LỚN LÊN VỚI
TRƯỜNG PROVIDENCE
Vào một buổi sáng nào đó trong mùa hè
sau khi tôi vừa học xong lớp Nh́ tại trường
Tiểu Học Đồng Khánh, Măng tôi bỗng kêu tôi ra
và nói tôi mặc áo quần vào để theo
bà đến trường
Trên đường về lại nhà, tôi
khóc quá chừng. Trời
ơi, đang c̣n học chung với một lũ con gái
từ các lớp Ấu Trĩ lên đến lớp Nh́
ở Tiểu Học Đồng Khánh, đang c̣n
được làm hoa làm nhụy giữa một đám
giặc nữ theo kiểu gươm lạc giữa
rừng hoa, chơi rành các tṛ chơi con gái như nhảy
dây, nhảy c̣ c̣, đánh thẻ, ô làng, búng dây cao su, cút
bắt, ù mọi mà hễ bên nào có được tôi là bên
đó thắng lớn v́ tôi chụp được chị
nào ôm cứng chị đó khiến chị ré cười
nên tắt tiếng không ù tiếp được. Nay
đổi trường phải đi học xa nhà, lớp
hoàn toàn con trai, lại bắt học toàn tiếng Pháp mà
trước đây tôi có biết chữ đui nào; hơn
nữa trong pḥng Cha Tôn tôi có thấy một hàng roi mây, cái nào
cái nấy đều tua cái đầu. E chết! Măng
tôi rất cương quyết, vừa la vừa dỗ, nào
là sang năm tôi lớn rồi bà Hiệu Trưởng
Đồng Khánh sẽ không cho tôi học chung lớp
với con gái nữa, Măng tôi sẽ mua cho tôi chiếc xe
đạp mới, ráng noi theo gương anh Fan đi (anh
đầu của tôi cũng xuất thân từ
trường Providence dưới thời của Cha Viry), vả
lại học tiếng Pháp dễ ẹt, không biết th́
cứ học thuộc ḷng là xong hết, hay hỏi mấy
anh chị hoặc Măng…
Và như vậy bỗng nhiên tôi trở
thành học tṛ chương tŕnh Pháp của trường
Năm đầu tiên khi tôi đến
học, tôi có nh́n và có biết cũng như c̣n nhớ khá
nhiều người đang học những lớp trên
tôi, cách lứa của chúng tôi có đến 6-7 năm. Trong đám đó có hai người
bà con của tôi là Nguyễn Viết Quư, con d́ ruột
của tôi và Trần Văn Thuấn, con của cô ruột
tôi. Ngoài ra tôi cũng nhớ ra được các anh chị
Lê Đ́nh Thương, Hoàng Trọng Mộng, Vĩnh
Tráng, Lê Khắc Thanh Túy, Lê Khắc Thanh Lô (2 chị của
bạn cùng lớp của tôi), Bùi Thế Cần, Bùi Thế Phiệt, Từ Tôn Sa,
Nguyễn Thế Minh (lúc đó đang tu thầy và sau này
trở thành parrain của tôi khi tôi rước Lễ Thêm
Sức), rồi anh Dương Quang Hớn. Nghe các anh
chị đấu láo x́ la xi lô với nhau bằng tiếng
tây, tôi rất cảm phục v́ lúc đó tôi chỉ
bắt đầu hiểu và xài chút chút tiếng Pháp của
tôi với câu chào hỏi thường xuyên vào buổi sáng Bonjour
mon père và câu đáp lại Merci mes enfants trong
đầu các giờ học. Sau này tôi c̣n
biết thêm là quư anh Vĩnh Khiêm, Tăng Nhiếp, Vĩnh
Phong... cũng có học qua trường
Ngay từ lúc đầu tiên lớp tôi
không đông lắm, khoảng gần 30 người. và cũng khoảng
chừng đấy học tṛ từ năm Septième cho
đến năm Troisième, có năm nhiều hơn một
chút v́ có khoảng chừng mười một chú của nhà
ḍng Chủng Viện địa phận Huế
được gởi vào học chung. Kể từ năm
Troisième trở đi, con số có giảm v́ có nhiều
bạn trong lớp débrouillard hơn đă nhảy ra đi
thi băng ở chương tŕnh Việt và đậu tú
tài Việt trước khi chúng tôi đậu tú tài Pháp. Trong
số những bạn nối khố từ năm Septième
Spéciale tôi vẫn nhớ tên là các bạn Lê Khắc Hiển,
Nguyễn Ngọc Trân, Nguyễn Duy Trường, Bùi Văn
Ái, Nguyễn Quốc Anh, Vĩnh Việt San, Đào Văn Nhẫn,
Nguyễn Văn Sa, Trần Viết Hùng, Lê Văn Thi,
Nguyễn Văn Hoàng, Trần Văn Hoá (con của Thầy
Trần Văn Thông, dạy Pháp Văn ở trường
Thiên Hựu), Nguyễn Văn Kiệt (sau đổi thành
Lân). Về phía các chú đi tu, có đến 11, 12 chú tất
cả, trong đó có Phan Xuân Thanh, Nguyễn Văn Lư, Hùng,
Sơn (Đà Nẵng)… Đến khi tôi lên Seconde,
trường
Những Cha dạy chúng tôi từ lớp
Septième Spéciale cho đến Première đa số là các cha ḍng
triều thuộc về bộ truyền giáo Missions Étrangères,
như quư cha Oxarango, Petitjean, Florent, Lefas, Duval, Echeron (đi
xe b́nh bịch), dạy đủ môn từ tiếng Pháp, Littérature
Française, Mathématiques, Physique, Chimie, Histoire, Géographie, Anglais,
Sciences… Riêng Việt Văn và Công Dân Giáo Dục, tôi chỉ
nhớ đến 2 thầy, đó là thầy Nguyễn
Thế Thoại, cha của anh Nguyễn Thế Minh, và anh
Bùi Thế Cần. Anh Cần thuộc thế hệ
trẻ, nhưng lại hiền chi lạ, cũng là học
tṛ của cha Lefas, được đề cử dạy
chúng tôi Việt Văn rất chu đáo và tận tụy
trong 2 năm Troisième và Première. Cũng nhờ anh mà giờ
này tôi vẫn c̣n nhớ đến các chuyện của nhóm
Tự Lực Văn Đoàn, hay thuộc ḷng bao nhiêu câu
thơ của Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Đoàn
Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan… để không
cảm thấy hổ thẹn khi phải đấu láo
về văn chương Việt Nam với các bạn bè.
Riêng những cha Việt của trường Thiên Hựu,
ngoài cha Tôn c̣n có quư cha Huynh, cha Trinh, cha Phương, cha Trọng, và quư thầy
Nguyễn Thế Minh, Nguyễn Văn Lợi. Một vài
năm sau các thầy Minh và thầy Lợi đều
lần lượt được thụ phong linh mục,
Cha Minh thuộc ḍng Jesuit, và cha Lợi thuộc ḍng
triều.
Măng tôi nói học tiếng Pháp không
mấy khó. Nhưng
đối với tôi lúc mới vào học, nghe tiếng Pháp
th́ quả là hay, cứ như chim hót bên tai,
thế nhưng học chữ Pháp quả là khó nhiều.
Tại lớp nghe riết rồi cũng phải hiểu,
bắt đầu là một chút, rồi đến hai chút,
ba chút, un, deux, trois, ça ci!… và cứ
thế từ từ hiểu nhiều hơn, đọc
giỏi hơn, viết ít sai hơn. Rồi nói
được tiếng Pháp nhiều hơn, đúng hơn,
hay hơn. Không như tại Mỹ hồi mới
định cư nói tiếng Anglais không những phải
múa miệng mà c̣n múa cả tay chân
nữa, hồi ở trường
Qua các năm học, tôi được
xếp hạng trong khoảng từ thứ nhất
đến thứ năm, cùng với các bạn Lê Khắc
Hiển, Nguyễn Duy Trường, Nguyễn Văn Lân,
Nguyễn Ngọc Trân. Các môn tôi thích là Histoire, Géograpie và Littérature
Française. Và thường cuối năm tôi cũng có một,
hai phần thưởng. Khách quan mà nói, tôi học không
đến nỗi tệ nhưng cũng không có ǵ xuất
sắc cho lắm dù là tài học thuộc ḷng và trí nhớ
của tôi rất tốt, coi như là passable cho dễ
hiểu (tiếng Mỹ kêu là so so hoặc average!).
Đến năm Troisième cả lớp được
chở vào Tourane (nghe cho oai, chứ đó là Đà Nẵng!)
để thi Brevet. Tôi ở trong nhóm “tứ cố vô thân”
được cho ở chùa hai ngày tại ngay trường
Lycée Pascal để dự thi. Mỗi ngày lũ chúng tôi
chừng khoảng mươi đứa ùa ra bên ngoài
phố ăn sáng và ăn tối, hưởng
được sự tự do đầu tiên khi xa nhà.
Đến trưa th́ trường Lycée cho ăn bánh ḿ tây
kẹp fromage và thịt nguội. Ban đêm ngủ tại
dortoir, trong trường Pascal có ông giám thị to lớn
người Pháp xem chừng. V́ có nghe kể lúc xưa
trường Pascal là một bệnh viện quân
đội, có nhiều người chết ở đó, nên
đến đêm tôi rất sợ ma và trùm mền kín lên
đầu và không dám thức dậy đi tè nửa đêm.
Về lại trường Providence sau khi thi, các cha Pháp
hỏi han lo lắng thi cử của các tṛ. Kết quả
sau một tuần là tất cả 28 tṛ đều
đậu. Các cha hănh diện và chúng tôi cũng vui lây.
Măng tôi th́ quả có vui nhiều và thưởng tôi
tiền để bao nhóm bạn trong xóm Đồng Khánh
đi xi-nê. Đây chỉ qua là một thông lệ mọi
người trong xóm thực hiện mỗi khi đi thi và
đậu.
Những năm
đầu tiên tôi thường về nhà đúng giờ vào
buổi chiều, ngoại trừ khi nào bị consigne.
Về nhà th́ phải nói láo với Măng là ở lại học
thêm. Nhưng rồi từ lớp cinquième trở đi, tôi
thường ở lại trường để coi đá
banh và học chơi đá banh v́ trong lớp tôi có Trần
Văn Hóa, con thầy Thông, đá banh tuyệt cú mèo. Không
những vậy, cả gia đ́nh thầy Thông, với 4-5
người con trai, thành lập một hội đá banh có
tiếng dưới sự dẫn dắt của chính
Thầy. Ngoài đá banh ra, tôi cũng có học chơi Ping Pong
nữa! Về lại xóm Đồng Khánh, tôi lại đem
tài đá banh và chơi Ping Pong ra để former một
groupe cùng chơi với nhau dài dài về sau, kể luôn
với cả Badminton! Tôi c̣n nhớ những lần tham
dự họp liên trường tư thục ở
trường B́nh Linh, hay các biểu t́nh với tất
cả những trường của Huế ở
Thương Bạc, trước Phú Văn Lâu. Tất
cả mọi tṛ lập thành đội ngũ đi bộ
hàng dài đến các nơi chỉ định.
Đường có xa, và trời nóng, nhưng tôi vẫn thích
v́… khỏi học trong lớp, và ra bên ngoài có cơ hội
chuồn về nhà sớm. Thỉnh thoảng chúng tôi
cũng được “xỏ mũi” đưa đi
thăm trường nữ Jeanne d’Arc, hay được cho
đi du ngoạn ở Thiên An, ở Đồi Vọng
Cảnh, biển Thuận An, biển Cảnh Dương…
Ở lớp lớn hơn, Seconde và Première, tôi thường
đi chơi với các bạn sau giờ học mà không
cần xin phép nhà trước, lẽ đương nhiên
phải vào những buổi chiều không có devoirs nào và sáng
hôm sau không cần trả bài. Đó là những dịp ghé
đến Chaffangeon mua paté chaud và croissant vừa đạp
xe vừa xuưt xoa ăn, nhất là khi trời trở
lạnh, hay về nhà bạn Vĩnh Việt San nằm nghe
nhạc đĩa của Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Johnny
Holliday… hoặc ngồi sau lưng bạn trên xe Velosolex
rề rề chạy qua các đường gần
trường vui chơi một vài giờ… Và cũng có lúc
tôi phải đạp xe qua tận nhà của bạn
Nguyễn Văn Lân ở tuốt xa trong Thành Nội nhờ
bạn giải giùm cho một bài toán khó.
Vào hè năm chúng tôi thi Brevet,
bạn Nguyễn Văn Hoàng (tự là Hoàng Lé) thi “băng” Tú
Tài Bán Phần của chương tŕnh Việt và
đậu. Có nghĩa là sau khi đậu, Hoàng coi như
học trên tôi 2 năm. Quả là xuất sắc! Năm
Seconde, Hoàng vừa học chung với chúng tôi, vừa
học thêm bên lớp Đệ Nhất ở trường
Bán Công và cuối năm ấy Hoàng cũng đậu luôn Tú
Tài Toàn Phần và sau đó Hoàng được học
bổng đi học phân khoa Chính Trị Kinh Tế khóa 1,
mới mở tại Viện Đại Học Đà
Lạt. Hoàng là người đầu tiên mở
đầu phong trào nhảy lớp đi thi. Sau Hoàng “Lé”
đến lượt các bạn có vẻ hơn tôi vài
tuổi như bạn Thi, Sa, Lân, Sang… đều nhảy
lớp và thi đậu Tú Tài Bán Phần chương tŕnh Việt
vào hè Seconde, và Tú Tài Toàn Phần vào hè Première để sau
đó vào đại học trong khi tôi vẫn lè tè bắt
đầu lớp Terminale. Do con số học sinh ít
dần, thêm vào đó tất cả các chú đi tu
được gởi vào học ở Chủng Viện
Đà Lạt, Trường Providence quyết định
không mở tiếp lớp Terminale. Thế là chúng tôi
phải chuyển trường. Đa số các bạn trong
lớp như Hiển, Trường, Trân... vào Saigon theo
học trường Jean Jacques Rousseau, một số ít khác
học trường Yersin ở Đà Lạt. Riêng tôi
một ḿnh khăn gói vào Đà Nẵng học năm
Terminale tại trường Pascal. Nói một cách khác,
lớp Septième Spéciale của tôi là lớp đầu tiên
được mở lại ở trường Providence
vào năm 1959 và sau 7 năm, Providence chính thức chấm
dứt chương tŕnh Pháp, và các lớp c̣n lại từ
Première trở xuống Sixième được sáp nhập chung
với các lớp thuộc chương tŕnh Pháp tại
trường Jeanne d’Arc.
Trong những dịp
đặc biệt như Noël, 14 Juillet… lớp chúng tôi cùng
nhau đóng góp mua quà biếu cho các cha Pháp. Người
thường được anh em trong lớp tín nhiệm
về chuyện này là Nguyễn Ngọc Trân , vừa
đảm nhận quyên góp tiền vừa đi mua sắm
quà đúng với số tiền ít ỏi, vừa làm
đại diện lớp chúc mừng các cha. Thỉnh
thoảng cũng có thay đổi người chúc mừng,
nhưng cá nhân tôi chưa bao giơ dám mở miệng cóc ra
nói được tiếng tây trong những dịp vui
đó. Hú hồn! Thông thường cả lớp
được các cha cho ăn chocolat và nghe nhạc ḥa
tấu. Thỉnh thoảng, một vài học tṛ học
giỏi trong lớp tôi cũng được thưởng
cho ăn sáng với bánh ḿ ópla, bơ, thịt nguội và
uống sữa trong pḥng ăn chung của nội trú.
Nhiều lắm là tôi được cho ăn sáng như
vậy… một lần. Lớp càng cao, bài học càng khó
lần, nhất là Mathématiques, Géometrie, Algèbre Moderne. Môn Chimie
có cha Oxarango, cha Duval kiêm luôn vừa Math vừa Physique. Môn
Français kể cả Littérature Française, Géographie, Histoire, Anglais
do cha Lefas dạy. Do đó, không có ngày nào chúng tôi không có 2-3
giờ học với cha Lefas. Đôi khi chán ghê đi,
nhất là những khi mệt cha hay nói làm ràm trong miệng
sau bộ râu, chúng tôi đành thay phiên nhau đưa tay xin ra
bên ngoài đứng hóng gió vài ba phút rồi quay trở vào.
Hầu như ngày nào cũng có bài làm ở lớp, hai ba bài
làm ở nhà cho ngày hôm sau hay cho tuần tới. Ở
những năm cuối, từ từ tôi là người
thường phải thức học khuya nhất trong nhà,
v́ tôi đâu chịu bỏ qua những vui chơi với các
bạn cùng lớp sau khi dứt học hay với các
bạn trong xóm Đồng Khánh những chiều khi đi
học về.
Đọc sách là một
lư thú với tôi hồi đó. Ở trường Providence,
chúng tôi thường được hướng dẫn
đọc vô số sách thuộc về văn chương
Pháp, bao gồm luôn cả những đại tác phẩm
của những văn hào, không chỉ người Pháp, mà
bao gồm của những tác giả người Anh, Nga,
Mỹ, và những tác phẩm của những người
trúng giải Nobel Văn Chương... Guerre et Paix, La
Résurrection, Anna Karénine, Les Hauts de Hurle Vent, A l’Est d’Eden, Le Vieil
Home et La Mer, Adieu Aux Armes, La Terre Chinoise, Les Fils de Wang Lung, La
Vingt Cinquième Heure, Le Soleil Se Lève Aussi, Les Vertes Années, La Citadelle... Riêng Lê Khắc Hiển
và tôi c̣n thích thú đọc thêm những sách về La Guerre
Mondiale 2, La Guerre de l’Indochine, như Couler la Bismark, L’Embarquement
en Normandie, La Bataille de Dien Bien Phu, Le Tocsin de l’Indochine, Je suis Médecin
à Dien Bien Phu. Đa số sách
chúng tôi đọc được mượn từ tủ
sánh của cha Petit Jean… Đặc biệt bạn
Hiển vẽ các máy bay khu trục Spitfire của Anh, Messerchmidt
của Đức, P.48 Thunderbolt của Mỹ rất
đẹp, luôn làm tôi khâm phục, cả cho đến bây
giờ. Riêng với gia đ́nh, tôi cũng rất ham
đọc các sách tiếng Việt chung với các anh
chị em trong nhà, từ truyện Tây Du Kư, Nhạc Phi,
Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thủy Hử…
cho đến các truyện hiện đại, thời
sự, truyện dịch, và nhất là các truyện kiếm
hiệp mà đến giờ vẫn c̣n mê mẩn khi
đọc lại.
Trong tất cả các cha
dạy chúng tôi, có lẽ cha Lefas chú ư đến tôi và
thương tôi nhiều hơn những cha khác, nhất là
về sau. Chắc cũng do ông anh đầu của tôi
thỉnh thoảng có t́m đến thăm Cha sau khi ra
trường và làm việc gần Huế. Ngay cả chính
tôi cũng vậy, sau khi bắt đầu vào học ở
Đại Học Huế, tôi cũng thường xuyên
viếng thăm cha Lefas vài ba lần trong mỗi năm. Và
điều làm cha vui thích ở chỗ tôi vẫn tiếp
tục đối thoại với cha bằng tiếng Pháp,
cũng như khoe với Cha về chuyện học của
tôi ở trường Y Khoa. Đến khi Cha quá bận
dạy ở Văn Khoa Đại Học Huế, Cha
ngỏ ư muốn nhờ tôi dạy Anh Văn cho lớp Troisième
tại trường Jeanne d’Arc, mỗi tuần chỉ 2
giờ thôi. Tôi c̣n nhớ Cha nói đại khái như sau “C’est
le même livre d”Anglais que tu a eu au Troisième. Et voici mes notes et mes
traductions française en Anglais, et anglaise en Français, si tu veux utilizer pour
la classe”. Tôi tính nhanh trong đầu mỗi giờ
được trả 250 đồng, mỗi tháng có hai ngàn
để tiêu thêm. Được lắm! Vả lại lúc
ấy tôi học năm thứ 4 trường Y Khoa Huế,
buổi sáng đi lâm sàng ở Bệnh Viện sau 9 giờ,
chiều mới vào lớp học. Tôi có làm vẻ khó khăn
chút đỉnh trước khi nhận lời Cha, nhất
là sau khi Cha hứa giờ dạy Anglais sẽ vào buổi
sáng sớm và tôi chỉ dạy đỡ cho Cha một
năm thôi. Giờ đây nghĩ lại, tôi quả can
đảm, v́ đến khi vào dạy thực thụ
mới thấy th́ giờ soạn bài, chấm bài không
phải là ít, ngoài ra c̣n phải ăn mặc đàng hoàng,
nói năng tiếng Pháp chững chạc và song suốt… Có lẽ
tôi cũng là một học tṛ cưng của cha Lefas nên
được Cha tín nhiệm như Cha đă từng tín
nhiệm đàn anh Bùi Thế Cần dạy Việt Văn
cho lớp chúng tôi!
Bà vợ ở nhà
thường chọc tôi là dân trường Tây... Ninh, v́ ai
xuất thân từ trường Pháp cũng nói tiếng Pháp
như gió, vậy mà giờ này đụng đến
tiếng Pháp không những tôi nói với miệng vừa múa
cả tay chân mà c̣n chêm thêm vài ba chữ Mỹ nữa
chứ! Nghe mà đành cười v́ bẵng đi cả
gần 40 năm chẳng nói một tiếng tây tiếng u
nào cả, cũng chưa một lần du lịch Pháp
Quốc để được nghe và thực tập
lại la langue maternelle dù đọc sách tiếng Pháp
vẫn hiểu tuy có chậm đi. Trong thập niên 80 và 90,
tôi có ư định sang Paris để thăm các Cha Lefas và Petitjean,
nhưng không thực hiện được. Bây giờ
đă trễ. Vào đầu năm 2005, sau khi tôi viết
thư cho Ministère de L’Éducation Nationale của nước Pháp
xin lại Duplicata của diploma Baccalaureat Seconde Partie en
Sciences Expérimentales tôi đậu năm 1966, và bị thất
lạc năm Mậu Thân 1968 tại Huế, và sau nhiều
tháng chờ đợi v́ thư của tôi được
chuyển qua nhiều văn pḥng khác nhau, tôi đă nhận
được phó bản của văn bằng Tú Tài Pháp.
Giờ đây, bản Duplicate đó cũng được
đóng khung và treo trên tường ở ngay bàn computer tôi làm
việc hằng ngày, bên cạnh những văn
bằng khác.
Như vậy,
đời học sinh của tôi gắn liền với
trường Providence, từ Septième cho đến Première. Bảy năm học ở
một trường. Bảy năm lớn lên với một
trường. Bảy năm
trưởng thành trong một môi trường giáo dục
hoàn hảo là thời gian quả thích ứng chuẩn
bị cho tôi khi bước chân vào đại học. Những trang bị văn hoá, những tôi
luyện trong kỷ luật, những phát triển toàn
diện đă không ít th́ nhiều mang đến cho tôi thành
quả của ngày hôm nay. Qua bao nhiêu năm, qua bao nhiêu
trở ngại, thăng trầm, Trường Providence /Thiên
Hựu đă có công đào tạo một con số khá
lớn chất xám cho đất nước Việt Nam.
Hàng hàng lớp lớp đàn anh đàn chị đàn em
đồng môn, ở trong nước cũng như ở
Hải Ngoại, đă và đang là gương thành công trong
xă hội, tiếp tục làm rạng rỡ tên ngôi
trường thân yêu. Trong niềm hănh diện chung và trong
sự biết ơn đến công sức các Cha đă
dạy dỗ tôi thành người, tôi cầu mong quư vị
tiếp tục giương cao ngọn đuốc giáo
dục qua sứ mạng rao truyền Tự Do, Bác Ái và Công
Bằng.
Viết cho Đại Hội Thiên
Hựu-Jeanne d’Arc (Ngày 3 và 4 tháng 9, 2011)
Vĩnh Chánh
Providence. 1959-1966