Nhật Kư: ĐOẠN ĐỜI QUÂN NGŨ

Bác sĩ HOÀNG THẾ ĐỊNH

 

   Năm 1970, một hôm vừa ở bệnh viện về nhà, tôi chợt thấy trên bàn một b́ thư, nơi gởi là Cục Quân Y Bộ Quốc Pḥng; bên trong b́ là giấy gọi tôi trưng tập vào Quân Y Quân Lực Việt Nam Cọng Ḥa.

So với các binh chủng tác chiến th́ Quân Y được coi như là "lính kiểng". Là một trong những đơn vị yểm trợ, Quân Y phải theo chân các binh chủng tác chiến và không ít người hy sinh trên chiến trường. Riêng khóa trưng tập QY 1970, gọi "lính kiểng" cũng không ngoa: mới vào Quân Trường Thủ Đức mà trên ve áo chúng tôi đă mang quân hàm trung úy, làm các sinh viên sĩ quan cùng trường phải chào chúng tôi mỗi lần đi ngang. Cùng năm đó, hai người em của tôi, một là em ruột, một là con ông chú, đều là giáo sư cũng được gọi thi hành nghĩa vụ và cùng ở Quân Trường Thủ Đức, báo hại hai chú ấy, mỗi lần đến thăm tôi đều phải đứng nghiêm, chào kính rồi xưng tên họ, cấp bậc... Các khóa  sinh viên sĩ quan th́ phải qua đến 9 tháng học quân sự, với mọi bài học quân sự và thực tập gắt gao mới được trở thành một sĩ quan. Khóa Y-Sĩ Trưng Tập chúng tôi chỉ kéo dài 9 tuần lễ. Với thời gian ngắn ngũi ấy, các lớp học chỉ là căn bản, chúng tôi cũng đi học ở các băi tập, cũng ḅ dưới hỏa lực, ném lựu đạn, tháo ráp súng Carbine và M16 và tập bắn, đáng nhớ đời có lẽ là ai trong chúng tôi cũng nhớ lúc bắn thử M60 từng loạt và từng viên một...Cuối khóa, chúng tôi cũng có thi ra trường trên lư thuyết và bắn thi hai loại súng cá nhân kể trên. Ra trường chúng tôi được phát bằng tốt nghiệp với thứ hạng đàng hoàng. Rời Quân Trường Thủ Đức là đến học về Hành Chánh Quân Y tại Trường Quân Y ở Sàig̣n. Sau 5 tuần, mọi học viên được triệu tập trong một pḥng để chọn đơn vị tùy theo thứ tự tốt nghiệp từ Quân Trường Thủ Đức và Hành Chánh Quân Y. Dù tôi đă tốt nghiệp hạng 5 cho 2 trường lớp kể trên, khi được gọi lên bảng đă viết sẳn những đơn vị thuộc mọi binh chủng, tôi đă chọn Sư Đoàn 1 Bộ Binh để được gần vợ con, dù biết rằng Sư Đoàn 1 đang trấn giữ các hai tỉnh địa đầu giới tuyến là Quăng Trị và Thừa Thiên mà chiến cuộc đang sôi sục giữa quân ta với Cọng quân. Tôi cầm giấy tờ về Tiểu Đoàn 1 Quân Y thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, tŕnh diện xong là nhận Sứ Vụ Lệnh ra tỉnh Quăng Trị với chức vụ Đại Đội Phó Đại Đội 11 Quân Y thuộc Trung Đoàn 1 Bộ Binh và được đưa ngay ra hậu cứ Trung Đoàn đóng tại làng La Vang. Chân ướt chân ráo thực sự bước vào Quân Đội, thấy mọi thứ đều xa lạ. Vừa gặp Đại Đội Trưởng ĐĐ11 QY (đă quá văng) là bạn cùng trường Y Khoa Huế, tôi thấy yên tâm phần nào. Tuần đầu, tôi làm quen với trạm xá của Đại Đội cùng tất cả y tá, dược tá...và được đưa đi giới thiệu với các sĩ quan các pḥng, ban thuộc hậu cứ Trung Đoàn. Khi nh́n sơ đồ tổ chức Trung Đoàn, tôi mới nhận ra anh bạn học cùng 2 lớp Đệ Tam và Đệ Nhị trường Quốc Học, anh Vơ Toàn. Anh Toàn bây giờ đang là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 thuộc Trung Đoàn 1. Khi tôi ngơ lời với một vị sĩ quan ban 4 có gia đ́nh ở gần nhà chúng tôi trongThành Nội, anh ta đă bắt máy gọi để cho tôi nói chuyện với Thiếu Tá Toàn; khổ nổi tôi chưa quen với lối xưng hô trong quân ngũ, cứ măi xưng hô mày tao với cấp chỉ huy làm mọi người trong pḥng quây mặt đi để dấu cười. Sau 2 tuần học việc tại hậu cứ, tôi được đưa đến căn cứ Nancy là tiền doanh của Trung Đoàn 1 Bộ Binh, tôi đă quen biết cách chào kính khi đứng trước Trung Tá Nguyễn Văn Điềm, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Bộ Binh. Cũng như tất cả các sĩ quan khác, mỗi buổi sáng tôi đều đến họp tại trung tâm hành quân trong một hầm kiên cố và đầy tiện nghi máy móc liên lạc bằng vô tuyến và hữu tuyến cũng như bản đồ hành quân với những cao điểm, căn cứ...tôi chỉ biết ngồi im lặng nghe thuyết tŕnh. Ở đây được 3 ngày,Trung Tá Điềm gọi tôi và nói:

-Tôi được tường tŕnh là thời gian ngắn vừa qua tại trạm xá, bác sĩ đă cứu sống một binh sĩ xem như đă tắt thở. Vậy bác sĩ cứ về lại hậu cứ lo chữa bệnh cho anh em. Tôi nhờ trời ít khi đau ốm, cảm cúm lắc nhắc th́ đă có mấy y tá ở đây. Khi nào cần tôi sẽ gọi bác sĩ.

Thế là tôi lại sửa soạn quân trang trở về lại hậu cứ La Vang, hằng ngày chỉ lo việc trạm xá Trung Đoàn. Hơn tháng sau, tôi lại nhận được lệnh Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1 QY gọi trở về Mang Cá, hậu cứ Sư Đoàn. Về sau, tôi nghe một vị sĩ quan hành chánh Tiểu Đoàn cho biết là vị Đại Đội Trưởng ĐĐ11 QY đă gởi tôi lại Tiểu Đoàn QY với lư do hậu cứ không cần phải 2 bác sĩ.

Tại Tiểu Đoàn 1 QY, tôi được giao làm y-sĩ điều trị trạm xá Sư Đoàn. Thời gian nầy tôi được làm quen với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. Nguyên trước, anh rễ tôi là sĩ quan huấn luyện nhảy dù trong Lực Lượng Đặc Biệt và Tướng Phú cũng đă qua chương tŕnh huấn luyện đó. Ở Sàig̣n,vợ của Tướng Phú là bạn chơi cờ Mạc Chược với chị ruột tôi, v́ vậy hai gia đ́nh quen thân. (Để biết về Mạc Chược, xin đọc bài "Ma-Tước tức Mạc Chược" của cùng tác giả trong Tập San nầy). Nhiều đêm, sau giờ làm việc và để giăm bớt căng thẳng,Tướng Phú thường tiêu khiển bằng môn cờ Mạc Chược, ông gọi điện thoại mời tôi sang dinh Tư Lệnh chơi cờ khi biết tôi không phải trực hành chánh hoặc chuyên môn tại Tiểu Đoàn QY. Tướng Phú mới tập chơi cờ và lại ông chỉ thích đạt những ván cờ lớn, nên ít khi được thắng . Bà Phú th́ mỗi khi chồng bận điện thoại là ngồi vào thế chỗ, bà có lối đánh quân cờ bằng tay trái rất điệu nghệ và đẹp mắt. Có khi vợ chồng ông Tướng đùa nghịch dành nhau để được đánh cờ, làm hai vị sĩ quan Sư Đoàn và tôi được dịp cười vui.

Vài tháng sau, do t́nh h́nh chiến sự đ̣i hỏi, sau khi họp bàn với các vị tư lệnh Quân Đoàn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh mở đầu Hành Quân Lam Sơn 719 hầu ngăn bước Cọng quân xâm nhập Miền Nam Việt Nam theo đường Hạ Lào. Hành Quân 719 được phối hợp do nhiều binh chủng thiện chiến như Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp và Sư Đoàn 1 BB. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 QY cử một bác sĩ hiện dịch vừa ra tŕnh diện dẫn theo một Trung Đội Quân Y theo Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Hành Quân đóng lại Khe Sanh. Một tuần sau, Tiểu Đoàn Trưởng Quân Y gọi tôi và cấp sứ vụ lệnh để tôi lên thay vị bác sĩ đang theo Sư Đoàn. Lần đầu tiên hành quân, tôi bỡ ngỡ không biết phải làm ǵ trước. Buổi sáng đầu tiên ở đây, tôi theo chân các sĩ quan trưởng các pḥng, ban, cùng các Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn yểm trợ đến họp ở Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Buổi họp được Thiếu Tướng Phạm Văn Phú chủ tọa, sĩ quan Pḥng Hành Quân và các ban lần lược thuyết tŕnh. Sau buổi họp, vị Đại Tá Tư Lệnh Phó, Đại Tá Chung gọi tôi ngồi lại, ông nói:

-Bác sĩ mới lên thay ông bác sĩ kia à?

-Thưa Đại Tá vâng.

-Bác sĩ có biết v́ sao tôi gởi trả ông ta về lại Tiểu Đoàn Quân Y không? Ấy là v́ ông ta từ chối chở binh sĩ tử thương trên xe Hồng Thập Tự Thế bác sĩ nghĩ sao?

-Thưa Đại Tá, trong Hành Chánh Quân Y th́ quả là như vậy, nhưng tôi nghĩ là trong hành quân, chúng ta phải linh động.

Ông Đại Tá Tư Lệnh Phó đứng giậy vỗ vào vai tôi:

-Tôi tin tưởng ở bác sĩ!   Bác sĩ cần ǵ cho công tác của ḿnh không?

-Thưa Đại Tá, theo t́nh h́nh chiến sự, tôi thấy cần có một pḥng giải phẫu an toàn cho thương binh và binh sĩ Quân Y.

-Được rồi! Công Binh sẽ giúp bác sĩ.

Ra khỏi pḥng hành quân, lững thửng về lại lều vải. Trời Khe Sanh lâm râm mưa, đất đỏ dẽo quẹo dính chặt đôi giày lính của tôi xuống đất.

Sáng hôm sau, khi ở Trung Tâm Hành Quân về, tôi đă thấy toán Công Binh đang ủi đất khu dành cho Quân Y chúng tôi. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, một người em con d́ ruột tôi vừa lái xe trờ tới, anh đến bắt tay tôi và nói:

-Anh à, nằm trong lều vải không ổn rồi, tụi nó pháo kích đều đều, nguy hiểm lắm, anh và toán Quân Y nên ở dưới hầm. Thế anh cần hầm nổi hay ch́m?

-Tôi cần hai hầm ch́m và càng rộng càng tốt, v́ tôi sẽ phải thiết kế một pḥng giải phẩu cùng thuốc men và toán Quân Y trong môt hầm, c̣n hầm kia cho thương bệnh binh. Có được không chú?

-Được mà, anh đừng ngại.

Thế là toán Quân Y chúng tôi có hai hầm lớn làm bằng những tấm nhôm cứng h́nh nửa ống cống, phía trên chất đầy bao đất. Chúng tôi được an toàn và yên tâm lo cho thương bệnh binh hằng ngày tải bằng trực thăng từ bên kia biên giới. Chiến sự ngày càng nặng nề, qua thuyết tŕnh, tôi cũng biết được tổn thất của địch cũng như bên quân ta, nhất là những cao điểm Đồi 30 và 31 do các tiểu đoàn Dù trấn giữ. Cứ nh́n số chuyến bay tải thương tới cũng biết mức độ ác chiến như thế nào. Những hôm đó, bản doanh của Nhảy Dù ở một ngọn đồi khác, pḥng giải phẫu do bác sĩ Trần Đông A làm việc liên tục ngày đêm. Một hôm, lượng rocket và đại pháo rót vào Khe Sanh nhiều hơn mọi khi, đồng thời các chuyến bay chở hầu hết là thương binh Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân. Chúng tôi phải nhường chỗ nằm cho thương binh chật đầy hai hầm, một số phải để nằm trên những tấm ván trong lểu vải. Tôi chạy từ hầm nầy qua hầm khác rồi tới lều vải để lựa thương, thương binh nào thấy cần giải phẩu tại chỗ, tôi làm ngay, môt số ngoài khả năng chửa trị tại chỗ cần chuyển về Bệnh Viện Tiểu Khu Quăng Trị hoặc Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, tùy mức độ bệnh. Hôm đó, khá nhiều thương binh cần chuyển, tôi đến gặp những phi công trực thăng Mỹ xin chuyển gấp, tôi nói với anh phi công xin lưu ư đến hai anh BĐQ bị thương nặng; một  hạ sĩ với ruột ḷi cả ra ngoài đă được bó kín với chiếc khăn lông tẫm dịch chuyền mặn và anh sĩ quan với vết thương do đạn xuyên vế chân phải, dù đă được băng bó kỹ lưỡng, máu vẫn tiếp tục chảy xuyên qua lớp vải dày của cán xuống sàn trược thăng, mặt anh ta tái nhợt. Tôi nghĩ anh bị đứt mạch máu chính của chân phải. Anh sĩ quan níu tay tôi và trao cho tôi chiếc áo giáp anh đang đắp ngang ngực:

-Bác sĩ chạy lui chạy lại nguy hiểm quá, tụi nó pháo kích ào ào mà bác sĩ không có ǵ che thân.

Tôi cảm ơn vừa mặc áo giáp vào và nói lời chúc may mắn cho tất cả thương binh. Trực thăng cất cánh. Trên đường trở lại hầm làm việc, một anh y tá hỏi:

-Hôm nay toàn là thương binh BĐQ, thế bác sĩ của họ đâu?

Tôi an ủi:

-Không biết họ phối hợp ra sao, thôi cứ thấy thương binh là làm, anh em cố gắng đi, tôi sẽ hỏi pḥng hành quân sau.

Nhịp độ ác chiến không thấy giăm sút chút nào, toán Quân Y chúng tôi làm việc không ngừng nghỉ, anh em y tá  c̣n chia nhau để đi ăn, riêng tôi có ngày chỉ được ăn vào buổi tối. Ở đây, ngoài việc chửa cho lính ḿnh lại c̣n cứu mạng cho một sĩ quan Việt Cọng; y bị mănh đạn ghim vào phổi phải mặt tím ngắc do thở không được, tôi đă giải phẩu làm phổi giả cứu sống anh ta (xem bài viết của cùng tác giả: "Quăng Đời Y Và Nghiệp" trang 116 trong Đặc San Gia Đ́nh ATBĐ Seattle-Washington State 2011).  Buổi họp hôm sau tại Pḥng Hành Quân, tôi được biết anh sĩ quan VC đó là người duy nhất được sống sót ở chân đồi khi cả tiểu đoàn Việt Cọng của anh ta bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn.

Một buổi sáng như mọi ngày, trong khi tôi đang duyệt xét vết thương của thương binh dưới hầm, một nhóm sĩ quan bước xuống, môt lúc sau tôi mới nhận ra là TrungTá Nguyễn Văn Điềm, vừa từ Hạ Lào đáp trực thăng về Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn 1 Bộ Binh để họp bàn kế hoạch đồng thời thăm thương bệnh binh thuộc Trung Đoàn 1 Bộ Binh. Trên đường tiễn Trung Tá Điềm đến trực thăng, ông đừng chân cười nói:

- Bác sĩ may mắn thật!    Bác sĩ biết sẽ có cuộc hành quân nầy hay sao mà bỏ tôi về Sư Đoàn?

Tôi chưa biết trả lời sao th́ ông nói:

-Tôi đùa thôi! Bác sĩ chăm sóc binh sĩ tốt lắm. Tôi phải đi đây!

TrungTá Điềm lên trực thăng bay về hướng Hạ Lào. Tôi trở về hầm, nghĩ về những lời Trung Tá Điềm nói; ông trách tôi hay chăng? Về sau, khi trở lại hậu cứ Mang Cá, tôi mới hiểu lời của ông: Số là khi nhận lệnh sửa soạn Hành Quân 719, anh bạn bác sĩ Đại Đội Trưởng Đ11 QY gọi Tiểu Đoàn 1 QY  xin 1 bác sĩ ĐĐ Phó để theo Trung Đoàn hành quân. Bác sĩ Quát, một bác sĩ hiện dịch, người thay thế tôi ở chức vụ ĐĐ Phó. Tại Hạ Lào, trong lúc hỗn loạn, bác sĩ Quát bị Việt Cọng bắt, may nhờ anh ấy mạnh, xô ngă tên VC rồi chạy, tụi nó nén lựu đạn chày theo, may mà không nỗ. Bác sĩ Quát thoát nạn, tâm thần bị giao động mạnh. TrungTá Điềm gởi anh ta trở về Tiểu Đoàn 1 QY.       

Cuối cùng th́ cuộc chiến Hạ Lào cũng chấm dứt với tổn thất cho cả hai bên. Sau nầy, thống kê Mỹ cho biết thiệt hại nhân mạng của Cọng quân gần gấp đôi phía VNCH. Vài tuần sau, Quân Lực VNCH rầm rộ tổ chức mừng chiến thắng Hành Quân Lam Sơn 719. Trước Kỳ Đài tại Phú Văn Lâu Huế, Đại Tướng Cao Văn Viên chủ tọa lễ mừng cùng tưởng thưởng sĩ quan và binh sĩ Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Toán Quân Y chúng tôi được nhiều huy chương, riêng tôi được Đại Tướng Cao Văn Viên gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Vàng, trong khi Y Sĩ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 1 QY chỉ nhận Sao Bạc. Tướng Phú được thăng Trung Tướng và bổ nhiệm vào Quân Đoàn 2. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân thay Tướng Phú làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Sau cuộc đọ sức cam go tại Hạ Lào, là thời gian yên lắng v́ cả hai bên lo dưởng quân và bổ sung quân số bù đắp lại hao hụt. Chỉ vài tháng sau, chiến cuộc sôi động trở lại, những cuộc hành quân kế tiếp được phối hợp giữa Việt Nam và Mỹ: Hành Quân 720, 810 nhằm truy t́m và diệt Cọng quân quanh vùng giới tuyến.Tôi được chỉ định tham dự cả hai cuộc hành quân, nhưng không như lần trước phải theo Sư Đoàn, tôi chỉ dẫn toán Quân Y đến ở trong Bệnh Viện Giải Phẫu Số 18 của Mỹ (18th. Surgery Hospital) đóng tại Làng Ái Tử thuộc tỉnh Quăng Trị (Xin đọc "Quăng Đời Y Và Nghiệp" của cùng tác giả). Chúng tôi có khu ở riêng, ăn uống th́ chung với binh sĩ Mỹ. Làm việc chung với họ nhưng toán QY chúng tôi chỉ săn sóc thương bệnh binh của ḿnh. Riêng về giải phẫu th́ tôi làm việc chung với bác sĩ Mỹ, tôi giải phẫu thương binh VNCH th́ bác sĩ Mỹ phụ tôi, ngược lại tôi phụ họ khi bác sĩ Mỹ giải phẫu lính Mỹ. Sau hai cuộc hành quân nầy, tôi lần lược được hai huy chương Bạc và Đồng.

Chỉ sau hơn một năm, tôi được thăng quân hàm Đại Úy và giử chức vụ Đại Đội Trưởng ĐĐ 10 QY kiêm Y-Sĩ Trưởng Trạm Xá Sư Đoàn 1 BB.

Năm 1972, Tỉnh Quăng Trị do Sư Đoàn 3 Bộ Binh trấn giữ. Sư Đoàn nầy được thành lập từ Trung Đoàn 51 của Sư Đoàn 1 BB và tuyển thêm quân số cho 2 trung đoàn. Việt Cọng tập trung quân số gấp bội phía VNCH tiến chiếm Quăng Trị. VC cố ngăn không cho dân chúng Quăng Trị chạy về hướng Thừa Thiên nên đă tàn sát dân lành tạo nên thăm cảnh "Đại Lộ Kinh Hoàng" trên Quốc Lộ 1. Sau vài tuần giao tranh cam go, dành dựt từng tất đất, từng góc phố, các Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến đă tiến chiếm lại Quăng Trị. Dù thành phố đă trở thành băi gạch vụn, nhưng dân chúng cũng đă mau chóng trở lại xây dựng xóm làng với mọi trợ giúp của chính quyền và Thủy Quân Lục Chiến.

Năm 1973, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 chuyển từ Đồn Mang Cá về Căn Cứ Giạ Lê, trước là môt căn cứ của Quân Đội Mỹ. Ngoài nhiệm vụ tại Tiểu Đoàn QY, tôi c̣n một thành viên trong Ban Thanh Tra Sư Đoàn do Đại Tá Lê Quang Thị (vừa qua đời năm trước đây), cùng với một số sĩ quan các pḥng, ban Sư Đoàn đi thanh tra tất cả đơn vị thuộc Sư Đoàn và yểm trợ. Đại Tá Thị xưa là Hiệu Trưởng và là giáo viênTrường Tiểu Học Gia Hội khoảng thời gian 1949-1954 mà tôi đă học ở đó. Dù qua mấy chục năm, thầy vẫn nhận ra tôi. Song song với Thanh Tra Sư Đoàn, là ĐĐ Trưởng QY, tôi c̣n phải một ḿnh thăm viếng và thanh tra các Trung Đội QY yểm trợ y vụ cho 4 Tiểu Đoàn Pháo Binh, 1 Thiết Đoàn và Trung Tâm Huấn Luyện. Một hôm tôi lái xe đếnTiểu Đoàn Pháo Binh đóng ở làng An Đô, đến chiều khi trở về, một chiếc xe GMC trúng phải ḿn nằm trơ 4 bánh lên trời. VC đă đặt ḿn từ tối qua, buổi sáng khi tôi đi ngang đă may mắn không chạm phải. Lần khác vào đầu năm 1974, lúc lên Bastogne thăm viếng một Trung Đội QY yểm trợ Tiểu Đoàn Pháo Binh, tôi đă gặp lại anh bạn Vơ Toàn bấy giờ đă thăng Trung Tá và giữ chức Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 BB thay Đại Tá Nguyễn Văn Điềm về làm Tư Lệnh SĐ1. Chúng tôi đă vào ăn trưa trong Lăng Minh Mạng vừa ôn chuyện xưa ở Trường Quốc Học năm nào. Sau đó, khi chiến cuộc sôi động trở lại với nhiều bất lợi về phía chúng ta. Anh Vơ Toàn đă được thăng cấp Đại Tá về tham mưu cho Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm ở Sư Đoàn 1. Đầu năm 1975, Quăng Trị lại mất vào tay giặc và VC đang uy hiếp và chiếm dần các  quận quanh Thành Phố Huế.  Sáng ngày 25 tháng 3, Tiểu Đoàn 1 QY chúng tôi được lệnh chuyển lên Bệnh Viện Trung Ương Huế gần như bỏ trống. Bác Sĩ Bùi Hữu Út Tiểu Đoàn Trưởng TĐ1 QY bấy giờ là bạn học Y Khoa Huế khóa trước tôi, đang nhận lệnh Sư Đoàn. Được giao trọng trách như là Tiểu Đoàn Phó, tôi đi quan sát các pḥng của bệnh viện dự trù trường hợp dùng điều trị thương bệnh binh ở đây, ngang qua pḥng mỗ, một người đàn bà níu tay tôi xin cứu con bà sinh khó; dù trong t́nh thế cấp bách, tôi đă giải phẩu sản phụ và mẹ con đều được an toàn. Khi tôi trở lại với anh em th́ được bác sĩ Út cho biết được lệnh rút tất cả về Thuận An. Con đường nhỏ dẫn về làng Tân Mỹ, bên nầy băi biển Thận An đầy ắp đủ tất cả các loại xe, kể cả M113, chúng tôi phải lách khỏi đám đông, lái xe trên triền đường nghiên đến 30 độ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được bến phà Tân Mỹ khi trời đă sậm tối. Những đơn vị đến đây sớm đă lần lược qua băi biển Thuận An. Phần lớn quân và dân đều bị tắt nghẽn tại Bến Phà Tân Mỹ. Một số tàu thủy ở đây không dám đến gần bến phà chỉ sợ dân chúng và binh lính tràn lên quá tải không thể ra khơi được, họ cho tàu đậu giữa Phá Thuận An để người nào có khả năng lội ra được th́ lên tàu. Một anh hạ sĩ quan trong đơn vị đề nghị tôi cỡi bộ đồ trận với các giấy tờ... để trên một cái thùng xốp rồi cùng anh bơi ra tàu, anh hạ sĩ quan vừa đẩy thùng xốp vừa bơi, tôi bơi theo anh ta. Anh hạ sĩ quan nhờ có sức khỏe, bơi nhanh đến tàu trước tôi và được một vài người trên tàu kéo anh ta và thùng lên. Khi tôi chỉ c̣n cách chừng 10 mét th́ tàu rồ máy chạy, tôi vội dạt xa tàu v́ sợ chân vịt tàu quất phải, rồi lội trở lại bến phà. Lúc đó tôi mới cảm thấy cái lạnh của nước trong đêm cuối tháng 3. Thấy tôi run cầm cập, anh binh nh́ phục dịch vẫn theo tôi từ bao lâu, lục ra một bộ áo quần dân sự trao cho tôi. Trong t́nh huống chạy giặc như vậy nhưng không một ai gây huyên náo hoặc chạy loạn; dường như mọi người đă quá thấm mệt và buông tay cho số phận. Quanh tôi, chỉ nghe vài tiếng ŕ rào bàn tán và tất cả lại im lặng sau những loạt súng cối rót về bến phà. Một anh sĩ quan pháo binh vẫn ngồi sau lưng tôi từ chiều bỗng nói:

-Tụi nó dùng súng cối có nghĩa là họ đă khá gần nơi đây!

Không biết bấy giờ anh em trong đơn vị đang ở đâu, yôi lặng lẽ đi t́m xem những ai c̣n ở đây, bỗng thấy một chiếc tàu đang yên lặng, chậm răi tiến đến gần chiếc phà quân đội đậu tại bến phà từ trước lâu rồi, hai bóng đen từ tàu đang móc đuôi tàu với chiếc phà, tôi nhanh chóng nhảy lên phà rồi kéo tay anh binh nh́ vẫn theo tôi cùng lên. Tàu và phà ra giữa gịng Phá, một vài chiếc ghe dân sự được thuê giá cao, phóng theo, nhưng không sao bắt kịp. Tàu chúng tôi ra đến cửa biển Thuận An th́ nghe tiếng súng cối và cả đại pháo nă xuống bến phà, qua ánh lữa lóe sáng, tôi thấy ở đó nhốn nháo hỗn loạn. Một số đạn súng cối bắn theo tàu chúng tôi, nhưng đều rơi xuống nước.  Tàu kéo phà cập bến tại sông Hàn Đà Nẵng trưa 26 tháng 3 1975, tôi nh́n về hướng bắc nơi có Tỉnh Thừa Thiên và Thành Phố Huế mà giờ đó Cọng Quân đă chiếm tràn ngập. Tôi đi bộ t́m nhà người chị vợ mà vợ con tôi đă ở đó từ hơn 2 tuần trước. Dù đă có vé máy bay đi Sàig̣n từ sớm, vợ tôi quyết định ở lại chờ tôi. Sáng hôm sau, 27 tháng 3 1975, anh hạ sĩ quan cùng lội ra tàu với tôi ở Phá Thuận An đến chào tôi và trao trả lại cho tôi bộ quân phục và cái ví. Tôi vô cùng ngạc nhiên và cảm động về hành động đẹp đẽ của người thuộc cấp. Khi tôi cảm ơn anh và ngơ ư biếu anh một ít tiền v́ tôi biết lương tiền hạ sĩ quan không thể nào đủ cho cả gia đ́nh, nhất là hoàn cảnh chiến tranh nầy, anh nói:

-Bác sĩ đừng lo, tôi và vợ xoay xỡ cũng tạm được. Tôi và anh em trong đơn vị rất mến bác sĩ.

Khi tôi hỏi anh ta về anh em trong đơn vị, anh cho biết khá đông anh em và bác sĩ Út đều vào được Đà Nẵng rồi anh cho tôi địa chỉ mọi người sẽ gặp mặt trưa hôm đó. Khi anh ấy đi rồi, tôi mỡ ví ra thấy tất cả giấy tờ cùng số tiền mấy ngh́n đồng và 2 lượng vàng mà vợ tôi đă cẩn thận dặn tôi khi hữu sự cần đến, vẫn y nguyên. Đặc biệt là anh hạ sĩ quan đă sấy khô giấy tờ, tiền bạc kể cả giấy gói vàng và nhất là cái ảnh của con gái tôi . Vợ tôi và tôi đều xúc động nh́n mọi thứ trong ví đều như cũ. Vợ tôi nói:

-Trong thời buổi nầy mà có những con người không tham lam như anh ta thật khó kiếm. Có dịp, ḿnh nên giúp người ta.

Trưa hôm đó, tôi mượn chiếc xe đạp đến đúng địa chỉ đă ghi th́ chỉ gặp vài anh em trong đơn vị đang đứng chờ bác sĩ Út đi đâu vẫn chưa về. Đến chiều, vợ chồng tôi đi gặp chị Vẻ, vợ của Đại Tá Vơ Toàn để mong biết t́nh h́nh. Chị Vẻ là bạn học cũ với vợ tôi, chị cũng không biết ǵ hơn chúng tôi. Chúng tôi chào chị Vẻ ra về, ngang đến cửa th́ Đại Tá Toàn đang bước nhanh lên tầng cấp gác lầu. Anh bắt tay tôi rồi nói:

-Xin lỗi bạn Định, ḿnh phải đi bay với Tướng Điềm bây giờ.

Nói rồi anh bước vào nhà cũng nói vội vă với vợ:

-Anh vào rữa mặt rồi đi ngay, em lấy cho anh bộ áo quần khác.

Tôi không ngờ đó là những lời cuối cùng  mà Đại Tá Vơ Toàn nói với tôi và với vợ anh. Hôm đó, chiếc trực thăng chở Tướng Nguyễn Văn Điềm và Đại Tá Vơ Toàn đă trúng đạn Việt Cọng và rơi tại Sa Kỳ Quăng Ngăi.

Lúc vợ chồng tôi về đến nhà đă nghe bà chị vợ tôi đă mua được vé máy bay đi Sàig̣n cho tôi. Giai đoạn đó mà có được vé đi khỏi Đà Nẵng quă như là trúng số độc đắc. Mua được vé là do chị vợ tôi có quen biết với ông bà Mân, Chi Cuộc Trưởng Hàng Không Việt Nam Đà Nẵng. Trong câu chuyện, bà Mân đă than thở với chị vợ tôi về việc chồng bà đang lên cơn đau bụng v́ quá lo lắng, không t́m đâu ra bác sĩ lúc đó, bệnh viện cũng không ai làm việc... chị vợ tôi nói sẽ nhờ tôi khám và điều trị giúp ông, thế là bà Mân cho xe đến đón tôi. Suốt ngày, ông anh cột chèo lại mở Radio nghe Đài Phát Thanh BBC tường tŕnh về tiến quân của Việt Cọng, tôi vừa bực tức vừa lo lắng đến an nguy của Đà Nẵng, đến khi thấy chiếc xe hơi của Chi Cuộc Hàng Không VN ở Đà Nẵng đến, tôi ra xe đi ngay. Ông Mân bị chứng đau gan từ lâu, da cũng như tṛng trắng mắt đă vàng như nghệ. Tôi chích thuốc giăm đau và uống các loại thuốc về gan. Bà Mân đề nghị gia đ́nh tôi dọn vào ở trong Chi Cuộc Hàng Không để vừa giúp chữa trị bệnh của chồng bà thường đau đớn vào ban đêm, vừa kịp thời ra xe cùng gia đ́nh bà và nhân viên Hàng Không VN Đà Nẵng ra phi trường khi có máy bay. Ngay hôm đó, gia đ́nh tôi vào ở trong Chi Cuộc Hàng Không. Bà Mân đă nhờ người giọn sẵn cho gia đ́nh tôi một pḥng rộng răi đầy tiện nghi. Suốt ngày, bà Mân không hề rời máy Motorola, liên lạc và không ngừng kêu cứu Sàig̣n. Bà cũng báo cho Sàig̣n biết t́nh h́nh Đà Nẵng đang bị VC tấn công tới tấp. Qua loa phát âm, tôi nghe được là Sàig̣n sẽ gởi máy bay DC6 ra Đà Nẵng đón nhân viên vào Sàig̣n. Tối 28 tháng 3 1975, sau khi khám và chích thuốc cho ông Mân, tôi trở lại pḥng. Vào lúc 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3, gia đ́nh tôi mới vừa chợp mắt sau mấy ngày quá mơi mệt và căng thẳng tinh thần, bỗng từ ngoài đường, tiếng đám đông người la hét với tiếng xe gầm rú cùng tiếng xích sắt rít, kéo hai cánh cửa sắt của Chi Cuộc Hàng Không VN đỗ sầm làm làm rung chuyển cả toà nhà, rồi nhiều tiếng chân chạy rần rật vào bên trong. Các con tôi hoăng sợ ôm chầm lấy chúng tôi, cả nhà đang lo lắng nh́n quanh. Bỗng tôi cảm thấy đôi mắt cay xè, tôi biết ngay là họ đă dùng lựu đạn cay. Tôi vội mở cửa hông nhà đẩy vợ con tôi ra khỏi căn pḥng đang ngập khói hơi cay. Tôi lo kiếm nước tẫm ướt khăn lông hầu lau mặt và mắt mấy đứa con. Sợ bọn cướp tấn công, tôi bảo các con im lặng dù mắt cay muốn khóc. Chừng 10 phút sau, tiếng ồn đă vơi dần, khi khói cay đă hết, chúng tôi vào lại pḥng. Cậu con trai của ông bà Mân gơ cửa pḥng, cậu nói nhỏ:

-Họ đă phá cửa trước vào hốt sạch hàng hóa của hành khách gởi. Bác sĩ và cả nhà đừng sợ, họ đi hết rồi.

Cậu con trai con ông bà Mân khoảng 12 tuổi hướng dẫn gia đ́nh tôi bước ra cửa sau nhà. Trong đêm tối, một chiếc xe thường dùng chở hành khách của Hàng Không VN không bật đèn chầm chậm trờ tới, trên xe đă có sẳn mấy gia đ́nh công nhân của Chi Cuộc. Khoảng 5 ,6 gia đ́nh khác cũng đang im lặng đi tới, anh tài xế dùng bật lửa hướng dẫn họ lần lược lên xe. Trời không lạnh lắm, nhưng trong t́nh trạng lo lắng,nên mọi người đều run cầm cập. Con trai ông bà Mân nhờ tôi giúp tăi những thùng két đạn bên trong tôi nghĩ là đựng vàng. Sẳn chiếc cán chổi dựa tường, tôi lấy chuồi vào tay cầm 2 thùng rồi mỗi người một đầu cán đi ṭng teng làm cán oằn xuống ở giữa. Cuối cùng cậu nhỏ và tôi cũng đưa được 4 thùng nặng kịch lên xe và để dưới chỗ ngồi của hai hàng ghế gần tay lái dành cho gia đ́nh ông bà Mân. Hai ông bà chỉ có hai đứa; trai lớn 12 tuổi và đứa gái mới 9 tuổi. Hai băng kế là gia đ́nh tôi. Người tài xế kiểm soát từng gia đ́nh trên xe rồi từ từ cho xe chuyển bánh. Ông Mân ôm bụng đầu tựa vào lưng ghế phía trước. Bà Mân vẫn tiếp tục liên lạc với Sàig̣n suốt đoạn đường đi. Xe đang đi về hướng phi trường Đà Nẵng. Đến nơi th́ trời mới hừng sáng, xe không thể vào phi trường v́ tất cả các cửa ra vào đều bị đóng kín và lố nhố người đang lăm le súng giữ cửa, thêm nữa xe đủ loại vô chủ, bỏ ngỗn ngang khắp ṿng đai quanh hàng rào phi trường cản hết lối đi. Qua máy Motorola, tôi nghe giọng nói của nhân viên Tổng Cục Hàng Không VN từ Sàig̣n nói với bà Mân là một máy bay DC6 sắp đáp xuống sân bay. Máy bay đang trên đà đáp xuống th́ súng máy đủ loại hướng về chiếc máy bay, chiếc máy bay lượn thêm hai ṿng rồi bay mất dạng. Bà Mân giọng đă khàn, nói như thét vào máy. Ông Mân ngẩn đầu dậy nói:

-Không xong rồi!

Bà Mân chỉ huy:

-Anh tài! Kế hoạch 2!

Anh tài xế dạ một tiếng rồi đánh xe một ṿng hướng về hướng Tiên Sa. Tôi đoán chừng là Tổng Cuộc ở Sàig̣n gởi tàu thủy đến bờ Tiên Sa nếu không đi được bằng đường hàng không. Quang cảnh đường dẫn đến Tiên Sa không khác ǵ ở phi trường; xe cộ với bánh lún sâu trong cát ngă nghiên; hàng hóa, giày dép vung văi khắp nơi. Xe vừa đi vào băi cát, hàng loạt đạn pháo kích rít gió ào ào rót xuống, tiếng nỗ chát chúa, đoàn người đang đi bỗ nhào xuống cát ẩn núp rồi lại chạy tiếp. Hầu hết gia đ́nh công nhân của Chi Cuộc Hàng Không Đà Nẵng đều hấp tấp xuống núp dưới xe. Tôi không thấy gia đ́nh ông bà Mân ẩn núp nơi nào. Gia đ́nh tôi chưa kịp xuống xe v́ năm đứa con khi nghe tiếng nổ hoảng sợ ôm lấy ba mẹ. Một số gia đ́nh công nhân Chi Cuộc trở lại xe, xe vẫn đang nổ máy, anh tài xế cho xe lui một đoạn rồi quay mũi xe hướng trở lại thành phố Đà Nẵng. Nh́n cục diện ở Tiên Sa, tôi nghỉ rằng khó mà kiếm được tàu hay ghe ở băi biển, nên gia đ́nh tôi vẫn ngồi lại trên xe. Khi xe đang chạy trên đường phố Đà Nẵng, có mấy người xin xuống, xe dừng lại, gia đ́nh tôi cũng xin xuống theo, v́ từ chỗ dừng đến nhà chị vợ tôi trên đường Đống Đa không bao xa. Khi bước đến bên cửa lên xuống bên hông xe, một bao tải lớn chắn ngang lối đi, tôi dẫm lên bao tải để xuống xe mới biết bên trong toàn là giấy bạc, gia đ́nh tôi trở lại nhà bà chị vợ. (Mấy ngày sau, tôi gặp lại ông Mân, bấy giờ ông đă đi đứng lại b́nh thường. Ông Mân cho tôi biết trong bao tải trên xe chứa 6 triệu đồng, là tiền hành khách mua vé;  ông c̣n nói là bà con ai c̣n giữa vé máy bay, cứ đem vé lại để lấy lại tiền). Khoảng 8 giờ sáng 29 tháng 3 1975, khi gia đ́nh chúng tôi vừa về đến nhà th́ gia đ́nh người bà con anh chủ nhà ra đi, bảo là đă thuê được ghe. Đến chiều, gia đ́nh ấy trở lại, ông chủ gia đ́nh đó kể rằng đứa con dâu đang mang thai trèo lên dây thừng để lên tàu cao, chịu không nỗi nên buông tay. Tôi nghe câu chuyện quá buồn, lặng lẽ ra ngồi ghế xếp dưới mái hiên trông ra đường. Trước nhà là một công viên với những cây đại thụ cao, một anh lính đầu trần đang thất thểu trên đường bên kia công viên, bỗng anh hét lên và đập mạnh khẩu súng M16 nhiều lần vào gốc cây bên đường, từng mănh của cây súng văng vung văi, anh lính vừa đi vừa tiếp tục hét đến khăn cả tiếng...Một lúc sau, cũng bên kia công viên, một chiếc xe hơi kiểu du lịch màu trắng chạy chậm rồi dừng lại, các cửa kiếng đều kéo lên kín, nhưng tôi vẫn thoáng thấy hai ghế trước và băng sau đều có người lố nhố. Khoảng 10 phút sau, một ánh lửa lớn bỗng bùng lên bên trong xe, đồng thời một tiếng bùm khô khan vang lên. Chiếc xe lúc lắc một hồi rồi im lặng. Tim đập nhanh, tôi hốt hoăng đứng giậy, nhưng nghỉ lại ḿnh chẳng giúp ǵ được, tôi buông người xuống ghế. Lửa trong xe vẫn c̣n cháy chừng 5 phút rồi tắc ngấm, cửa kính đen cả khói. Tất cả đều im lặng. Những người qua đường nh́n chiếc xe một lát rồi cúi đầu đi thẳng. Ai cũng đang mang nỗi buồn và mối lo cho tương lai sắp đến của ḿnh. Tôi không biết bao nhiêu người tự tử trong xe; có thể là trọn một gia đ́nh. Đó là chiều 29 tháng 3 năm 1975. Hai sự kiện chấn động tột độ diễn ra trước mắt mà tôi đành như một người bàng quan; anh lính và gia đ́nh trong xe hơi biểu lộ sự chán chường  thất vọng của ḿnh bằng một sự đập phá; người th́ đập nát cây súng đă một thời vào sinh ra tử bên ḿnh và cả một gia đ́nh bấy lâu vẫn hạnh phúc th́ giờ phải hũy bỏ cả mạng sống của họ.

Sáng hôm sau, 30 tháng 3, tôi đến bệnh viện Đà Nẵng mong làm được việc ǵ hữu ích. Một số bác sĩ, y tá và nhân viên bệnh viện cũng đă trở lại làm việc. Họ tự động lập một ban điều hành để phân nhiệm cho mọi người. Tôi t́nh nguyện chọn pḥng Nhi Đồng khi không ai nhận. Hai cô y tá và tôi lo xếp dọn lại pḥng ốc với bàn ghế, giường nằm và dụng cụ ngỗn ngang với sàn nhà vấy đầy nước, giấy tờ cùng bao nylon...Bệnh nhân trẻ em được cha mẹ mang đến ngồi chờ chật cả pḥng đợi. Khi mọi thứ đă khá tươm tất, bệnh nhân tràn vào chiếm giường bệnh. Trẻ em phần lớn mắc chứng tiêu chảy, sưng phổi và lên Sởi (Sưởi). Có vài bà mẹ bồng trên tay đứa con đă chết mà không biết v́ đă qua nhiều ngày không thuốc men. Chúng tôi làm việc không ngừng, không có th́ giờ ăn trưa, đến 7 giờ chiều tôi mới rời bệnh viện. Chúng tôi được cấp một giấy chứng nhận làm việc bệnh viện để tiện đi đường hoặc tŕnh bộ đội xét nhà vẫn thường xuyên xẫy ra. Sau 3 ngày làm việc, sáng mồng 1 tháng 4, loa phóng thanh vừa đặt khắp thành phố ban hành lệnh tập trung những người trong chính quyền và quân đội Miền Nam tại một nơi trước là M.A.C.V của Mỹ. Khi mọi người đă ngồi chật cả sân ciment, 2 anh bộ đội đóng cửa và từ trong một pḥng xuất hiện nhiều bộ đội, tất cả đều lăm le khẩu súng AK 47 răi đều quanh chúng tôi. Cái khung cảnh mà tất cả chúng tôi ngồi đầy giữa đất và phía bậc thềm cao để một cái bàn và một chiếc ghế độc nhất sẽ thấy tái diễn nhiều lần trong những trại tù về sau nầy. Rồi họ tuyên bố là chúng tôi sẽ được chuyển đến một nơi để học tập cải tạo, một cụm từ rất xa lạ với chúng tôi lúc đó. Tôi lo vợ con tôi khi không thấy tôi trở về sẽ hoăng hốt nghĩ rằng tôi đă bị thủ tiêu như sự kiện đă xẩy ra trong dịp Tết Mậu Thân. Tôi đứng dậy đến tŕnh giấy làm việc bệnh viện của tôi với anh bộ đội chỉ huy và xin về để bàn giao công việc và họ đă để tôi ra khỏi ṿng rào. Về đến nhà, tôi không c̣n tinh thần để làm việc nữa v́ biết không sớm th́ muộn rồi cũng sẽ phải đi "học tập cải tạo", những chữ hoa mỹ đó mà về sau, hơn môt triệu người Miền Nam và bản thân tôi đều biết thực chất c̣n tệ hơn một "nhà tù khổ sai", v́ ngoài khổ dịch và giam đói, chúng tôi sống mà không biết lúc nào bị bọn cai tù xách vào rừng giết rồi vất xác chẳng hay như trường hợp hai anh Sang và Minh tại tiểu trại 3 Ái Tử. Thế là ngày hôm sau, gia đ́nh tôi thuê xe trở về lại Huế để rồi cuối cùng vào ngày 1 tháng 6 năm 1975 cũng lên đường vào tù cùng với anh bạn trẻ lối xóm, anh Dương Đ́nh Long (đă quá văng sau khi đă định cư tại California Mỹ).

 

Cuộc đời quân ngủ của tôi như vậy đó, ngày vào quân đội th́ có mà ngày chấm dứt th́ không, hoặc đúng ra là chấm dứt bằng một thăm cảnh cùng với một quân đội thiện chiến mà buông súng quy hàng, để rồi hàng triệu người cùng tuổi như tôi, bị chôn vùi tuổi trẻ, cái tuổi của sức sống vương lên, cái tuổi để xây dựng gia đ́nh, vun đúc sự nghiệp. Nh́n lại, với 5 năm trong quân ngủ mà trả 10 năm trong tù Cọng Sản, trở về nhà với đủ thứ bệnh, khổ cho người vợ đau ḷng chăm sóc.  Vậy mà khi tuổi bước qua bên kia ngọn đồi (top of the hill) lại được sống tự do trên đất nước nầy với đầy đủ vợ và các con cháu. Một điều sung sướng nữa là suốt gần hai chục năm nay, tôi c̣n được gặp gỡ các chiến hữu, các cựu tù của tôi ở khắp nhiều tiểu bang. Hóa ra cuộc đời như gịng sông, có lúc quanh co khúc khỉu, băo tố, bùn lầy... mà cũng có lúc lại được song suốt ngữa mặt nh́n trời xanh biếc. Chỉ ước mong một điều là vận mạng đất nước rồi ra cũng giống gịng sông, sẽ được trong xanh, tươi mát và thong dong tự do chảy chứ không ứ đọng và đục ngầu màu máu như hiện tại.

 

Florida, tháng 3 năm 2012

BS Hoàng Thế Định

 

 

Trở về trang chủ