CHUYỆN NHỮNG CON N̉NG NỌC HAI CHÂN
BS. Lê Bá Vận
Ban biên tập YKHHN xin giới thiệu
bài viết mới đầu xuân của BS. Lê Bá Vận,
nguyên Khoa Trưởng Đại Học Y Khoa Huế. Nếu
các anh chị em c̣n nhớ trên Đặc San Online 2009, "Chuyện những con ṇng
nọc giử đuôi" đă được
độc giả hoan nghênh, tán thưởng và thích thú, th́
bài viết sau đây "Chuyện
những con ṇng nọc hai chân" không kém phần thú
vị, dí dỏm, và sâu sắc. Người đọc
sẽ lạc vào thế giới đầy huyền
thoại, ḥa cùng văn hóa dân tộc cổ truyền.
Phảng phất trong bài là những châm biếm khéo léo, dưới
ng̣i bút sắc bén của một giáo sư đại
học từng cầm dao mổ, từng đứng trên
giảng đường y khoa để lại cho thế
hệ sau những kiến thức và kinh nghiệm trong y
đạo và y đời.
Bài viết có bốn phần, sau đây
là phần một, các phần kia sẽ tiếp tục
đưa lên sau. Cầu mong Thầy năm mới nhiều
sức khỏe, để có thể sáng tác, ghi lại
những kinh nghiệm sống, và để hậu sinh
biết rỏ chính xác hơn về lịch sử cận
đại Việt Nam.
BBT
“Động
khỉ Thủy Liêm, ‘Hầu Đại Vương’ tróc
quái,
Hang chồn
Pắc Bó, ‘Hồ Đấu Tố’
trảm dân”.
Phần 1 : Trê Cóc Hoàng Sa.
Phần 2 : Con Hồ cháu Bác.
Phần 3 : Con Hồng cháu Lạc.
Phần 4 : Thiên ngoại hữu
thiên.
*****
PHẦN 1. Trê Cóc Hoàng Sa “Cóc
chúa sáu chân”
*Trê Cóc tranh
hùng.
“Vơ
lâm chí tông,
Thiềm
thừ thần công,
Hiệu
lệnh thiên hạ,
Mạc cảm
bất ṭng?
‘Mác-Lê’ bất
xuất,
Thùy dữ
tranh phong?”
Trê cậy có “Mác-Lê” bảo điển,
độc kinh chí tà. Cóc có Hàm mô công tổ truyền ṇi giống
cóc, chí mănh, hai bên đều là cao thủ giang hồ. Chuyện
xưa kể Cóc hiệu lệnh thiên hạ, kéo quân lên thiên
đ́nh dùng Hàm mô công (cũng gọi Cáp mô công) đánh bại
Trời, do lỗi gây hạn hán kéo dài, được phong là
“Cậu Ông Trời” : “con cóc
là cậu ông trời, hễ ai đánh nó th́ trời đánh
cho”, cũng như khỉ Tôn Ngộ Không náo loạn thiên
đ́nh, đánh ngang sức Trời, được phong “Tề
Thiên Đại Thánh”, hoặc Hồ
Đấu Tố múa ‘gậy vườn hoang’ hạ giới,
dùng “búa ngoặc liềm” đập
sọ cứa cổ, giết dân lành như ngóe,
được tôn vinh “con chồn
già chí minh” của dân tộc, thương yêu dân??, tốt
với dân??, nghe như chuyện tiếu lâm cười bể
bụng.
Diễn tích : hàm mô, cáp mô, thiềm
thừ đều là con cóc;
thiềm thừ là tiếng văn hoa, xưa có ‘thiềm
thừ bạt độc dược cao’ là thuốc dán con
cóc rút độc của nhà thuốc Vơ văn Vân(?) Trê là cá nước ngọt, đầu
dẹt bằng, thân đuôi dẹt bên, có 4 đôi râu dài (vểnh râu trê), có một bộ
phận đặc biệt gọi là hoa khế mọc từ
ṿm mang có khả năng giúp cá hít thở khí oxy do đó cá có
thể sống lâu trên cạn, lao động trong nước
đục, chui rúc trong bùn lầy tối tăm môi trường
khắc nghiệt thiếu dưỡng khí. Ăn tạp :
côn trùng, cá nhỏ…Có thể xem cá trê nguyên thủy là thành phần
vô sản chân chính; có con chỉ lớn hơn ngón tay, sống
cực khổ thích hợp cho sự tiếp thu Mác-Lê Tà Kinh,
qua đó trở nên chuyên chính vơ sản và hiện nay có
những bác Trê rất lớn, nặng trên 7 kg, dài 1.4 m ở
một hồ cá tại Pleiku, Việt Nam; nhiều bác nặng
trên 100 kg ở lắm nơi trên thế giới. Kỷ lục
bác nặng nhất là 293 kg do một người Thái câu
được trên sông Mê Kông năm 2005 (theo Google, mục
‘cá trê’). Tôn Ngộ Không là chúa khỉ động Thủy
Liêm, Hoa Quả Sơn, Đông bộ Thần châu; Hồ Đấu Tố là Cốc
chủ hang chồn Pắc Bó, nằm vắt ngang biên giới
Trung-Việt, Nam bộ Thần châu, chánh tà đối lập,
bản chất khác biệt. Là hai con vật tinh khôn nhất,
khỉ (hầu) hay bắt chước, tinh nghịch phá
phách, đại náo thiên cung; cáo, chồn (hồ) đa trá, hồ
giả hổ uy, giả nhân giả nghĩa, gian hiểm
mưu kế hại nhân.
“Ăn
ốc nói ṃ, ăn măng nói mọc, ăn c̣ nói bay”, bàn
chuyện này dây mơ rễ má liên đới chuyện khác:
nhân Trê sang Cóc, nhân Cậu ông Trời qua Đại ThánhTề
Thiên, nhân động khỉ nghĩ đến hang chồn”. Lại nữa trong nhân gian vẫn
cảnh giác “ nuôi ong tay áo, giữ
cáo trong nhà, rước khỉ ḍm nhà, ấp rắn (xà) vào
ngực”.
“Có tích mới dịch nên tuồng”,
sự tích Hoàng Sa Trê Cóc được kể lại vừa
văn chương vừa b́nh dân trong tập truyện
thơ “Truyện Trê Cóc” cổ
xưa. Đây là một truyện thơ ngụ ngôn Việt
Nam, thơ chữ nôm của một tác giả khuyết
danh, không rơ có từ thời nào.
“Nhớ xưa Trê Cóc đôi nhà. V́ t́nh nên phải sinh ra oán thù”…
Truyện dài gồm 398 câu thơ
lục bát có xen mấy tờ đơn kiện và trát
đ̣i ngắn bằng văn xuôi. Chuyện kể đại
khái như sau : Cóc xuống ao đẻ trứng, trứng nở
thành ṇng nọc, Trê đi ngang trông thấy cho rằng ṇi giống
ḿnh, lùa trọn về nuôi. Cóc ra ao thăm con, thấy mất,
t́m kiếm phát hiện, đ̣i Trê trả con. Trê từ chối,
mắng nhiếc. Cóc kiện lên quan. Trê một mặt lo
lót, một mặt lư sự ṇng nọc giống ḿnh và Cóc th́
ở hang trên khô. Quan cho nha lại đi khám nghiệm th́ quả
đúng như lời Trê nói. Cóc bị giam. Vợ Cóc chạy
chọt t́m người giúp, gặp Nhái bèn khuyên cứ chờ
đợi đến khi ṇng nọc rụng đuôi th́ sẽ
thành cóc nhảy lên bờ theo mẹ về nhà. Đúng
như vậy, Trê chịu nhận lỗi phải chịu
phạt biệt xứ.
Ngoài giá trị văn
chương nghệ thuật, các ư kiến về truyện
Trê Cóc như sau:
1) ngụ ngôn: chỉ trích
thói tranh hơi tức khí, gây kiện tụng, tệ hại
xui nguyên giục bị, đút lót quan lại tham nhũng
(Dương quảng Hàm, Việt văn thi tuyển).
2) luân thường đạo
lư: thuận lẽ trời, không thể làm trái thiên nhiên,
ṇng nọc th́ thành cóc.
3) thời sự: theo danh sĩ
Bùi Huy Bích th́ tác giả truyện Trê Cóc là một gia khách nhà
An Sinh Vương Trần Liễu, chứng kiến việc
‘cướp vợ đoạt con’ (Thái sư Trần Thủ
Độ ép Trần Liễu nhường vợ, đang có
thai cho em ruột là vua Trần Thái Tông) mà nẩy hứng viết
truyện này. Tuy có nhiều trùng khớp nhưng vẫn là
phỏng đoán, ăn ốc nói ṃ.
4) lịch sử giữ nước:
Cóc tượng trưng cho bà mẹ
Việt Nam. Trê là các thế lực thù địch, là ông láng
giềng đô hộ ta cả ngàn năm, có lập
chương tŕnh đồng hóa dân ta. Tuy nhiên trong quá tŕnh lịch
sử “Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư”, ta chưa bị đồng
hóa, diệt tộc, mà tất cả ṇng nọc vẫn hóa
thành cóc theo lẽ thiên nhiên, trở về với tổ quốc.
Trê thất bại cuốn cờ về xứ.
5) lịch sử thời đại.
Trê thành công nhờ được
sự tiếp tay của lũ cóc 5 chân, “kẻ nội thù”.
Ṇng nọc Hoàng Sa,Trường
Sa là 2 quần đảo của mẹ Cóc Việt Nam nhởn
nhơ bơi lội tự do ở biển đông. Trê Trung
Quốc tự cho biển đông là ao nhà, lưỡi ḅ của
họ, chiếm đoạt cả; sự đă rồi, biết
chừng nào ṇng nọc Hoàng Sa, Trường Sa được
trở về với Mẹ VN?
6)viễn ảnh diệt vong.
Trong truyện thơ Trê Cóc, Trê
thua kiện, kết cuộc này mọi người đều
thấy rơ v́ Trê tham lam mù quáng, bất chấp luật ao hồ
sông nước, bắt giữ lũ ṇng nọc mà nhất
định theo luật tự nhiên sẽ thành cóc.
Biết vậy nhưng trên thực
tế “xưa nay nhân định
thắng thiên cũng nhiều”, diễn biến khác hẳn:
Trê ngoan cố, t́m cách giữ lũ ṇng nọc và thành công. Sự
việc như sau: một số cóc đă tiết lộ bảo
mật của giống ṇi, chỉ bảo cho Trê bí quyết
làm cho ṇng nọc suốt đời giữ đuôi (Lê bá Vận
“Chuyện những con ṇng nọc giữ đuôi”, ykhoahuehaingoai.com).
Trê làm theo, thắng kiện, được quyền giữ
bầy ṇng nọc.
Số cóc này đang là đệ
tử của Trê; Trê có Mác-Lê tà kinh với những chiêu thức
quái dị: “Mác-Lê bạch cốt trảo”, “Đồ Long
đao phanh kê” (Búa đập thủng sọ, Liềm phạt
đứt cổ), “Thước sào cưu chiếm”, “Thỏ
dinh Hồ đoạt”, “Chỉ lộc vi mă”, “Cả vú lấp
miệng”, “chỉ đông thoại tây”, “Yểm nhơn nhĩ
mục”, “quan môn tróc tặng”… và lá huyết kỳ “Búa Liềm” (thần sét, thần
chết) kèm ‘Sao Vàng’ (trong cḥm 6 sao), c̣ mồi tiên phong soi
đường dẫn mối, vơ lâm chí hung, gấp bội
cờ đầu lâu hải tặc, gặp là hết sống.
“Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ,
Đối mặt
“Búa Liềm” mới khóc van”.
Tuy nhiên học Mác-Lê mức độ
thành tựu tùy thuộc sự sẵn sàng từ bỏ
ư nghĩa hẹp ḥi về quốc gia, dân tộc giống
ṇi nếu những điều này nghịch với
tinh thần quốc tế vô sản và làm giảm sự
trung thành tuyệt đối với Đảng của Tổ
Sư Mác-Lê. Học kinh Mác-Lê là chấp nhận bán linh hồn
cho tà giáo. Bù lại, thủ đắc những bảo bối
và chiêu số vơ thuật tối thượng:
“Búa bổ sọ, Liềm
cắt cổ bạn,
Mác sả
vai, Lê thọc vào ḿnh.
Giết người
chôn sống thời quốc loạn,
Đầu trộm đuôi cướp giữa thái b́nh”.
Lục lâm tứ bảo: ‘búa liềm
mác lê’ và quái chiêu ‘giết người chôn sống , đầu
trộm đuôi cướp’ thích hợp cho hành nghề thảo
khấu thổ phỉ, chóng giàu không vốn, lại c̣n
“ăn trên ngồi trốc, hưởng lộc truyền tử
lưu tôn”.
Họ hàng nhà cóc mỗi con đều
có kiến thức về Hàm mô công thiên bẩm v́ trời
sinh chúng giỏi nhảy bật ra trước; sau đó nhờ
Âu Dương Phong, chủ nhân Bạch Đà Sơn bên Tây Vực
quan sát cóc nhảy, nghiên cứu, hệ thống hóa các động
tác, viết khẩu quyết, tạo ra một pho vơ công tối
thượng và chỉ điểm lại cho lũ cóc, v́
chúng xương cốt thích hợp nhất. Pho Vơ công Hàm mô
tuy triển thi cục mịch xấu xí nhưng vô cùng
cương mănh phá thành sạt núi và đó là một vơ công
chính phái, chính yếu là để tự vệ lúc bức
thiết bằng cách phản công mănh liệt. Chỉ một
số rất ít cóc đủ tư chất và hỏa hầu
luyện thành công Hàm mô công đến nơi đến chốn.
Đại đa số cóc biết sơ sài một vài chiêu
thức nhập môn và bí kíp th́ do Âu Dương Phong trao các
lănh đạo cóc giữ.
Trong xă hội cóc có một vài con
sinh ra mang dị tật bẩm sinh, dư thừa chân. Chân
thứ 5 trông tưởng đuôi chưa rụng. Ḷng mặc
cảm v́ dị tật khiến lũ cóc 5 chân sinh dạ hiểm
ác, quyết đảo ngược t́nh thế, chứng tỏ
dư chân là Trời ban thiên chức lănh đạo quang vinh
thần thánh. Chúng xuất ngoại tầm sư học nghệ
“ma đưa lối quỉ dẫn
đường”, được Trê thu nhận làm đệ
tử và thề nhất tâm trung thành với Trê Mác-Lê.
Chuyện cóc 5 chân là vẫn xảy
trong thiên nhiên, tuy không nhiều. Một loại kư sinh trùng dẹp, tên
Riberoria trematodes đào sâu vào phần sau của ṇng nọc,
vô h́nh chung sắp đặt lại các tế bào của mầm
chân khiến một đôi khi cóc có thêm những chân dư thừa
(Google, mục ‘Toad’). Ngược lại nếu mấu chân
sau vừa lú bị một ấu trùng chuồn chuồn
ăn mất th́ cóc sẽ chỉ có 3 chân.
Trong số cóc 5 chân lại có
độc nhất một tên 6 chân, trông như có 4 chân 2
đuôi, là Cóc chúa lănh tụ. Có tật có tài, tên này th́ vô cùng
mánh lới, giảo hoạt, được Trê sư phụ
tin cậy truyền dạy toàn bộ Mác-Lê tà kinh, thành tựu
vượt bực. Thành tài cóc chúa 6 chân được
sư phụ phong “Hộ Pháp” bản giáo, sứ giả miền
Đông Nam. Nó luôn thay tên đổi họ, mạo nhận
“ái quốc ái quần, chí minh”. “Nói
gần nói xa chẳng qua nói thật” nó tên “Hồ chí
Minh”.
**Cóc 6 chân Hồ chí Minh.
“Bác Hồ chí Minh,
(Bác cóc sáu chân)
Bác học
Lê Nin,
Thờ
Xít Ta Lin,
Theo
Mao Tiên sinh,
Bác giết
dân lành,
Bác bán
nước ḿnh,
Bác là
quang vinh?
Hay Bác súc sinh?
Người ta viết vô số
về y, khen cũng nhiều mà chê cũng lắm. Song một
điều cơ bản là mọi người đều
công nhận Hồ chí Minh là một
con cáo già thủ đoạn tàn nhẫn gấp trăm
ngàn lần thời thực dân Pháp đô hộ ta mà những
người nay lớn tuổi vẫn c̣n nhớ rơ. Thử
so sánh th́ điều này giống hệt “Trại tù học
tập cải tạo” của Cọng sản sau 1975 khủng
khiếp ghê rợn gấp trăm ngàn lần “Trại tù
Côn Đảo” của thực dân Pháp giam giữ các nhà cách mạng
Việt Nam trước 1945 (LBV, Chuyện những con ṇng nọc
giữ đuôi). Trại trả thù của Cọng Sản
là mang tính hận thù, thấp
kém, thiển cận, thể hiện liên tục trừng
phạt hành hạ tinh thần, thể xác, chà đạp
nhân phẩm, danh dự trại viên ngụy là những
đồng bào của họ, trong khi ngục tù Pháp chỉ
là để cầm chân tù nhân sau khi đă có bản án
đày ra Côn Đảo .
Các tài liệu rồi rào viết
về các hoạt động của Hồ chí Minh (1890-1969)
từ khi sinh đến lúc chết, giúp ta hiểu rơ lư do y
biết bao năm long đong nước ngoài “trên đường
cứu nước??” lại biến thành “trên đường
bán nước”.
Các phê phán dông dài về cuộc
đời của y ta có thể t́m đọc nhiều
nơi, hà tất phải nhắc nhở lại tại
đây. Chỉ là có những điều cơ bản dựa
trên diễn tiến chính xác giúp vạch rơ con người của
y. Chúng ta hăy cùng khách quan xem xét các sự kiện:
a- Cụ Nguyễn Sinh
Sắc thân sinh Hồ chí Minh. Cụ Sắc cùng quê và bạn
với Phan Bội Châu (Nam Đàn, Nghệ An). Cụ đỗ
Phó Bảng năm 1901 đồng khóa với Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng. Cụ Sắc nhậm chức Thừa Biện bộ
Lễ tại Huế từ tháng 5/1906 và được bổ
Tri huyện B́nh Khê thuộc tỉnh B́nh Định, hè
năm 1909. Đầu năm 1910 trong một vụ án xử
một nhân vật có thế lực ở địa
phương (tên Tạ Đức Quang) nhưng chẳng may
tội nhân bị thiệt mạng v́ phạt đánh
đ̣n, cụ Nguyễn Sinh Sắc bị triệu hồi về
Huế để xét xử rồi bị băi chức từ
tháng 8/1910.
Nhận xét: Cụ Nguyễn
Sinh Sắc thi đỗ đại khoa, ra làm quan là một
điều tốt thôi. Về vụ án Tạ Đ́nh Quang tất
có những uẩn khúc, t́nh tiết. Nhưng giam giữ rồi
đánh chết người khiến ta liên tưởng
đến những vụ Công An Nhân Dân CHXHCN Việt Nam
đánh dân đến chết tại đồn Công An. Cụ
Nguyễn Sinh Sắc tuy xuất thân khoa bảng, nhưng
tánh t́nh không nhân ái, coi rẻ mạng người. “Cha nào con nấy” Hồ Chí Minh
sau này tàn ác giết dân như ngóe, có thể hiểu do mang
‘gien’ giết người trong ḍng máu. C̣n nữa, cụ Nguyễn
Sinh Sắc bị triệu hồi về kinh để xét xử
tội lạm quyền, bị băi chức. Luật lệ
phong kiến thời xưa xem ra nghiêm minh “pháp bất vị thân”. Ngày nay CAND đánh chết
người tại đồn CA th́ được mọi
cấp Lănh đạo Đảng bao che hết ḿnh “đồng bệnh tương
lân, đồng ác tương trợ” quyền lợi gắn
nhau “môi hở răng lạnh”,
và đổ lỗi tù nhân chết do bệnh tật thiên
nhiên, bẩm sinh có Bác sĩ chứng nhận. Tuy nhiên nhiều
nạn nhân rất trẻ, cường tráng trước
đó. Pháp luật Cọng Sản c̣n kém xa công lư thời
phong kiến vua chúa lạc hậu. Người dân bị
oan ức rất nhiều, sống với Cọng sản.
Nếu tiếp tục kêu ca th́ lại bị CS chụp mũ
kết tội phần tử ngoan cố, phản cách mạng,
phá rối trật tự, vu khống cán bộ, âm mưu lật
đổ Chính quyền nhân dân??… tù mọt gông, lâm sự sẽ
biết, qua cầu mới hay.
b- Từ Sinh Côn đến Tất
Thành. Cụ Nguyễn Sinh Sắc
đặt tên con là Nguyễn Sinh Côn tức là Hồ chí Minh
sau này. Côn lớn lên học chữ Hán với một người
bạn của cụ Sắc và khi Côn lên mười th́ cụ
Sắc sắp đi thi Hội, đặt thêm một tên mới
cho con là Nguyễn Tất Thành (ngụ ư thi cử công danh của
cha và con họ Nguyễn sau này tất thành?). Khi cụ Sắc
vào Huế làm quan th́ Côn đi theo, vào học trường tiểu
học Đông Ba rồi Quốc Học từ tháng 7/1907
dưới tên Nguyễn Sinh Côn (Côn 17 tuổi). Trước
đó Tất Thành từ chối xuất dương dù có
tên trong danh sách du học sinh đi Nhật (6/1906) của cụ
Phan Bội Châu.
Tháng 4/1908 trong phong trào kháng thuế
xin xâu, dân chúng từ các làng tại Thừa Thiên kéo nhau lên Huế
tụ tập trước ṭa Khâm Sứ. Lúc đoàn biểu
t́nh đi ngang trường Quốc Học, một số học
sinh trong đó có tṛ Côn gia nhập và đi làm thông ngôn cho dân
chống thuế. Tṛ Côn bị đuổi ra khỏi trường
từ tháng 5/1908.
Theo cha vào B́nh Định, Côn
được cha gửi tá túc tại nhà một người
bạn ở Qui Nhơn (tỉnh lỵ B́nh Định)
để học thêm tiếng Pháp và sửa soạn thi làm
giáo viên tiểu học dưới tên Nguyễn Sinh Cung.
Nhưng giới chức tại Qui Nhơn biết
được tung tích của Tất Thành mà không cho phép thi.
Tất Thành được giới
thiệu với Trương gia Mộ ở B́nh Thuận,
tháng 9/1910 và với tên Nguyễn văn Ba bắt đầu
đi dạy quốc ngữ và hán tự cho học tṛ lớp
nh́ tại trường tư thục Dục Thành, Phan Thiết.
Tháng 2/1911 Trương gia Mộ
và các bạn đưa Văn Ba vào Sài g̣n, thu xếp nơi
ăn ở rồi móc nối một công nhân tên Mai làm việc
trên tàu ‘Latouche Tréville’ giới thiệu, ngày 2/6/1911 Văn Ba
được thu nhận làm phụ bếp trên tàu này, của
hăng ‘Les Chargeurs Réunis’ (Tôi có đi tàu của hăng này nhưng
40 năm sau, Sài g̣n-Hải Pḥng hết 2 ngày. Hồi đó có
2 hăng tàu thủy lớn: Les Chargeurs Réunis và Messageries
Maritimes). Ba hôm sau, ngày 5/6/1911 tàu rời bến Sài g̣n và đến
cảng Marseille, Pháp, hơn tháng sau.
Nhận xét: 1- Tất
Thành là tên hay nhưng trong ư của Cụ Nguyễn Sinh Sắc
là cầu mong tất thành về thi cử, công danh. Các tên
Sinh Côn và Sinh Cung tuy phù hợp với Hồ chí Minh nhưng
mang ư nghĩa xấu: sinh côn đồ và phải bị thiến
hoạn. “Vơ lâm xưng hùng. Dẫn
đao tự cung” , xưng hùng vơ lâm, phải cầm
đao tự thiến. Đó là điều bắt buộc
để luyện Tịch Tà Kiếm Pháp, tránh tẩu hỏa
nhập ma nhỡ ḷng dục bộc phát. ‘Cung’ có các nghĩa
cung cấp, cung kính, cung kiếm, cung điện v.v…cung là
cung điện lại có nghĩa thứ hai là thiến hoạn.
Cung h́nh là cực h́nh thiến dái.
2-Nguyễn Sinh Côn vào học
trường Quốc Học là một điều tốt,
cụ Nguyễn Sinh Sắc đang làm quan tại Huế.
3- Tṛ Côn gia nhập vào đám biểu
t́nh đi ngang trường Quốc Học có thể v́ ham
vui, v́ chủ quan hoặc do ḷng yêu nước, tinh thần
cách mạng. Tuy nhiên trước đó Côn đă từ chối
xuất ngoại; Côn không phải đầu sỏ đám học
sinh và Côn cũng không bị mật thám Pháp bắt giữ.
Tuy nhiên sau vụ biểu t́nh nếu Côn dám bỏ ngang tất
cả và t́m cách thoát ly ra quốc ngoại th́ có thể nghĩ
y có quyết tâm chống đối sự đô hộ của
Pháp; nhưng y đă không làm vậy.
4-Nguyễn Sinh Cung cố xin thi
làm giáo viên tiểu học ở Qui Nhơn. Nếu thành công
th́ cuộc đời y đă ổn định. Không
được cho thi, cha th́ bị băi chức, bít đường
tiến thân, y bị dồn đến bước đường
cùng; “cùng tắc biến” rốt
cuộc y đành chấp nhận được đưa
ra nước ngoài, hi vọng “biến
tắc thông”.
5-Nguyễn văn Ba với
tư thế công nhân tàu hăng Pháp, rời Sài g̣n an toàn, nhanh
chóng. Các người ái quốc khác xuất dương phải
lén lút băng đèo vượt suối hoặc trốn
chui trốn nhủi dưới hầm tàu chịu đói chịu
khát nguy hiểm, vất vả trăm bề chẳng khác ngụy
vượt biên.
c- Từ Tất Thành
đến Ái Quốc. Đến
Pháp, Tất Thành lên Paris, thảo lá đơn gởi Tổng
Thống Pháp và bộ trưởng thuộc địa ngày
15/9/1911 xin vào học nội trú tại trường Thuộc
địa (École coloniale). Không được nhận vào
trường này, Tất Thành lại theo tàu đi đây
đi đó kể cả đến New York, Mỹ và lưu
lại cả năm. Ngày 15/12/1912 Tất Thành gửi thư
cho Khâm Sứ Huế nhờ chuyển tiền Thành gởi về
cho thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc, và ngỏ ư xin
chính quyền thuộc địa phục chức hoặc
t́m việc cho cha.
Trong Thế chiến I (1914-18) Tất
Thành sống ở Luân Đôn, làm nhiều việc kể cả
phụ bếp trong khách sạn và tham gia hoạt động
của hội Liên hiệp công nhân hải ngoại, một
tổ chức chống thực dân do người Hoa và Ấn
thành lập.
Cuối năm 1917 Phan Chu Trinh và
Phan văn Tường được Pháp trả lại tự
do, lôi kéo Tất Thành về lại Paris để tham gia hoạt
động của hội ‘Người Việt yêu nước’.
vừa thành lập. Hai ông để Tất Thành đại
diện hội giao thiệp với Pháp. Tất Thành lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc từ 1919, và là đảng viên
đảng Xă Hội Pháp.
Tháng 10/1922 D.D.Manuilsky đại diện
đảng Cọng Sản Nga từ Moscow sang Paris tham dự
Đại hội kỳ 2 đảng Cọng Sản Pháp,
khuyến dụ Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội
nghị Quốc tế nông dân vào năm 1923. Nguyễn Ái Quốc
bí mật sang Nga vào tháng 7/1923 để được huấn
luyện trở thành học tṛ trung thành của V. Lenin rong sự
nghiệp đấu tranh giai cấp và chiến tranh giải
phóng của phong trào Cọng Sản Quốc tế (Comintern).
Nhận xét: 1-Chân ướt
chân ráo đến đất Pháp, Tất Thành đă làm
đơn xin học trường thuộc địa. Máu
làm công chức với Pháp vẫn c̣n nguyên, cũng như lúc
Sinh Cung xin thi làm giáo viên tiểu học ở Qui Nhơn
năm trước, biết “tri
túc hà thời túc” ấy là hạnh phúc. Nếu Tất
Thành được trường này nhận học th́
đời y đổi khác. Do thất chí y càng quậy.
2-Tất Thành gửi tiền về
giúp cha là điều đáng quí; nhưng xin chính quyền thuộc
địa phục chức cho cha chứng tỏ Thành c̣n
lưu luyến 2 chữ công
danh trong nước. Không hiểu điều này có do cụ
Sắc gợi ư một lúc nào đó không, “tá đề phát huy” mượn chuyện này bàn
sang chuyện khác? Giả sử cụ Nguyễn Sinh Sắc
được phục chức th́ 2 cha con sẽ mang ơn
Nhà nước bảo hộ rất nhiều và khuyển mă
cúc cung tận tụy.
3-Thời gian Tất Thành ở Luân
đôn nhằm lúc thế chiến I, mọi sinh hoạt
chính trị tất giới hạn và Anh quốc không phải
là nước đô hộ ta. Lúc về lại Pháp, Tất
Thành sinh hoạt với đảng Xă hội Pháp, song có vẻ
các ư kiến chính trị của y c̣n dùng dằng dao động
v́ y chưa t́m được minh chủ để
nương thân; y đối với đảng Cọng sản
Pháp lúc thiện cảm lúc chống đối mạnh, tùy
gió xoay chiều. Điều này cũng là chuyện b́nh
thường trong buổi t́m hiểu ban đầu.
Ở đây ta phải khen ngợi
nước Pháp hơn trăm năm trước đă có những
tư tưởng tự do dân chủ nhân quyền rộng
răi; công dân và trú nhân tự do ngôn luận, lập hội, biểu
t́nh… đúng với khẩu hiệu nước của họ:
Tự Do, B́nh Đẳng, Bác Ái. Trông
người mà ngẫm đến ta.
Khúc rẽ định mệnh
mang tính quyết định là lúc Nguyễn Ái Quốc gặp
được người bảo
trợ chính trị và kinh tế vững chắc chấm
dứt thời long đong tương lai bất trắc. Sứ
giả Nga D.D Manuilsky sang Pháp tham dự đại hội
đảng Cọng Sản Pháp đă chiêu dụ Nguyễn
Ái Quốc về Nga. Nhiệm vụ chiêu sinh này là nằm
trong kế hoạch và Ái Quốc chụp ngay cơ hội.
Con người bản chất gian manh như Hồ chí Minh,
cóc 6 chân mà về Nga học Mác-Lê tà kinh th́ đúng người
đúng ngợm; từ đây giang hồ sẽ chịu kiếp
nạn mưa máu gió tanh, Việt Nam bé nhỏ sẽ là nạn
nhân cho họ Hồ triển thi “bạch cốt trảo”
“thỏ dinh hồ đoạt”...
d- Từ Ái Quốc đến
Hồ Chí Minh. Tháng 10/1924 Nguyễn
Ái Quốc được Đảng CS Nga cử làm Ủy
viên Đông Phương Bộ phụ trách cục
phương Nam của Đệ Tam Quốc Tế Cọng
Sản, lấy tên Lư Thụy về tổ chức hoạt
động tại Trung Hoa, chuẩn bị đợi thời
cơ rất lâu. Thời cơ đó là Thế chiến II
bùng nổ (1940-45). Từ năm 1941 Lư Thụy bắt đầu
thường xuyên dùng tên Hồ Chí Minh. Năm 1941 Hồ Chí
Minh về Việt Nam, lập bản doanh tại hang Pắc
Bó, thuộc Cao Bằng, trên núi cao hẻo lánh vắt ngang
biên giới Hoa Việt và đến năm 1945 th́ y rời
về căn cứ Tân Trào, thuộc tỉnh Tuyên Quang. Ngày
9/3/1945 Nhật lật đổ Pháp, trao chủ quyền lại
cho vua các nước Việt, Mên Lào (Đông Pháp) và đến
tháng 8 th́ Nhật đầu hàng quân Đồng Minh. Ngày
19/8/1945 Hồ Chí Minh làm Cách Mạng tháng 8 cướp chính
quyền từ tay Chính phủ Quốc gia Trần Trọng
Kim và tuyên bố Độc lập ngày 2/9/1945.
Quân đội Pháp trở lại
Việt Nam và cuối năm 1946 Hồ Chí Minh yếu thế
phải rút lui lên chiến khu rừng núi Bắc Việt, chờ
đợi đến năm 1950 Mao Trạch Đông chiếm
được Trung Hoa lục địa, cận kề tận
t́nh giúp đỡ đánh bại được quân Pháp
năm 1954.
Sau hiệp định đ́nh
chiến Geneva năm 1954 chia đôi đất nước,
Hồ Chí Minh làm chủ miền Bắc. Từ đó cho
đến năm y chết 1969, y phạm nhiều tội
ác song có 2 biến cố rùng rợn nhất mà y trong tư
thế chủ tịch tối cao Đảng và Nhà Nước
chịu lănh toàn bộ trách nhiệm: đấu tố
điền địa 1954-56 và thảm họa Mậu
Thân1968.
Nhận xét: Từ 1924
đến 1954, khoảng thời gian rất dài, chi chít sự
kiện mà cũng không đem lại kết quả ǵ
trước Thế chiến II. Tôi không nhắc lại v́ có
nhiều hoàn cảnh “ngộ biến
tùng quyền” khó phê phán khách quan. Tôi chỉ nhận xét con
người y lúc hàn vi và lúc thành đạt , bản
tánh dễ lộ ra ngoài. Tuy nhiên cuộc Cách Mạng mùa thu
19 tháng tám 1945 do y tiến hành là một cuộc cách mạng
vô cùng bẩn thỉu kiểu Lư Thông (Thạch Sanh, Lư Thông,
tiền thân Lư Thụy) cướp công cứu công chúa, mọi
người phỉ nhổ. Từ xưa đến nay
chưa có đảng Cọng Sản nào đánh đuổi
được thực dân, chỉ ŕnh cướp chính quyền.
1- lúc hàn vi. Hồ
“đổi thầy như thay
áo”. Sinh Côn, Tất Thành theo Pháp; Ái Quốc, Lư Thụy
theo Nga, Hồ Chí Minh theo Tàu. Không có Nga, không có Lư
Thụy; không có Tàu giúp không đánh lại Pháp, Mỹ, Ngụy.
Tuy nhiên theo Nga là bán linh hồn cho quỷ đỏ ‘búa liềm’,
từ nay Hồ lấy quốc tịch quốc tế, công
dân Mác-Lê.Theo Tàu nguy hiểm nhất, “phóng hổ tự vệ”, giặc tan hổ xơi
chủ nhà, nay đă nhăn tiền. Hồ Chiêu Thống có thể
thuộc bài học lịch sử, nhưng không xem điều
này là trọng. Hồ cũng biết xưa Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đánh đuổi ngoại
xâm chỉ nhờ sức ḿnh trong nước chẳng nhờ
vả ai.
2- lúc
đương quyền.
+ Hồ Chí Minh phát động chiến dịch đấu
tố cải cách ruộng đất 1954-56. Hàng trăm ngàn
dân vô tội như cá trên thớt chờ bị giết,
chôn sống dă man kiểu cọng sản “trí phú địa hào đào tận gốc tróc tận
rễ”, tịch thu trọn gói gia sản ruộng đất
“thước sào cưu chiếm,
thỏ dinh hồ đoạt”. Các tài liệu kể lại
rất nhiều qua sách báo và trên internet. Tác giả bài thơ
“Màu tím hoa sim”, Nguyễn hữu
Loan trong bài viết tự thuật đă kể lại thảm
cảnh bố mẹ vợ tương lai của ông đă
bị đem xử chôn sống như thế nào. Tôi đă
đề vịnh như sau:
“Ai ngăn tôi khóc chuyện của
ḿnh?
Khóc (em) Ninh
mệnh yểu tuổi vừa xanh,
Khóc (em) Nhu
phụ mẫu thân vùi cạn,
Ló đầu
trâu giẫm chịu thảm h́nh.
Giết
người chôn sống thời quốc loạn,
Đầu trộm đuôi cướp
giữa thái b́nh.
Giă từ
phỉ đảng, ḷng thanh thản,
Màu tím hoa
sim gửi trọn t́nh”
“Hồ
Đấu Tố” là bố “Hồ Đồ Tể”, cao
hơn rất nhiều và thâm độc ảnh hưởng
lâu dài. Hồ Đồ Tể mới chỉ là Hồ Pol
Pot đơn giản phạm tội diệt chủng của
một tên độc tài khát máu. Hồ Đấu Tố là
cả một vấn đề đạo đức to lớn,
là hủy diệt luân thường
đạo lư, mỹ tục thuần phong, tín ngưỡng
của ṇi giống từ ngàn xưa. Hồ Đấu Tố
thi triển các độc chiêu của Mác-Lê tà kinh, khích động,
gieo hận thù giai cấp, làm áp lực để buộc con đấu tố cha, cháu vạch
tội ông bà, anh em giết nhau, vợ tố chồng,
tṛ phản thầy, tớ cáo chủ lấy oán trả ân.
Đó là đạo đức kiểu Hồ Chí Minh. Thật
không có ǵ lạ nếu ngày nay xă hội Việt Nam CHXHCN
đạo đức xuống cấp thê thảm, lănh đạo
và con cháu sa đọa, tội ác lan tràn, nhân dân học tập
vô bổ đạo đức bác Hồ, tên Hồ đấu
tố. Nếu trước kia có vài người có thể
c̣n khờ khạo cả tin, th́ ngày nay nhờ được
cung cấp nhiều nguồn tin qua mạng như bài viết
này mà chỉ là một phần bé tí tẹo, Cọng Sản
bất lực không thể lấy thúng úp voi, che dấu măi sự
thật, tên Hồ chí Minh chồn mặt nạ da người
bị lột, tiếng xấu truyền xa, bốn ngựa
khó đuổi. Tôi đă có kinh nghiệm bản thân: khoảng
năm1980 tôi ra Hà nội công tác họp ngành. Đi xe gắn
máy sắp qua lăng Bác, tôi không tắt máy xuống dắt
xe (v́ không có bảng chỉ dẫn, luật bất thành
văn), bị công an huưt c̣i ngừng xe biên phạt tiền
nặng. Tôi hối lộ một ít th́ người công an giữ
lăng cám ơn rối rít rồi sốt sắng mời
tôi cứ lên xe chạy thẳng qua lăng, khỏi mất
công dắt bộ để tiết kiệm thời gian
không đếm xỉa làm thế là bất kính đối với
Bác (LBV “Quá lăng hạ xa”, Chuyện những con ṇng nọc
giữ đuôi). Số phận con dân Việt Nam:
“Pháp đô hộ, Hồ đấu
tố, Đôi đằng cùng khổ”.
“Pháp đô hộ, đạo
đức c̣n đó; Hồ đấu tố, đạo
đức xuống hố…mất tiêu”.
Thật vậy hiện nay dưới
chính thể CHXHCNVN người ta sống lừa dối, vô
cảm và xem đó là tiêu chuẩn con người Hồ Chí
Minh; đạo đức chân chính là khờ khạo, lỗi
thời,quái thai, lập dị, phản cách mạng trái với
xu thế phát triển của đất nước, đi
ngược với lợi ích của dân tộc.
Cùng thời gian, ở miền
Nam dưới chánh thể Việt Nam Cọng Ḥa trước
cũng có cải cách điền địa, mệnh danh luật
“người cày có ruộng”.
Dưới thời Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, các
chủ điền bị lấy lại ruộng được
trả 10% tiền mặt và 90% công khố phiếu hạn
13 năm. Tá điền được mua tối đa 5
ha, vốn và lăi trả trong ṿng 12 năm với lăi xuất
năm 3%, hoặc trả trong ṿng 6 năm, không lăi. Mỗi
ha là 10.000 m2, mỗi mẫu ta
(10 sào) là 3.600 m2 ở miền Bắc; 4970 m2 ở miền
Trung. Tuy nhiên Việt Cọng phá hoại du kích, cấm nông
dân làm đơn xin mua ruộng chính phủ, ám sát các cán bộ
phụ trách chương tŕnh cải cách; nông dân bị
đe dọa không dám mua và nhiều ruộng đất Chính
phủ lấy từ các chủ điền, không bán
được phải bỏ hoang.
Dưới thời Tổng Thống
Nguyễn văn Thiệu, Thượng Viện thông qua ngày
6/3/1970 và Hạ Viện (Quốc Hội) chung quyết ngày
16/3/1970 luật “Người
cày có ruộng” mục tiêu cấp không 1.5 triệu ha ruộng
lúa cho hơn 80 vạn hộ nông dân. Luật nêu địa
chủ không trực canh sẽ bị truất hữu bồi
thường theo thời giá, 20% tiền mặt và 80% công khố
phiếu trả 10% lăi trong 8 năm. Họ có thể giữ
nếu trực canh,15 ha ở Nam bộ, 5 ha tại Trung phần. Tá điền được cấp
miễn phí 3 ha ở Nam phần, 1 ha ở Cao nguyên và duyên hải
Trung phần. Họ được cấp bằng khoán sở
hữu và buộc không được sang nhượng hoặc
bán lại ruộng cấp trong ṿng 15 năm. Tuy nhiên luật
‘người cày có ruộng’ không áp dụng đối với
ruộng đất các tổ chức tôn giáo và ruộng
đất hương hỏa của dân. Sau luật này ở
miền Nam Việt Nam không c̣n các chủ điền.
Nhiều quan sát viên quốc tế
đă cho chương tŕnh “Người cày có ruộng” là một
trong những chương tŕnh cải cách điền địa
thành công nhất ở các nước hậu tiến.
Qua Luật “Người cày có ruộng”,
suy một rơ mười, chưa biết chế độ
VNCH miền Nam thời đó hoàn hảo mấy phần, khiếm
khuyết bao nhiêu nhưng rơ ràng xă hội tương đối
có nhiều nhân phẩm, đạo đức một cách tự
nhiên do bản chất của chế độ, không do bị
ép buộc học tập đạo đức tư tưởng
giả tạo phản tác dụng của một ai, mà mọi
người đều biết là một tên súc sinh, và đấy
là những tiền đề mang tính quyết định
khiến toàn dân tự động bác ái, tương kính
tương nhượng, dân giàu nước mạnh cùng
chia hưởng phúc lợi chung. Thay v́
“Độc Đảng Tự
Do Hưởng Phước”; “Thùy dữ tranh phong?”
C̣n nữa, cùng chia hưởng phúc
lợi chung, dưới chánh thể Việt Nam Cọng Ḥa
trước 1975, các dịch vụ y tế giáo dục đều
miễn phí trên toàn quốc. Bệnh nhân từ mọi
nơi khám bệnh, nằm viện, xét nghiệm, phẫu
thuật, thuốc men, ăn uống nhất nhất
không phải trả tiền một xu nhỏ. Mọi
thứ đều miễn phí. Hoàn toàn không có thủ
tục ‘đầu tiên’. Duy chỉ khi ra viện nếu
xét cần, bệnh nhân có thể được cấp toa
thuốc để mua ngoài khi về nhà. Ở bệnh viện
lớn cũng có một hai trại bệnh có pḥng nằm
phải trả một số tiền nhỏ không bao nhiêu và
đó là tiền pḥng, mọi thứ khác đều miễn
phí. Chuyện này tôi đă kể lại trong bài viết “Bệnh
viện Trung Ương Huế”, (hội Ái hữu ĐHYK
Huế, ykhoahuehaingoai.com).
Về giáo dục mọi trường
công lập từ tiểu học đến trung học
đều miễn phí. Ở đại học sinh viên chỉ
đóng lệ phí ghi danh một lần vào đầu năm
học với một số tiền nhỏ không đáng kể.
Đầu thập niên 50 tôi từ Quảng B́nh ra Hà nội
học Đại Học. Tôi làm đơn xin và được
bộ Giáo Dục tại Sài g̣n cấp học bổng toàn
phần, mỗi tháng 500 đồng, hàng năm tái tục nếu
được lên lớp đều đều. Thời
đó ở Hà nội tiền ở trọ ăn cơm
tháng là 450 đồng. Ở Huế và Sài g̣n cũng xấp
xỉ. Tất cả mọi sinh viên đi học ngoài tỉnh
xa đều được cấp học bổng theo
đơn xin. Nếu trường đại học trong tỉnh
th́ sự cấp học bổng toàn phần hoặc bán phần
tùy thuộc gia cảnh và học lực. Chuyện này tôi có
kể lại trong bài viết “Chén cơm Phiếu Mẫu”
trang Web ykhoahuehaingoai.com.
Rất nhiều người nêu
câu hỏi tại sao Việt Nam Cọng Ḥa xưa, chỉ Cọng
Ḥa đơn giản, tài nguyên giới hạn mà người
dân lại có những phúc lợi xă hội và dịch vụ
tốt đẹp đến vậy trong khi Cọng Ḥa Xă Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay danh xưng (tiến nhanh
tiến mạnh lên) Xă Hội Chủ Nghĩa dao to búa lớn
như thế, nước XHCN độc nhất trên thế
giới hiện tại, từ quá lâu lại không có mảy
may một chương tŕnh phúc lợi xă hội thiết thực
cho dân; bao nhiêu tài nguyên quốc gia phong phú hàng tỷ đô la
Mỹ biến mất vào túi ai, không ai kiểm soát để
dân sống chết mặc bây? thất
học ở nhà, đói nhịn, bịnh chết. E rằng danh xưng XHCN chỉ là
một chiêu bài, “treo đầu
heo bán thịt chó, mập mờ đánh lận con đen?”
Mở miệng là đảng ta anh minh, trong sạch, đạo
đức. Ôi thôi “Trăm voi không được một bát nước
xáo, áo quần đâu tạo thầy tu? ”Đảng Lánh Đạo, Nhà Nước Quản
Láo, Nhân Dân Lắm Chủ. Nhân dân Việt Nam làm sao sống
nổi với một lũ côn đồ khoác lác dối trá
trơ mặt bỉ ổi như thế !
Hồi đó ở Hà nội
trước 1954 tôi đi xe khách lên Vĩnh Phúc Yên. xuống
Hải Dương, Hải Pḥng, trong Nam trước 75 th́
đi xe khách Huế Sài G̣n, Mỹ Tho, Tây Ninh v.v… mà đâu thấy
công an của đảng ta “trong sạch anh minh đạo
đức” chận xe bắt nạp thuế địa
phương, ṿi hối lộ! Tuy vậy nghĩ lại chẳng
thà nộp măi lộ để mấy ông “giữ vững an
ninh ổn định chính trị” c̣n hơn thời đó
ngồi trên xe đ̣ mà cứ ngơm ngớp lo sợ mấy
ông Việt Cọng giật ḿn bất tử, ném lựu
đạn bất chừng, nổ súng bừa băi chết bất
đắc kỳ tử.
++ Hồ Chí Minh với cuộc thảm sát Tết Mậu
Thân đầu năm 1968. Khắp toàn quốc miền Nam
đều bị Việt Cọng tấn công bất ngờ
khuya mồng một Tết nhưng sớm bị đánh
lui. Riêng ở Huế Việt Cọng lại chiếm giữ
được thành phố trong 26 ngày. Thời gian đủ
cho chúng dượt lại bổn cũ, mở ṭa án nhân
dân, đấu tố xử chém chặt, trói chùm chôn sống…con
dân Huế bị thảm sát mấy chục ngàn người,
chết tức tưởi. Hồ Chí Minh, tên đầu sỏ
đấu tố chôn sống là Chủ tịch Đảng
đồng thời Chủ tịch nước (y chết
ngày 2/9/1969) phải chịu lănh hoàn toàn trách nhiệm về
đường lối chính sách và việc làm của thuộc
hạ bảo sao làm vậy, chỉ đâu đánh đó.
e- Hồ Chí Minh và “Như
có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” 30/4/1975. Lần
này là ngày vui đại đại thắng, chiến lợi
phẩm thu hoạch rất nhiều, toàn bộ tài sản
miền Nam bị tịch thu chia chác, nhưng quan trọng
nhất về lâu về dài là tiêu
diệt trọn gói các
tư tưởng “tự do dân chủ nhân quyền” khắc
tinh chế độ chúng, phản động, phản
cách mạng, sản phẩm độc hại của lũ
Mỹ Ngụy. Lần này sau đại đại thắng
ngụy chúng giết bắt, cho đi tù học tập cải
tạo lút mùa hoặc đi kinh tế mới đem con bỏ
đồi hoang, thước sào cưu chiếm, thỏ dinh
hồ đoạt. Nhân dân miền Nam bỏ chạy liều
lĩnh vượt biên, thoát cũng nhiều mà chết cũng
lắm. Tuy vậy ai cũng nghĩ trong cái rủi c̣n có cái may
v́ tên Hồ Đấu Tố đă chết 6 năm trước,
nhược bằng c̣n sống th́ y lại chỉ đạo
dàn dựng lại cảnh đấu tố hủy diệt
luân thường đạo đức và chôn sống rùng rợn
năm xưa; có nhiều phần chắc y không c̣n khiến
miền Nam thoát được cảnh biển máu như ở
Campuchia dưới chế độ Pol pot. Hồ Đấu
Tố là đứa nham hiểm nhất, “tiếu lư tàng đao” nụ cười mơn trớn,
bề ngoài thơn thớt nói cười của y mà trong lại
chứa mác lê búa liềm “Hồ
Đấu Tố hẹn canh ba chết, Diêm vương nào
dám để đến canh năm?”.
g- Hồ Chí Minh, Ác Quỷ
Ba Đ́nh. Nếu Hồ c̣n sống
đến bây giờ th́ Việt Nam dám là một Bắc Hàn
của Kim Chính Nhật vừa chết cuối năm 2011.
Tuy nhiên Hồ chết nhằm giờ hung, biến thành ác quỉ
Ba Đ́nh quấy rối dân ḿnh. Hôm nay 28 Tết, ngày mốt
là mồng một Tết Nhâm Th́n 2012. Ta lại chứng kiến tṛ khỉ:
“Mỗi
năm hoa đào nở,
Lại thấy Vẹm ḅ ra.
Lên Ba
Đ́nh ngửi xác,
Hít hà hơi thây ma”.
(“Ông Đồ”, Vũ Đ́nh
Liên: “Mỗi năm hoa đào nở, Lại thấy ông
đồ già”…)
Thây ma lạnh lẽo hôi thối
mà lũ Vẹm cũng rán hít hà chắc để luyện
âm công Mác-Lê bí kíp. Chẳng trách chúng để vậy chẳng
chịu chôn, có biết đâu:
“Bác Hồ chí Minh,
Hộ khẩu Ba Đ́nh.
Bác là chồn tinh,
Là quỉ Ba Đ́nh?,
Nhà mồ ẩn ḿnh,
Xú khí hôi tanh,
Bốc tận mây xanh,
Đứt mạch
Long Thành,
Điềm này
(phong thủy) rất linh,
Tàu sẽ diệt
ḿnh”.
Lũ Vẹm không lo giữ
nước, chỉ lo thờ một thây ma, hù thiên hạ.
Điềm mất nước.
C̣n nữa, hiện nay lũ Vẹm
dùng tên Thành phố Hồ Đấu Tố, Thành phố
Quỉ Ba Đ́nh vứt bỏ
tên Thành phố/ Thủ Đô Sài G̣n thân thương; thực
là một cái tát vào danh dự và niềm tự hào của
nhân dân miền Nam anh dũng lẫn tổ tiên chúng ta đă
trải bao gian khổ vào nam mở rộng nước mới
có ngày nay. Nhân dân miền Nam trước thềm năm mới
lấy quyết tâm:
“Đánh cho Bác cút Đảng nhào; Sài thành trở lại,
xuân nào vui hơn?
h- Hồ Chí Minh “khánh trúc nan thư” dùng biết
bao nhiêu thẻ (giấy mực) cũng không viết hết,
y và thuộc hạ tội rất nhiều, nước biển
đông cũng không gột sạch. Y lại huênh hoang kể
lễ công lao trời biển.
“Công
Hồ như núi giả sơn. Tội Hồ như nước
trong nguồn chảy ra”.
Y thủ tiêu các đồng chí mà
y sợ tranh quyền, phản bội mật cáo họ
để Pháp bắt, giết các nhà ái quốc ngoại
đảng, nướng sinh mạng của hàng triệu
thanh niên sinh bắc tử nam, tiêu thổ triệt để
để kháng chiến mà lính Pháp, Mỹ đâu cần
lương thực và nhà cửa của nhân dân để có
miếng ăn chỗ ở!!
Mắt tôi thấy lính Pháp, nhất là Mỹ vứt các
thức ăn đồ hộp hàng đống cho bà con và
đồn bót họ tự xây, đường sá cầu cống
họ tự làm để cho xe hạng nặng vận chuyển,
với vật liệu từ nước họ chở qua
thừa mứa dùng chẳng hết. Tiêu thổ kháng chiến
lại là bất lợi cho lối đánh du kích.
Hồ cóc chúa 6 chân ngày 14-9-1958 cũng
ra lệnh cho cóc 5 chân Phạm văn Đồng gửi công
hàm dâng ṇng nọc Hoàng Sa, Trường Sa của tổ tiên
ta cho Trung Cọng.
Có những phát ngôn của Hồ
Chí Minh làm tôi bực ḿnh:
*Hồ Chí Minh nói: “Không ǵ quí
hơn Độc lập Tự do”. Th́ cũng quí nhưng
làm sao bằng: “không ǵ quí hơn Độc Đảng Tự
do”? tha hồ Hưởng Phước. “Độc Đảng Tự Do Hưởng Phúc”
là cái chắc nắm trong tay cho đảng viên. Nhiều thứ
khác cũng quí hơn “Độc lập Tự do” kiểu Hồ
Chí Minh như :”Mác-Lê bí kíp”, “16 chữ vàng 4 tốt” v.v…
*Hồ chí Minh thăm các thiếu
nhi, khuyên: “Vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta phải
gắng công giữ nước”. Cũng đúng nhưng là
ưu tiên thứ ba, thứ tư phải nhường
bước. Ưu tiên hàng đầu là nhập với
Trung Quốc khi có cơ hội,
thứ nh́ là Công An, Quân Đội cương quyết bảo
vệ Đảng, trung thành với Đảng. “Nh́ Đảng,
nhất Hoa, ba Nước”, giữ nước về thứ
ba, nhưng có thể về đầu trong các trường
hợp khác.
* “Không lo dân đói chỉ sợ
không công bằng”, thế nhưng “tiêu chuẩn cao ăn cung
cấp, tiêu chuẩn thấp ăn chợ đen, tiêu chuẩn
quen đi cửa hậu… tiêu chuẩn Lănh Đạo yến
quế sâm nhung”. Lănh Đạo không lo dân đói th́ cũng dễ
lănh đạo.
* “Nhà tan cửa nát cũng ừ,
đánh xong giặc Mỹ cực chừ sướng sau”.
Đó là tiêu thổ kháng chiến đă nói trên. Khi sạch Mỹ
Ngụy tha hồ “thước sào cưu chiếm, thỏ
dinh hồ đoạt” cho lănh
đạo các cấp có tiêu chuẩn chia chác, thằng dân thất
phu vẫn ‘bạch ốc vô văn’, nhà tan nát cửa chẳng
ai đền bù. Cực chừ sướng sau là nói về
đảng viên.
Cuộc đời t́nh ái của Hồ chí Minh rất lem
nhem, nhưng thôi đó là chuyện cá nhân của y.
i- “Tổng kết
Hồ Chí Minh là một tên tôi đồ lớn của nhân
loại với tội diệt chủng kinh khủng, và là
tên tội đồ lớn nhất vượt xa, của
4000 năm lịch sử dân tộc Việt Nam. Y mang lại
nạn diệt vong cho ṇi giống Việt. Y gian hiểm
thâm độc quá chừng, là GSTS
Đấu Tố Khoa, GSTS Đạo Đức Tà
Khoa. Ta có thể mô tả tư cách, bản chất y qua câu
đối thơ:
“Trời
sinh tên Hồ hiểm,
Đất
nứt con Bọ hung”.
Và sự
nghiệp y “Thời lai Đồ
(tể), Đấu (tố) thành công dị. Vận đáo
gian hùng phú quí đa”
Hồ Chí Minh súc sinh mặt
dày, đảng CSVN khốn nạn vô sỉ và lũ
Lănh Đạo bộ Chính Trị giun sán kinh tởm
liên hợp vững như kiềng 3 chân, muôn năm trường
trị đè đầu cưỡi cổ dân ta, bán nước
của ta.
“Một thằng, một đảng,
một lũ tà,
Ba cái hung
hăng quậy nước ta.
Trừ
được cái nào hay cái ấy,
Có
chăng trừ một ấy trừ ba?”
Tú Xương: “Một trà một
rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy
ta. Chừa được cái nào hay cái ấy. Có chăng chừa
rượu với chừa trà”.
Tướng tinh bọn Vẹm Cọng
Sản qua kính chiếu yêu:
“Đảng
viên ba triệu. Là cóc bốn chân.
Lũ Bộ
Chính Trị, Cáp mô năm chân.
Tên Hồ
Chí Minh,Thiềm thừ lục túc.
Toàn dân ṇng nọc, Để cóc
quang vinh!”
Đầu năm Nhâm Th́n chúng ta
quyết tâm lột mặt nạ tên Hồ Chí Minh súc sinh.
Nước ta bé nhỏ mà y muốn làm lớn, lại mang
chủ nghĩa Cọng Sản Quốc tế áp đặt
vào nước ta, như rước hổ vào nhà, tạo
cơ hội để Trung Cộng dùng danh nghĩa Cọng
Sản anh em khống chế rồi thâu tóm ta, đô hộ
ta như trong quá khứ, mà ta th́ há miệng mắc quai. Tên
súc sinh đó chỉ nghĩ đến nhiệm vụ quốc
tế vĩ đại của y, dùng Việt Nam làm một
con tốt thí. Y mang nhiều mặt nạ, kinh tởm nhất
là mặt nạ giả đạo đức của một tên có thành tích dàn dựng
đấu tố phá hủy cang thường đạo lư,
để rồi bè lũ chúng thần thánh hóa, bắt nhân
dân ta học tập, mỗi lời nói của y chúng ta phải
tuân theo, mỗi tư tưởng của y chúng ta phải
trân quí; các mặt nạ của y chúng ta sẽ lột hết
tất tần tật. Quyết tâm đó chúng ta làm
được v́ chúng ta bền chí, không bao giờ quên các thảm
cảnh Đấu Tố 54, Mậu Thân 68, Trại tù 75.
Chúng ta không trả thù ai, chúng ta sống ở nước
ngoài, không bị chúng bít tai, che mắt khóa miệng, chúng ta
biết rất nhiều và chúng ta quyết tâm vạch mặt
y cùng bè lũ trước quốc dân đồng bào; chúng ta
c̣n muốn nước Việt Nam vẫn tồn tại
trên bản đồ thế giới.
--------------------------------
Đề tựa Phần 2,3,4
(Đón xem toàn bài. Sẽ đến nay mai).
PHẦN 2. Con
Hồ cháu Bác. “Ṇng Nọc 2 chân”
“Theo đóm ăn tàn,
Một
lũ nhặng xanh,
Mặt
trận tẩm quất,
Đại biểu nhân dân,
Việt
Kiều yêu Bác,
Ṇng nọc 2 chân.
Mong
ngày thành cóc,
Dây
máu ăn phần.
Cũng
gọi quang vinh,
Đại công cáo thành.
PHẦN 3. Con Hồng cháu Lạc.
“Ṇng nọc bất khuất”
“Quyết chống bạo tàn,
Bền bỉ đấu tranh.
Đ̣i hỏi Dân chủ,
Nhân quyền v́ dân.
Xem thường khủng bố,
Cam chịu ngục h́nh,
Một ḷng v́ nước,
Toàn dân nghiêng ḿnh.
Ṇng
nọc bất khuất,
Chân chính quang vinh”.
PHẦN 4. Thiên ngoại hữu thiên.
“Tri kỷ tri bỉ”
“Tri túc bất nhục,
Tri chỉ bất nguy.
Nh́n ra thiên hạ,
Chuyện lạ bốn
phương,
Chẳng phải hoang đường.
Mác –Lê vứt bỏ,
Búa liềm xếp xó.
Giữ vững luân thường,
Trau dồi đạo đức,
Dân tộc phú cường”.
Lê Bá Vận,
Mồng một Tết
Nhâm Th́n,
Jan 23-2012.