Trong những năm gần cuối cuộc chiến, v́ t́nh h́nh quân sự mỗi lúc mỗi nặng nề, nhất là sau biến cố Mậu Thân, rất nhiều đơn vị trong Quân Đội VNCH, nhất là các chiến sĩ kề cận với chiến tuyến, tại các tiền đồn xa xôi, đều được lệnh cắm trại, nhiều khi 100%. Trong nỗi nhớ gia đ́nh, nhớ người yêu, người lính t́m niềm vui qua những bản nhạc, như Đồn Vắng Chiều Xuân, Phiên Gác Đêm Xuân, Xuân Này Con Không Về... Bài viết "Xuân Này Tôi (Vẫn) Không Về" nói lên tâm sự của những người di tản, những người con xa xứ với những cái Tết tha hương, và đồng thời miêu tả nỗi niềm thê lương, hương vị đắng cay trong mùa Xuân của bao nhiêu người đang trôi nổi trong ḍng đời vạn biến ngay tại quê hương, dù đất nước đă được thống nhất trong bạo lực.

Tác giả bài viết, anh Lê B́nh Phương, đă từng sống qua những năm tao loạn tại Việt Nam trước khi anh định cư tại Pháp. Tuy anh Phương là một kỹ sư tại Pháp, nhưng với sức viết mạnh, sư hiểu biết sâu rộng về sự đời và tấm ḷng nhân bản, anh Phương đă chiếm được sự cảm mến của BBT Tập San Y Sĩ Canada và các bài viết của anh thường xuyên xuất hiện trong Tập San Y Sĩ Canada và được mọi người mến mộ,

BBT Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại thân ái chào anh Lê B́nh Phương đến với Mục 99 Độ. Và mong sẽ c̣n nhận tiếp tục các bài viết của anh. 

Trước thềm năm mới, BBT YKH Huế mến chúc anh cùng gia đ́nh một mùa Xuân Ất Tỵ trọn vẹn, hạnh phúc và sức khỏe.

 

Xuân này tôi (vẫn) chưa về !

LÊ B̀NH PHƯƠNG

 

    Theo công ước Genève năm 1951, nếu danh từ “tị nạn’’ đồng nghĩa với “tị nạn chính trị’’ th́, với người Việt Nam, “tị nạn’’, có nhiều tên gọi: “di cư-54’’, “di-tản-75’’, “hồi hương’’ (quốc tịch Pháp sang Pháp), “vượt-biên’’, “tị nạn chính trị (nhân viên ngoại giao, sinh viên du học VNCH vv xin tị nạn nơi quốc gia đang sống, sau khi chính quyền VNCH sụp đổ / cán bộ, đảng viên CS xin tị nạn khi đang đi “công vụ’’ ), “đoàn tụ’’, “H.O’’,”bất đồng chính kiến’’ (những người bị tù v́ “tranh đấu cho nhân quyền’’ ở Việt Nam được các cơ quan Nhân Quyền Thế Giới can thiệp để ra đi ) vv. Ngoài ra, c̣n có nhiều sinh viên du học, sau khi ra trường, rán kiếm được việc làm ở xứ người (đa số là con cháu VNCH), để được gia hạn “ở lại’’ rồi, theo thời gian, được vào quốc tịch và bảo lănh bố mẹ sang (như một đứa con nuôi của một ông anh tôi ) hay như các chương tŕnh “đầu tư định cư’’ Mỹ (vốn

: 500.000 $ US, có thể lên 900.000 $ US với chính quyền Trump), Canada (vốn: 600.000 CAN), Châu Âu (vốn: 300.000 EUR) vv mà đa số là thành phần “tư bản đỏ’’ ! Trái với một số Pháp kiều, nhất là những người hưu trí, trong một phóng sự tôi xem cách đây đă lâu, v́ thu nhập thấp, đă bay sang Cam Bốt, Thái Lan sinh sống ! Đổi đời !

    Ai Cộng Sản, ai Tư Bản, trong trần ai, ai đă thắng ai ?

    Thế “bảng đỏ’’, thế “sao vàng’’, gặp thời thế, thế thời cứ(ơp) thế ?! (**)

 

………………….

 

    Tuy không c̣n được giảng dạy trong học đường từ năm 1948, nhưng thế hệ miền Nam chúng ta (54-75), có ai mà không nhớ bài “Chỗ quê hương đẹp hơn cả’’ trong bộ “Quốc Văn Giáo Khoa Thư’’:

    “Một người đi du lịch đă nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: “Ông đi du sơn du thuỷ, thế tất đă trông thấy nhiều cảnh đẹp. Vậy ông cho ở đâu là thú hơn cả?” Người du lịch đáp rằng: “Cảnh đẹp mắt tôi trông thấy đă nhiều, nhưng không đâu làm cho tôi cảm động, vui thú bằng lúc trở về chốn quê hương, trông thấy cái hang rào, cái tường đất cũ kỹ của nhà cha mẹ tôi. Từ cái bụi tre ở xó vườn, cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái ǵ cũng gợi ra cho tôi những mối cảm t́nh chứa chan, kể không sao xiết được.”.

    Không nơi nào đẹp bằng quê hương ! Nếu không v́ một lư do bất khả kháng (chính trị, kinh tế, bổn phận, nghề nghiệp,… t́nh yêu vv ) th́ không một ai, trên địa cầu này, muốn sống giữa xứ người xa lạ, phải “nhập gia tùy tục’’ với một nền văn hóa khác biệt, phải nói một thứ tiếng không phải là “tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi’’ ! Nên, theo tôi, không chỉ người Việt Nam “tị nạn’’ mới là người “tị nạn Cộng sản’’, mà cả những “di dân VN’’, nhất là người miền Bắc. Riêng những người “tập kết 54’’, họ không phải là người

“tị nạn chính trị’’, họ chỉ đi theo tiếng gọi của “Bác’’ và Đảng thôi !

    So với đồng bào đă sống ở hải ngoại trước 75, “người-di-tản- buồn’’, là những người một sớm, một chiều “bừng con mắt dậy thấy ḿnh …lưu vong’’ ! Trước “đó’’ vài tuần, bao nhiêu người đă nghĩ là ḿnh phải bỏ nước, bỏ gia đ́nh để “ra nước ngoài’’ (ngay cả vị nguyên thủ quốc gia) ?! Cho đến khi có lệnh “bàn giao’’ !

    Thoát được rồi, “sống’’ lại rồi. Nhưng là một cuộc sống với nước mắt nhiều hơn nụ cười, lo buồn nhiều hơn hưng phấn. Trong 140 ngàn người di tản “tháng 4 đen’’, bao nhiêu gia đ́nh được đi trọn ? Tôi nghĩ là không nhiều. Nhất là những gia đ́nh có con là quân nhân hay đang trong tuổi quân dịch. Cũng có không ít những người đi một ḿnh: những người độc thân làm việc với các cơ quan Hoa Kỳ, những thanh thiếu niên được cha mẹ gởi gấm “người quen’’ hay một số quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa: những người có-điều-kiện, đă di tản giờ chót v́ không chấp nhận buông sung trước kẻ thù ! Như một số quân nhân các binh chủng Không, Hải quân hay, như đa số những người lính của Lữ Đoàn 1 Dù, khi được lệnh rút khỏi Bà Rịa, kéo về Vũng Tàu, tưởng sẽ xuống Quân Đoàn 4 tiếp tục chiến đấu, nào ngờ, ngày 30/4, phải hộc máu, nuốt lệ, ra khơi ở G̣ Công !

    Bây giờ th́ khác. Chứ trên 40 năm trước (giữa thập niên 70s-80s), những người tị nạn Cộng Sản, không chỉ là những người-di-tản-buồn, vượt-biên buồn mà c̣n là những người “ăn’’ Tết buồn ! Cùng một số phận nghiệt ngă, phải cắn răng rời bỏ nơi chôn nhau, cắt rún nhưng, nếu người-di-cư-buồn (54) chỉ lui về miền Nam, tiếp tục ăn Tết với đồng bào ngay trên đất nước, th́ người di tản (75), vượt biên (sau 75) phải chọn kiếp lưu vong, ăn Tết buồn hiu trên xứ người xa lạ ! Như cái Tết đầu tiên của những người-di-tản-buồn ở L.A. (Mỹ): tết Bính Th́n 1976 !
    Dưới bài thơ “Đêm cuối năm uống rượu một ḿnh’’ ông Thanh được viết cuối năm Quư Sửu 1973 (22/1/1974), ở Sài G̣n. Khi viết bài thơ buồn bă đó, ông Thanh Nam đâu biết rằng, chỉ 24 tháng sau, cuối năm Ất Măo (30/1/1976) , ở Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người(Thanh) Nam đă: “Rượu  buồn ta rót cho ta / Bạn gần không đến bạn xa chưa về / Rót nghiêng năm tháng vào ly / Mắt nheo bóng xế tay che tuổi buồn / Rót đầy băng giá cô đơn / Rót thao thức nhớ rót hờn giận quên / Thôi đừng! thôi hăy lặng yên / Ngủ ngoan đi nhé cơn điên thuở nào … Nửa đời lăn lóc ṿng xe / Ră rời xích chuyển ê chề bánh xoay / Ngó lui hun hút đêm dài / Những xuân đă lánh những đời đă xa / Rót thêm chén nữa mời ta / Cái say như muốn chuyển qua cái sầu …’’ ! Khi “bạn gần’’ đă trở thành “bạn rất xa’’ mấy ngàn cây số, khi “bạn xa’’ đă bị ngục tù không biết bao giờ về. Th́ xuân phải lánh, như đời phải xa !!!
    Trong một bài viết trên báo mạng “Người Việt’’ (8-2-2024), kư giả Đoan Trang cho biết: Năm 1976, đang làm cho Cơ Quan Từ Thiện Công Giáo Hoa Kỳ (USCC), nhạc sĩ Nam Lộc đă xin ban lănh đạo bảo trợ 5000 $ US để mua vé máy bay mời một số nghệ sĩ tị nạn (Hoàng Thi Thơ, Hoàng Thi Thi, Lê Quỳnh, Kiều Chinh, Khánh Ly, Bùi Thiện, Vũ Huyến , Mai Lệ Huyền vv ) về L.A. , cùng một số anh chi em ở đây, hát Tết, cái Tết đầu tiên của người di tản, cho bà con vui. Ông kể “… Chương tŕnh văn nghệ c̣n có tiết mục hài của ông Lữ Liên, Ngọc Bích, Vũ Huyến ban AVT; nghệ sĩ Kiều Chinh đóng kịch “Kinh Chiều”; Thúy Nga vợ nghệ sĩ Hoàng Thi Thơ th́ múa nón,… Rồi có Tam ca Mây Trắng, độc tấu dương cầm Hoàng Thi Thi, đơn ca Bùi Thiện, vũ dân tộc, hoạt cảnh “Đưa em qua cánh đồng vàng”, và các tiết mục khác có sự góp mặt của ca sĩ như Mai Lệ Huyền, Kim Oanh, Kim Quy, Kim Thùy, Trần Hoàng Ngữ, Quỳnh Nam chỉ ghi 1974, không có ngày, tháng. Nhưng tôi nghĩ, có lẽ, nó Như, Văn Khâm,… và tất nhiên không thể thiếu giọng ca Khánh Ly... “. Có mặt trong số hơn 1000 người xem văn nghệ hôm đó, ông John Trần nhớ lại: “Năm đó tôi 16 tuổi, cũng lớn rồi, nên vẫn có thể nhớ măi cái Tết đầu tiên trong cuộc đời không diễn ra trên quê hương ḿnh. Tết ở Việt Nam vui lắm, thích lắm, nhưng đêm hôm ấy, tôi thấy ai cũng khóc, các cô chú gặp nhau cứ hỏi thăm được
vài câu lại ôm nhau khóc, cứ nh́n nhau là khóc, khiến tôi cũng không cầm được nước mắt. Thấm thoát gần 50 năm, thời gian trôi đi nhanh thật!”
    Về báo Tết của người-di-tản-buồn, theo ông Lê xuân Khoa, tờ báo Tết-tị-nạn đầu tiên ở Mỹ (trên thế giới ?) là tờ Lửa Việt Xuân Bính Th́n (tháng 1/1976), Nguyễn Ngọc Bích chủ trương, Viên Linh thực hiện.

(Nguồn: Lê văn Khoa)

    Về nội dung tờ báo, ông Viên Linh ghi lại một số cảm nghĩ của những văn thi sĩ đóng góp (1)
    “… Nghiêm Xuân Hồng: “Riêng tôi thầm nghĩ không thấy cao hứng ǵ về việc thay đổi quốc tịch. Có lẽ sống làm một người vô cố hương th́ vui hơn.” (Xuân thực, xuân mộng, tr.7) / Mặc Đỗ: “Trong thời gian ở trại tạm trú (Fort Chaffee), thấy ngày dài là một nỗi khổ tâm lớn…” (Chiếc áo len màu rêu, tr.22) / Viên Linh: “Tỉnh ra ta ở quê người / Hiên nay vắng bạn, ḷng thời thiếu ai / Cửu Long ôi! Chín sông dài / Lao xao Đất gọi, hoài hoài Nước kêu…” (Cố hương, tr.14) / Kim Y Phạm Lệ Oanh: “Dời đất Thục ḷng quê man mác / Hận sầu này dằng dặc khôn quên / Ngày xuân đằng đẵng như niên / Dặm trường thui thủi như quyên gọi hồn!” (Hồn Vong Quốc, dịch lại để kỷ niệm ngày dời xứ, và để mở đầu cho một nếp sống mới nơi quê hương thứ hai, tr 31) / Huyền Vũ: “Tự do hay là chết! Bao nhiêu người yêu nước đă gục ngă v́ lư tưởng thiêng liêng ấy th́ v́ tự do mà phải buồn day dứt, xa gia đ́nh, xa quê hương, cũng chưa phải là quá đáng.” (Hướng nhớ người đi, tr. 34)/ Phạm Duy: “Cái khác biệt nhất là ở Việt Nam ngày nào cũng là ngày Tết đối với tôi c̣n ở Hoa Kỳ th́ chắc Tết năm nay không phải là cái Tết.” (Trả lời phỏng vấn, tr. 41) / Nguyễn Ngọc Bích: “Tập báo này đến trong tay quí bạn có thể với một cái nhói trong tim. Tết tha hương đầu của số lớn chúng ta, làm sao khỏi chút ngậm ngùi, nhung nhớ.. ? (Xuân tha hương, tr. 1).….’’
    Cái Tết-đau-buồn đầu tiên của người ra đi rất khác với cái Tết buồn-đau đầu tiên của người “ở lại’’. Bởi họ, người ở lại, là những người phải hứng chịu liên tiếp những chia-ly! Chia-ly này chưa vơi sầu thương / Chia ly kia đă đợi bên đường ! / Khi đất nước tàn cơn binh lửa / Là bắt đầu tiếng khóc thê lương ! “Di-tản-tháng-4’’ tiếp nối với “ngục-tù-tháng-6’’! Tết Bính-Th́n 76 đă không mấy vui ǵ với người miền Nam, lại càng không có ǵ vui với những tù-nhân- cải-tạo, từ cấp Úy đến cấp Tướng. “Huynh đệ chi binh’’. Là “huynh đệ chi tù’’ !!!
    Theo Đại Úy Đào hiếu Thảo (nguyên Chánh văn pḥng Tham mưu trưởng Không quân), nhờ là cái Tết đầu tiên, “Cách Mạng’’ “giải phóng’’ sĩ quan miền Nam vào .. tù, nên cán ngố Tù trưởng “Thành Ông Năm/Hốc Môn’’ khoan .. hồng, cho tù “Ngụy’’ được nhận quà thân nhân. Chẳng những thế, lại c̣n được phép làm bích báo (!!?), thi đấu bóng chuyền, ăn uống được “cải-thiện’’ với “vài lát heo-nái, thịt gà băm nhuyễn trộn vào nồi canh rau muống’’, trong ba ngày Xuân! Cũng may là lúc đó c̣n “mới’’, tài sản miền anh em được “bồi dưỡng’’ tí ti, để có sức “tháng giêng là tháng ăn .. khoai / tháng hai đẵn gỗ, cuốc cày tháng ba’’ ! Dù buồn thúi ruột,
anh em cũng chịu khó t́m kiếm, thu nhặt tre, mây, giấy báo, bao Nam để lại c̣n nhiều, heo, gà vv chưa bị “giải phóng’’ ra Bắc, nên xi-măng, cạc-tông, bột màu, giẻ rách vv làm trống chầu, đầu lân, mặt Địa vv “vui là vui gượng kẻo mà’’, để năm mới khỏi ’’xui’’ (?!) như cuối năm … này . Chả là trước Tết một tuần, Tù trưởng ra lệnh cho 950 tù nhân phải mang hết đồ đạc ra sân để cán bộ “khám xét tận t́nh’’ trước khi chuyển trại. Kết quả là chẳng có chuyển giao cái con …. khỉ khô ǵ cả ! Mà chỉ là màn “cướp ngày công khai’’ (chữ của anh ĐHThảo). “Cán bộ cộng sản tạo dịp thu nhặt “vô tư”, họ vơ vét tất cả những ǵ họ ưa thích, đút túi lấy làm của riêng như đồng hồ đeo tay, kiếng mát, giây nịt da, bật lửa chẳng hạn…. “. Anh Thảo viết tiếp: “Trong lá thơ gởi về thăm gia đ́nh, tôi viết cho mẹ: Má ơi, Tết này anh em được làm “mứt cúc”. Thơ này không bị xé bỏ nên khi đọc nội dung trên, người nhà biết rơ thân phận người tù, Tết cũng đi múc c...”. (3)
    So với “mấy thằng con’’, mấy “Đại bàng’’ cũng chẳng khá ǵ hơn! Trong “Kư sự trong tù” (trang 102), Đại tá Phạm bá Hoa ( nguyên Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận ) kể lại: “… Đêm cuối cùng của năm 1975, anh Trần Tín (Đại Tá Quân Nhạc) đă hát bài “Gói Quà Đầu Tiên” do chính anh vừa sáng tác. Lời ca chỉ là mớ ngôn ngữ thường dùng trong cuộcsống chớ không văn chương ǵ sâu xa, nhưng đă gây xúc động mạnh trong hầu hết anh em ngồi nghe, v́ h́nh tượng gia đ́nh đang ngày đêm hướng về ḿnh trong một t́nh cảm thân thương vô hạn! Anh vừa hát vừa khóc! Chúng tôi vừa nghe vừa khóc! Vào những ngày cuối năm âm lịch, tức gần
Tết Nguyên Đán đầu năm 1976, họ cho phép gia đ́nh gởi bưu phẩm cho chúng tôi trong trại. Vẫn cách làm như lần trước, họ cho xe về Bưu Điện Sài G̣n nhận và chở lên trại. Hầu hết là bánh mứt, trà, cà phê, nghĩa là những thứ gói ghém “hương vị ngày Xuân”. Đêm Giao Thừa, một bàn thờ Tổ Quốc thu nhỏ thiết lập trong một góc được che giấu khá kín đáo. Một nhóm bạn không nhiều lắm v́ cần tránh ồn ào dễ bị lính cộng sản ŕnh rập bắt được th́ nguy. Ngay lúc bên ngoài có tiếng pháo đầu Xuân, là lúc chúng tôi lần lượt đứng trước bàn thờ cầu nguyện. Trong giờ phút đầu tiên của Năm Mới, tôi nghĩ các bạn tôi cũng như tôi, trong “cái chung” là giây phút nghiêm trang đó chúng tôi cảm nhận được sự xúc động từ nơi sâu thẳm của tâm hồn đến rớm lệ! C̣n “cái riêng” của mỗi người thể hiện qua nét đăm chiêu nhăn nhúm, cho dẫu là đang bắt tay “Chúc Mừng Năm Mới” với nhau cũng vậy. Ngày thường trong buồn ngoài vui, nhưng ngày Tết th́ buồn cả trong ngoài. Từng nhóm chúng tôi quây quần bên “gô trà”, bên “lon càphê” với bánh mứt bày trên “nắp bàn” là mảnh giấy ngay trên chỗ nằm. Câu chuyện chỉ là xoay quanh nội dung “Tết buồn và số phận long đong !..’’ !

    Anh Lính miền Nam ơi !
    Từ lúc năm-tư (54) đă cực rồi
    Vận nước: hùm-thiêng dù thất thế
    Vẫn điềm nhiên trước lũ đười-ươi ! (*)

 

    Với người tây phương, nếu Giáng Sinh là ngày đoàn tụ gia đ́nh, đêm 31/12 là đêm vui bè bạn th́ với người “đông phương’’ (Hàn Nhật Việt Tàu) ngày gia đ́nh đoàn tụ là ngày cuối năm âm lịch. Ở Việt Nam, dù ở đâu xa, người ta cũng cố gắng thu xếp về để ăn Tết với gia đ́nh. Không được 3 ngày th́, ít nhất, cũng phải đêm giao thừa, để ngồi lại chung mâm, để cùng nhau thắp hương, vái lạy, rước “các cụ’’ về ăn Tết với con cháu ! Nói một cách khác, Tết không chỉ là những ngày vui mà c̣n là ngày lễ thiêng liêng của người đông phương chúng ta. Bây giờ, tôi vẫn nhớ như in những giây phút hân hoan của anh tôi và tôi (học ở Sài G̣n) lúc ngồi trên xích lô máy, trực chỉ “xa cảng miền Tây’’, về “nhà’’ ăn Tết. Chúng tôi về trước nhất, các anh chị lớn (đă có gia đ́nh) về sau (sang mồng 2) ! Mới “25,26’’ thôi mà khắp đường xá, phố phường,từ Sài G̣n, qua Chợ Lớn, vào Phú Lâm, nh́n đâu cũng thấy Tết ! “Tiếc’’ là chỉ vài năm sau, khi Mẹ tôi hưu trí, th́ ông bà dọn hẳn nhà lên ở với các con ! Khi đă hết “đường về quê, xa lắc lê thê “, th́ ḷng thanh niên cũng hết nỗi rộn ràng “về quê ăn Tết’’ !
    Thú thật, lúc c̣n bên nhà, dù đă vào đại học rồi, nhớn rồi, nhưng tôi c̣n ’’ khờ khạo lắm, ngu ngơ lắm/ chỉ biết … ăn (Tết) thôi, chả biết ǵ’’, cứ tưởng ngày đầu xuân (lập xuân) là Mồng Một Tết !. Nhưng không phải chỉ ḿnh tôi “bé cái lầm’’ mà, ít nhất, cũng có hai ông Tân An và Hoài Linh, đồng tác giả ca khúc “Đầu xuân lính chúc “: ’Ngày đầu xuân chúc non nước thanh b́nh / Ngày mồng hai chúc cho lứa đôi ḿnh / Và mồng ba anh chúc cho mắt em xinh …’’, mà không “ngày đầu năm chúc non nước thanh b́nh”?

    Trong dương lịch, ngày đầu xuân 21/3 c̣n được gọi là ngày (đúng hơn là “điểm’’) xuân phân, ngày đầu thu (thu phân) 23/9 ; đầu hạ (hạ chí) 21/6 (ngày dài nhất/Châu Âu), và đầu đông (đông chí) 22/12 (ngày ngắn nhất /Châu Âu). Theo wikipedia “.. Do vậy ngày bắt đầu tiết Lập xuân được tính theo dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch (Bắc bán cầu) và 7 hoặc 8 tháng 8 (Nam bán cầu) tùy theo từng năm .. “. Vâng, tuy chỉ có hai mùa mưa, nắng, tuy không phải là ngày đầu xuân (lập xuân) nhưng người miền Nam vẫn cứ xem ngày đầu năm (Tết) là ngày đầu xuân. Không chỉ v́ ngày này thường hay rơi vào những ngày Tết, mà c̣n v́ mùa xuân là mùa ấm áp, tươi vui nhất trong 4 mùa, là mùa khơi mạch sống, cây cối đâm chồi nở lộc, đánh thức những hân hoan, lay dậy những phấn chấn trong ḷng người vv Bắt đầu một năm mới bằng những niềm xuân rộn ră, những sắc xuân rạng ngời, có sớm hay muộn đôi ngày, nào ai chấp nhất ! “Ngày đầu xuân, chúc năm mới an lành ! “
    Từ 1954, trong khi nhiều người hoan hỉ đón giao thừa, cúng tổ tiên với gia đ́nh th́ đă có rất nhiều người LÍNH đang cầm súng, chong mắt canh giặc để đồng bào có thể “ăn’’ Tết an lành, vui vẻ,với gia đ́nh. Như người Lính Nguyễn văn Đông chẳng hạn. Tôi tự hỏi: ngoài những người thân của ông, có phút giây nào người ta nghĩ đến những người Lính như ông, đang “đón giao thừa một phiên gác đêm xuân’’ ở một nơi đèo heo hút gió, nh́n “xác hoa tàn rơi trên báng súng ngỡ rằng pháo tung bay’’, mà chùng ḷng thương cảm, xót xa ?!
    1968, trước Tết Mậu Thân, khi nghe Hà Nội loan báo hưu chiến ăn Tết, quân lực VNCH đă cho phép 50% quân số được đi phép ăn tết một đôi ngày. Nên, lúc Bắc Việt tấn công (giao thừa, mồng 1), chỉ khoảng phân nửa số quân nhân là có mặt tại đơn vị.
    Người miền Nam đă suy bụng ta ra bụng người, tin vào sự tôn trọng hưu chiến của Hà Nội! Và chúng ta đă trả một cái giá rất đắt. Người Huế đă trả một giá rất đắt ! 44 tỉnh thành miền Nam đă bị CS tấn công, ngay đêm giao thừa. Riêng ở Huế, Hà Nội tung 7500 quân + đặc công tàn phá cố đô ! Có lẽ người Cộng Sản muốn phá nát cái thành phố biểu tượng cho chế độ phong kiến, cũng như muốn trả thù đám “quan lại ác ôn’’ (như đă giết Thượng Thư Phạm Quỳnh, Tổng Đốc Ngô Đ́nh Khôi vv năm 1945) bằng cách giết thêm mấy ngàn “con cháu’’ họ?! Khi bị tấn công khuya mồng 2, Chuẩn tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Ngô Quang Trưởng, đă mặc áo giáp, nón sắt, đích thân chỉ huy quân số c̣n hiện diện (có nhiêu, chơi nhiêu) ở đồn Mang Cá, bản doanh Sư Đoàn, chống trả. Nếu không có viện
binh cấp tốc, quyết cứu “người bạn cùng khóa 4 Thủ Đức’’ bằng mọi giá, của Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 1 Nhảy Dù: Trung Tá Lê quang Lưỡng, th́ chắc tướng Trưởng đă bị giải ra Bắc !
    Rút cái kinh nghiệm “đẫm máu’’ Mậu Thân,”đừng tin những ǵ CS nói. Mà hăy nh́n kỹ những ǵ CS làm’’, những cái Tết sau đó, quân lực VNCH luôn đặt trong t́nh trạng “túc trực ứng chiến’’ ! Số quân nhân được đi phép Tết, cũng như số giờ phép, bị giới hạn lại rất nhiều ( có “24 giờ để t́m người thương trong người thương’’ th́ đă hết “4 giờ đi, dài thêm 4 giờ về “rồi (Trúc Phương)! Đó là lư do ra đời của một số ca khúc “ăn Tết ở đơn vị’’ của người lính VNCH: 100% (100 em ơi chiều nay lại cấm trại rồi …/ Ngọc Sơn &Tuấn Hải ), Cảm ơn ( “Cám ơn ai / đă đem luyến thương nồng thắm
đến với Lính / Ngân Khánh ) vv Và, nhất là, “Xuân này con không về’’ (1/1969 ) của nhóm Trịnh Lâm Ngân (Trần Trịnh- Lâm Đệ-Nhật Ngân)

 


(nguồn: internet ) https://www.youtube.com/watch?v=Univx-__gbo

    Những thế hệ lớn lên sau 75, nhất là ở miền Bắc, nghe “Xuân này con không về’’, chỉ thấy đó là một ca khúc hay, là “lá thư Xuân’’ của người lính xa nhà gởi Mẹ, xin lỗi không về ăn Tết với gia đ́nh năm nay, nghe “Xuân này con không về’’ th́ nghĩ không xuân này sẽ là xuân sau . Nhưng, với các thế hệ đă “sống’’ ở thời điểm 68- 69 nghe “Xuân này’’ (Kỷ Dậu 69) là nghĩ ngay đến “Xuân trước’’: Mậu Thân 68. V́ xuân “trước’’ như thế nên “xuân này con không về’’. Mà, nếu có được phép, con cũng không (đành) về .Không chỉ v́ “bao lứa trai cùng chào xuân chιến trường / không lẽ riêng ḿnh êm ấm’’, mà c̣n v́ mồ chiến hữu c̣n chưa xanh cỏ, mà v́ bàn tay
vẫn c̣n cái cảm giác lạnh của tấm thẻ bài khi giật nó trên ngực người đồng đội vừa ngă xuống vv !
    Ca khúc “Xuân này con không về’’, tưởng đâu, sẽ mất ư nghĩa sau ngày chiến tranh kết thúc 6 năm sau đó (69-75). Nhưng KHÔNG ! Ngay sau khi tân Tổng Thống “bàn giao’’, th́ đă có trên 140 ngàn người “xuân tới con không về’’ ! Rồi, trong gần 50 năm (1975-2024), sống với chính quyền mới, đă có bao nhiêu triệu người bỏ quê, mấy trăm ngàn người không bao giờ về ăn Tết với gia đ́nh ?! Đó là những người đă chết trong lao tù cải tạo, gục ngă trên vùng kinh tế mới, những người đă vùi thây dưới ḷng biển cả (khoảng 400.000 !), đă vượt biên giới, kháng chiến, chết trên đất nước Miên, Lào, biên giới Tàu Việt. Đó cũng là những người tị nạn vẫn cương quyết không “xin’’ ai để về ăn Tết dưới lá cờ sao, là những thiếu nữ “lấy chồng xứ lạ’’, đă nhảy lầu tự vận ở Đài Loan, đă bị gia đ́nh chồng đánh chết ở Đại Hàn, và ,5 năm trước đây (2019) đó là 39 thanh niên, thiếu nữ đă chết ngộp “lạnh lẽo’’ trong các xe đông lạnh khi trốn chui từ Pháp sang Anh vv !
    Có quốc gia nào có con số người dân: sinh ở quê hương nhưng
chết ở xứ người (không phân biệt khuynh hướng chính trị) cao như
Việt Nam ?!


    “.. Ôi! cố hương xa nữa địa cầu
    Ngh́n trùng kỷ niệm vẫn theo nhau
    Đâu đây trong khói trầm thơm ngát
    Hiện rơ trời xuân một thuở nào ..’’

    Những câu thơ Thanh Nam, viết trong đêm giao thừa Quư Hợi 1983, sau 8 năm lưu vong, 3 ngàn đêm sầu tủi, không chỉ là tâm sự của riêng ông. Mà c̣n là của mấy triệu đứa con “xa quê hương nhớ mẹ hiền’’. Khởi từ Tháng Tư Đen tàn độc !!!
    Ở một tuổi nào đó, chỉ một khoảng ngắn thời gian. Là người ta, nhất là người Việt Nam (quá khứ lẫn hiện tại), mất đi nhiều thứ lắm ! Nói ǵ đến 50 năm đáng sợ ?! “Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa’’ ?
    50 năm trước, hát “Hoài cảm’’ chỉ nghe buồn buồn, chưa có ư niệm ǵ. Nhưng, từ xa xứ, tháng tiếp tháng, năm theo năm, tuổi thêm tuổi, mỗi lần nghe, là mỗi lần xúc động! Bây giờ, không hát nổi (!), nghe Sĩ Phú thôi. Để ngậm ngùi thương cảm ! Thương cho người, thương cho ḿnh, thương cho những cố nhân đă ra “nhân thiên cổ’’. Bên đó, bên này !
    “Cố nhân xa ơi, có ai về ..đón Xuân’’ ? Nói đến Tết là nói đến sum họp gia đ́nh, cúng, rước ông bà. Khi đă không c̣n ai để ngồi lại chung mâm. Khi đă không c̣n bàn thờ để thắp hương, cúng vái.
Khi quê đă không c̣n tên xưa. Khi cảnh đă không c̣n cảnh cũ. Th́ “đón xuân này tôi khóc xuân xưa’’ ! Ḷng đă không Tết rồi, thêm cái cảm giác “tha hương’’ ngay trên xứ ḿnh nên tôi nghĩ, Tết ở quê nhà, nếu có “nhộn nhịp’’ (?) “rộn ràng’’ (?) bao nhiêu đi nữa, người “viễn xứ’’ quay về, cũng không cách ǵ “ăn’’ nổi !
    Giao thừa Ất Sửu 1985, có ông bố trẻ viết bài thơ gởi đứa con gái 4 …tháng tuổi, với 4 câu kết:
    “Mai mốt dắt con về đó ở
    Ḿnh ăn Tết lớn ở quê ḿnh
    Mốt mai, bố nói ư như thật
    Dấu hỏi nơi ḷng lại lớn thêm?”

    40 năm ! Ngày lại ngày, Tết theo Tết, dấu hỏi năm xưa gần bít hết đường về ! Nhưng ông bố trẻ, dù đă không c̣n .. trẻ, vẫn chửa xuân nào quay về “ăn’’ Tết-quê-hương !

BP