôi học được một
số kinh nghiệm dạy dỗ y khoa rất tốt cho
tôi, nâng lên ḷng tự tin của chính ḿnh phần nào. Thành thật
mà nói, lúc 1980 nếu không có THIÊN THỜI (hên/Ông Trời cho/
Phong trào Primary Care), ĐỊA LỢI và NHÂN H̉A, tôi sẽ
không dám nhảy vào medical teaching career.)
- Cuối mùa đông 1980, UCLA nhận tôi vào ban giảng huấn
và tôi chọn SBCMC làm nơi An Cư sự nghiệp.
- Tháng 6, 1980 tôi lập gia đ́nh với Chị Nguyễn
Thị Nhơn, và Nhơn lúc đó đă hoàn tất huấn
luyện về Nội Khoa và Chuyên Môn Tim. Chúng tôi dọn
sang thành phố Redlands của Quận San Bernardino, một
thành phố được coi như là residential city for
professionals, gần sát thành phố Loma Linda, nơi có Loma Linda
University và School of Medicine, nổi tiếng vể giải phẫu
tim cho con nít.
- Vào gần cuối hè, có một số đồng nghiệp
sang Mỹ từ những đảo di cư tại các
nước Đông Nam Á. Họ cần sự giúp đỡ
về thi cử ECFMG/FLEX. Lúc đó Nhơn và tôi mới đến
SBCMC/Redlands có hai tháng. Trách nghiệm dạy học không khó
khăn lắm. Lo sinh viên y khoa của chương tŕnh
UCLA-UC Riverside Biomedical Program cũng không mất nhiều th́
giờ. Chúng tôi lại mong xin Ông Trời giúp lần nữa:
Mở một lớp Học Ôn để luyện thi
ECFMG/FLEX cho khoảng 15-18 đồng nghiệp. Nhóm nhỏ
nhưng đoàn kết, học giỏi, có mục đích rơ
rệt, có bạn bè sang trước ủng hộ về
chuyện ăn ở, đời sống gia đ́nh và tinh
thần. Rất hên cho chúng tôi, UCLA ủng hộ mạnh mẽ,
cho mượn pḥng học và cho tôi muốn làm ǵ th́ làm miễn
là làm xong công việc dạy dỗ cho sinh viên và thường
trú. Ban Giám Đốc Nhà Thương và Nhóm Y sĩ trưởng
các khu bệnh lư của SBCMC cũng "để tôi
yên". Chương tŕnh không có bàn tới vấn đề
Anh Ngữ và đón tiếp y sĩ đồng nghiệp của
bất cứ trường y khoa nào của Miền Nam Việt
Nam trước 1975. Lư do thành bại của mọi
chương tŕnh tùy thuộc vào nhiều yếu tố, và
chúng tôi rất sung sướng cảm thấy sự tận
tâm cố gắng của quư bạn đồng nghiệp
tuy sang trễ nhưng đă thành công rực rỡ trong sự
cố gắng của họ khi làm việc tại các đảo
hay trong lúc học chung với nhau tại San Bernardino. Theo
thư để lại của Đại Tướng
Dwight David Eisenhower viết trước ngày đổ bộ
tại Normandie Pháp quốc, ông viết TRẬN ĐÁNH NÀY NẾU
THẮNG LÀ DO SỰ HY SINH, CỐ GẮNG CỦA TẤT CẢ
CÁC CHIỄN SĨ. NẾU THẤT BẠI TÔI SẼ LĂNH HẾT
TRÁCH NHIỆM (Câu dịch này của kẻ viết chắc
không được chính xác lắm nhưng đại ư là
như vậy)
V/ CHƯƠNG TR̀NH CHUẪN BỊ VÀO LÀM VIỆC TẠI
BỆNH VIỆN MỸ ("EXTERNSHIP" SBCMC 1989)
- Sau gần 9 năm làm việc tại SBCMC, chúng tôi rất
hên t́m được NHÂN H̉A tại SBCMC, liên hệ của
chúng tôi với Ban Giám Đốc Bệnh Viên và Nhóm y sĩ
Trưởng Khu Y Khoa rất ôn ḥa và tốt đẹp. Lúc
đó, chương tŕnh Thường Trú Y Khoa Gia Đ́nh khá
mạnh và tôi là Director of General Internal Medicine của Khu Nội
Khoa sau đó làm Phó Trưởng Khu. Nhân viên Ban Giảng Huấn
và mấy chục người thường trú Y Khoa Gia
Đ́nh đối đăi rất tốt và hay chấp nhận
những để nghị giáo dục của chúng tôi và ủng
hộ hết ḿnh
- Từ năm 1987 tới 1989, một số đồng
nghiệp cũ, nhất là những đồng nghiệp
qua trễ, cho biết là t́m chỗ thường trú khó quá, cạnh
tranh với các IMG khác khá cay đắng. Tôi vẫn tin rằng
Anh Ngữ, nói hay viết, đă là, vẫn là và sẽ c̣n là
một yếu tố quan trọng nhưng tế nhị.
Tôi đă học bài học này và không dám nêu ra nữa trong bất
cứ trường hợp nào. Tôi bàn với Giám Đốc
SBCMC, Trưởng của Nhóm Y Sĩ Trưởng khu, xin
cho phép tôi mở 1 chương tŕnh nhỏ gọi là EXTERNSHIP
cho phép những đồng nghiệp Việt Nam có ECFMG mà
chưa có chỗ làm Thường Trú.
Mỗi y sĩ sẽ theo đoàn Nội Trú-Thưởng Trú và bác sĩ Điều Trị (Attending Physician) của SBCMC với tư cách là FELLOW. FELLOW trong trường hơp này có nghĩa là "Ngó" để học về hoạt động trong Bệnh Viện và "Nghe" để học thêm Anh Ngữ. Ông Giám đốc SBCMC ủng hộ tôi nhưng cần thời giờ để giải quyết khía cạnh hành chánh của Externship. Ông ấy phải xin phép San Bernardino County Board of Supervisors trước. Sau đó, nếu được phép, sẽ phải làm giấy tờ cho những vị y sĩ - externs này trở thành NHÂN VIÊN CỦA SBCMC và sẽ được $ 1.00 (một dollar) tiền lương tượng trưng. Như vậy th́ SBCMC có thể bảo vệ cả nhân viên nhà thương và các y sĩ Externs trong trường hợp có chuyện không hay xẩy ra (bệnh tật, bị thương...) Sau hơn ba tháng, chương tŕnh được thành lập, chúng tôi giúp được 4 đồng nghiệp vào làm thường trú y khoa gia đ́nh tại SBCMC và vài người khác xin được chỗ làm tại tiểu bang New York và h́nh như Michigan.
Thời gian trôi nhanh. Ngày 30 tháng 4 2025 đánh dấu nửa thế kỷ của dân tị nạn Miền Nam Việt Nam bỏ nước ra đi v́ TỰ DO. Trong số đó có chúng ta, những người thuộc ngành y. Sự kiên tŕ dù chỉ với một số kiến thức y khoa hạn chế, kèm theo với tính tự trọng, ḷng yêu nước và bản chất yêu nghề nghiệp, đă giúp chúng ta quyết chí chọn trở lại ngành y. Chúng ta đă Tu Thân, Tề Gia, Phục vụ Cộng Đồng (thay v́ Trị Quốc) và nhất là góp phần giúp săn sóc sức khỏe đồng bào trong những trại tỵ nạn. Đa số Y sĩ Mỹ gốc Việt đă thành công tốt đẹp trên hệ thống y khoa tại Hoa Kỳ, góp phần phục vụ bệnh nhân bất kể màu da, tài chánh hay khuynh hướng chính trị.
Ngành Y khoa đang trải qua môt biến chuyển lớn do ảnh hưởng của Trí tuệ Nhân Tạo. Tuy nhiên chắc chắn y sĩ chúng ta, nhất là thế hệ con cháu chúng ta, sẽ tiếp tục săn sóc bệnh nhân với Competence, Compassion, Communication.
LTS: xin cáo lỗi cùng tác giả và độc giả, v́ quá tải nên không thể đính kèm
các phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo