BS.
HOÀNG THẾ ĐỊNH
Thời gian c̣n là sinh
viên y khoa, tôi được thực tập tất cả
các khoa trong bệnh viện kể cả Phong Cùi và Lao Phổi;
thế nhưng lần phụ mổ cho bác sĩ Tô Đ́nh
Cự, đă gây một ấn tượng làm tôi nghiêng sở
thích về giải phẫu. Hôm đó, khi đang mở ổ
bụng của một bệnh nhân, một tia máu từ một
động mạch phọt lên cao và rải một giải
máu lên mặt kính của chao đèn lớn chiếu sáng bàn mổ,
tôi luốn cuốn chưa biết phải làm ǵ th́ bác sĩ
Cự đă điềm tĩnh dùng ngón trỏ trái ấn
vào mạch máu và bàn tay phải ch́a ra về phía tôi mà không nói
lời nào. Bừng tỉnh, tôi vội vă chụp mạnh
cái kẹp máu suưt nữa làm khay dụng cụ đổ
nhào, rồi tay run run đưa cái kẹp máu vào ḷng bàn tay phải
của bác sĩ Cự. Những thao tác của bác sĩ Cự
trông như có vẻ chậm, nhưng thật sự nhịp
nhàng và rất kịp thời. Cuối cùng, ca
mổ đă hoàn tất trước giờ ấn định.
Bác sĩ Cự không trách mắng tôi điều
ǵ mà c̣n mỉm cười hiền từ nh́n tôi rồi vỗ
nhẹ vào vai tôi khi chúng tôi bước ra khỏi pḥng mổ.
Từ đó, tôi lui tới pḥng mổ thường
xuyên để xin các bác sĩ cho phép được phụ
mổ, lúc đó tôi chỉ mới ở năm thứ 4 y
khoa. Một lần khác, bác sĩ Lê Bá Vận
đă để tôi mổ chính và bạn tôi phụ trong một
ca giải phẫu đơn giản. Thay
v́ ca mổ chỉ cần trong 1 giờ, hai chúng tôi đă kéo
dài tới 4 tiếng đồng hồ. Hai chúng tôi
đă cười khoái chí trong pḥng thay áo quần một hồi
lâu và kể cho nhau nghe nỗi run sợ và lo lắng của
ḿnh khi đang giải phẫu. Năm 1970, năm đầu
trong đời quân ngũ, tôi được
tham dự cuộc hành quân cấp nhiều sư đoàn tại
Hạ Lào. Tôi phụ trách pḥng giải phẫu
dưới đất của Sư Đoàn 1 Bộ Binh mà bộ
chỉ huy đóng tại Khe Sanh, gần biên giới Việt-Lào.
Thật ra toán Quân Y chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ cấp
cứu và lựa thương đồng thời chữa
trị những trường hợp tiểu và trung phẫu,
những ca cần mổ lớn th́ tôi phải liên lạc với
trực thăng Mỹ di chuyển về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế.
Điều trị vết thương chiến
tranh đ̣i hỏi nhanh nhẹn tối đa v́ chiến
thương được tải đến ồ ạt
lộn xộn đủ loại và ngập trong tiếng
rên la đau đớn. Từ nơi nầy, lần
đầu tiên tôi thấy một cán binh Việt Cộng,
anh ta bị một mảnh đạn ghim vào phổi trái và
tôi đă phải làm Chest Tube cho anh.
Khi anh ta thở được dễ
dàng, tôi ṭ ṃ hỏi mọi chuyện về phía địch.
Anh ta khai là người Hà Nam Ninh, chuẩn úy
Công Binh. Khi thấy anh ta đă khỏe, tôi bảo toán
Quân Y của tôi di chuyển tất cả vũ khí ra khỏi
căn hầm độc nhất của chúng tôi, ngăn ngừa
anh lính Cộng Sản liều cướp lựu đạn
rồi rút chốt làm chết cả đám. Vừa di chuyển
vũ khí ra ngoài th́ Ban An Ninh Sư Đoàn
1 đă đến chở anh tù binh VC đi. Chiến sự
ngày càng khốc liệt, căn cứ Khe Sanh nhận mỗi
ngày hàng trăm quả đạn rocket và đại pháo từ
phía địch, thế mà hầm Quân Y của chúng tôi may mắn
vẫn an toàn. Phía Sư Đoàn Dù, bác sĩ
Trần Đông A bận rộn với
pḥng mổ của anh cách chỗ chúng tôi hai ba ngọn đồi
đất đỏ.
Những lần hành quân phối
hợp Việt-Mỹ sau đó, toán Quân Y chúng tôi được
nhập vào bệnh viện dă chiến 18th Surgery Hospital của
Mỹ đóng tại Ái Tử thuộc tỉnh Quảng Trị.
Các bác sĩ Mỹ và tôi có giao ước là họ lo cho
thương bệnh binh Mỹ và tôi lo cho lính VNCH, nhưng
khi mổ th́ nếu là bệnh binh Mỹ, bác sĩ Mỹ mổ
chính và tôi phụ họ và ngược lại. Là một bệnh viện, nên họ có đủ
các ngành, nhưng ngoại thương hoạt động mạnh
nhất. Họ có trên 10 bác sĩ chia làm 3 ca làm việc
mỗi ca 8 giờ, nhưng bên phía VN chỉ ḿnh tôi nên có ngày
tôi phải làm việc liên tục và ít khi tôi có được
một giấc ngủ trọn vẹn. Một lần làm
tôi nhớ đời là lúc tôi phụ cho thiếu tá bác sĩ
Battles trong ca mổ tim một chiến
binh Mỹ, anh nầy giữ súng máy trên trực thăng, anh
đă bị pḥng không VC bắn làm mảnh nhôm của trực
thăng cắm ngập vào tim. Khi vừa mở bao tim, máu ồ ạt trào ra làm tim anh ta ngưng
đập, nhờ bàn tay tôi nhỏ nên đă luồng vào buồng
ngực bóp trái tim anh ta theo nhịp tim trong khi bác sĩ
Battles sữa soạn máy electroshock. Khi tim
anh ta đă đập lại b́nh thường, chúng tôi lấy
mảnh nhôm ra và khâu lại các mạch máu quanh tim... Chúng tôi theo dơi người bệnh ở pḥng hậu
mổ, anh ta đă bị động kinh v́ một cục
máu đông ở năo và được chuyển ra tàu bệnh
viện. Như trên có nói bệnh viện dă chiến
đủ các ngành trừ hộ sinh. Một hôm, tôi
đang chợp mắt được đôi giờ th́ một
anh y tá Mỹ đấm cửa rầm rầm, vừa mở
cửa, anh y tá Mỹ dục: "Ông mau lên đi! Đứa trẻ ḷi cái đầu ra một ít rồi,
không ai làm ǵ được hết!" Tôi
không hiểu chuyện ǵ xẩy ra, chỉ biết đi
như chạy về phía pḥng mổ. Vừa đến
nơi, thiếu tá bác sĩ Polliakoff nói: "Là một sản
phụ, may ra ông giải quyết
được việc nầy!" Trong pḥng mổ, một
bà lớn tuổi trong bộ áo quần nông thôn Việt Nam cầm
tay một sản phụ nằm trên bàn mổ đang rên la,
thấy tôi bước vào, người đàn bà chắp tay
vái tôi, tôi e ngại ôm lấy hai tay bà: "Xin bác đừng
làm như vậy! Tôi sẽ cố giúp con bà". Bác sĩ
Polliakoff phụ tôi đỡ đẻ cho sản phụ
sinh con so. Không có hai cái càng cho người sản phụ
đạp chân lên để gắng sức đưa đứa
con ra. Hai anh y tá Mỹ phải làm nhiệm vụ
của hai cái bàn đạp. Sau khi cắt sàn hội âm
(episiotomy) đứa bé được sinh không khó quá. Trong khi đỡ đẻ, bác sĩ Polliakoff măi
nói chuyện với tôi, và ông nói tiếng Pháp. Qua cái tên, tôi cũng biết ông ta là người gốc
Châu Âu, v́ thế phát âm tiếng Pháp của ông ta rất chỉnh.
Mấy anh y tá Mỹ cứ trố mắt nh́n
chúng tôi lắc đầu. Sau khi đă mẹ tṛn con
vuông, tôi lại một phen giải thích cho người Mỹ
về phong tục của người VN khi bà mẹ của
sản phụ nằng nặc xin giữ cái nhau đem về
nhà để chôn. Chiều hôm đó, tôi được bác sĩ
Polliakoff mời đến pḥng của ông ta và tự tay ông làm beef steak thết đăi. Tôi được
dịp thưởng thức món thịt ḅ Mỹ mềm và thơm. Trong khi ăn, ông Polliakoff hỏi tôi
là ở VN c̣n nghe những tiếng rao "Đậu Phụng
Rang" những đêm mùa đông không. Tôi cho
ông ta biết là những cảnh đó chỉ có từ
trước cho đến những năm '50. Ông ta muốn
chứng tỏ ông biết nhiều về văn hóa và đời
sống của người VN. Nhiều người Mỹ
phải học về VN trước khi sang phục vụ
tại đây. Một bệnh viện dă chiến
mà vẫn có những buổi thuyết tŕnh về mọi
đề tài vào mỗi thứ năm. Tôi cảm thấy
tự ái cho dân tộc ḿnh nên tôi cũng ghi lên bảng
đen đề tài tŕnh bày: "Dope Addition In
VN" (Ghiền Ma Túy Tại VN).
Một ngày trước khi chấm
dứt hành quân, tôi đi chào các bạn bác sĩ và y tá Mỹ đă làm việc
chung. Sáng hôm sau, tôi rất đỗi ngạc
nhiên thấy họ đă tổ chức một buổi họp
mặt dưới cột cờ bệnh viện với
hai dăy bác sĩ và y tá đứng thẳng hàng, một bà
trung tá y tá giữ việc hành chánh đă đọc bản
tưởng thưởng trước khi trao cho tôi.
Tôi cảm động bắt tay từng người và nói
lời cảm ơn bệnh viện đă giúp đỡ toán Quân Y chúng tôi, tôi
cũng nói với những bác sĩ giải phẫu, là tôi rất
vui được làm chung với họ và thú thật đă
học hỏi cách làm việc cùng ngành giải phẫu của
họ. Một nhóm bác sĩ pḥng mổ vừa đi vừa
nói chuyện và đưa tiễn tôi tận đoàn xe của nhóm quân y chúng tôi.
Sau 1975, cũng như tất cả
quân dân cán chính VNCH, tôi đi vào tù Cộng Sản. Sau hơn
một năm lao động khổ sai ở trại tù Ái Tử
Quảng Trị, một hôm bị bệnh, được
đưa vào nhóm người làm việc nhẹ; việc nhẹ
nghĩa là vác cuốc xẻng và đi bộ trên 10 cây số
đến cuốc đất làm sạch cỏ tranh cho trạm
xá Đoàn 76, là trạm y tế cho bộ đội quản
lư tù và là nơi cứu chữa cao nhất cho tù binh. Tại đó, bác sĩ bộ đội đang giải
phẫu cho một trong hai tù binh từ trại 2 cuốc phải
ḿn. Sau suốt hơn 3 giờ không cầm được
máu và lấy mảnh kim loại trong hốc
nách trái ra, họ định cưa cánh tay th́ anh y tá tù binh
đề nghị hỏi ư kiến của tôi đang lao
động dưới đồi. Sau khi cứu anh bạn
tù trẻ khỏi mất cánh tay và may vết
thương miệng của anh tù thứ nh́, tôi được
giữ lại một trạm xá để chăm sóc cho tù
binh (xem bài viết "Khóc Bạn" cùng tác giả). Tôi là
bác sĩ đầu tiên được xử dụng trong
y tế trại tù mà từ trước đến giờ
bộ đội giam giữ tù chỉ chọn những y tá
sơ cấp phụ trách y tế, c̣n tất cả bác sĩ
và sĩ quan trợ y đều bị đưa đi lao động khổ dịch. Tại trạm
xá trung tâm nầy, ngoài việc chữa trị nội ngoại
thương, tôi c̣n phải kiêm thêm việc nhổ răng
cho số ít anh em bạn tù. Vào một chiều
tháng 2 năm 1977, trời mưa xuân lấm tấm, một
anh bộ đội gọi tôi lên pḥng giải phẫu,
pḥng nầy thuộc khu ở của bộ đội giam
giữ tù. Trên đường đi, tôi
đă nghe tiếng máy dynamo quay đều, đó là máy phát
điện duy nhất ở đây. Ánh sáng từ
dinamo quay tay chỉ đủ sức chiếu sáng vùng thân thể
đang giải phẫu, đó là một ngọn đèn 40
Watts với cái chóa đèn h́nh loa kèn làm bằng nhôm. Đèn
lúc đầu khá sáng, sau vài chục phút th́ cứ lu dần, v́ anh bạn tù quay dinamo quá mỏi
tay nên quay chậm lại. Có khi đang mổ,
múi điện hở, điện không có, mấy anh bộ
đội đứng xem dùng đèn pin rọi vào chỗ mổ. Lần trước khi được gọi
vào đây để cứu hai bạn tù, tôi chưa có kịp
th́ giờ để ư pḥng giải phẫu. Pḥng mổ cũng giống như các nhà ở khác
với mái lợp tranh, vách làm bằng đất đỏ
dẽo trộn với cỏ tranh rồi trát vào những
phên nứa đan. Bên trong, họ dùng vải
mùng treo sát bốn vách đất và phía trần, mà lâu ngày, vải
căng đă chùng, phía trần nhà vải mùng trông giống
như cái bụng heo. Nền nhà
được lát một lớp ghi sắt lấy từ
sân bay Ái Tử. Bàn mổ chỉ là một bàn gỗ giống
như tất cả các bàn thông dụng. Một
người đàn bà khoảng 60 tuổi đang nằm
không động đậy trên bàn mổ, máu me cùng màu đất
đỏ vấy đầy bộ quần áo xám tro vá chằng
chịt. Thật ra bà ta chỉ 49 tuổi, nhưng cuộc
sống quá lao khổ của bà giống
như mọi người dân trong giai đoạn ấy
đă làm bà ta già đi trước tuổi. Đứng cạnh
bà là đứa con gái trạc 30 tuổi đang khóc la vừa
lay gọi mẹ. Hai mẹ con vừa
ăn cơm trưa xong đă phải lo cuốc đám
đất ở ngọn đồi phía sau lưng trạm
xá để trồng trọt kiếm cái ăn, không may bà mẹ
đă đạp phải một trái ḿn "Cóc" của
phe Cộng Sản, loại ḿn nầy có khả năng bung
cao lên khoảng 1 mét rồi mới nổ; gây sát
thương vùng bụng và ngực. Khi vừa
cắt hết áo, cả vùng bụng của bà bầy nhầy
những vết thủng tím bầm rướm máu ḥa với
đất đỏ cùng cỏ rác, vùng ngực của nạn
nhân chỉ có vài vết xước ngoài da. Tôi không hiểu v́ sao ông bác sĩ trưởng trạm
xá bộ đội không mổ cho người dân mà lại
ra lệnh cho tôi làm. Một y tá bộ
đội gây mê bệnh nhân và một anh y tá bộ đội
khác phụ mổ cho tôi. Một
đường dao mở ổ bụng, một phần ruột
của bà trào ra ngoài ngay. Anh y tá sơ cấp trong nhóm
tù phục vụ bưng vào cho tôi một thau nước muối
ấm như tôi đă dặn ḍ. Anh em y tá tù đă quen với
cách chuẩn bị nước muối ấm cho hầu hết
các ca mổ: nấu nước sôi, ḥa muối sống vào
và vớt bỏ những cặn bẩn nổi trên mặt
nước. Tôi kéo tất cả ruột của
nạn nhân ra ngoài và đặt trên một tấm vải mổ
và dùng một tấm vải mổ khác tẩm ướt phủ
lên trên. Ổ bụng của nạn nhân
vấy đầy máu, phân. Sau khi rửa ổ bụng
nhiều lần với nước muối ấm, tôi dùng
khăn lau sạch, tôi kiểm soát tất cả cơ quan nội
tạng (visceral organs); thấy tất cả đều
nguyên vẹn, tôi trở lại rửa và lau sạch 3 đoạn
ruột với nước muối rồi lau khô, sau đó
với đôi bàn tay trần không có găng tay (gloves), tôi lần
từng khúc ruột để lấy ra những mảnh
kim loại từ ḿn "Cóc" đă ghim vào thành ruột
non rồi khâu lại. Có tất cả 7 mảnh
sắt với trên 10 vết cắt vào ruột nạn nhân.
Lần xuống phía dưới, tôi thấy
hai mảnh cắm vào ruột già, sau khi khâu ruột già, tôi
phải làm hậu môn nhân tạo (artificial anus) cho nạn
nhân. Tôi lại kiểm soát lại nhiều
lần nữa tất cả các đoạn ruột non và ruột
già cùng những chỗ đă khâu, tôi đóng ổ bụng với
một ống cao su (drain) để lại từ bên trong
ra ngoài để dẫn máu bẩm c̣n sót lại trong bụng.
Không có túi đặc biệt cho hậu môn nhân
tạo, tôi đành biến chế từ một tấm
nylon khoét lỗ ở giữa và túm lại phần c̣n lại
cho ra một cái bao. Một cuộc giải phẫu lớn
như vậy mà không có lấy một chai dịch chuyền
chứ đừng nói đến chuyền máu dù bệnh
nhân bị mất máu khá nhiều; thuốc ngăn ngừa
nhiễm trùng cho bệnh nhân gồm một triệu
đơn vị Penicillin G và một lọ Streptomycin 1 gr. cả
hai đều chích thịt. Ông
bác sĩ bộ đội theo dơi từ
đầu đến cuối, khi thấy bệnh nhân tỉnh
dậy, ông ta ra lệnh anh y tá bộ đội chích cho bệnh
nhân 50mg Dolargan (Demerol) cho hậu giải phẫu. Bà bệnh được bác sĩ bộ đội
cho ở lại 3 ngày hậu mổ trong một pḥng dành cho
bệnh nhân bộ đội. Ngày rời trạm xá,
tôi đă dặn ḍ bà ta là phải đến trạm ư tế
gần nhà để xin săn sóc vết thương cũng
như thay túi nylon ở chỗ hậu môn nhân tạo. Tôi cũng
không quên dặn ḍ bà là sáu tháng sau phải trở lại
để tôi đóng hậu môn nhân tạo cho bà.
Gần một
năm sau, một hôm tôi dẫn một số anh em bệnh
nhân tù đi tảo mộ 3 anh bạn tù xấu số
được chôn ở ngọn đồi sau trạm xá,
t́nh cờ tôi gặp lại cô gái con bà nạn nhân bị ḿn
năm trước. Cô gái mừng rỡ kể
lại: "Anh biết không? Như anh đă dặn, mẹ
tôi đến bệnh viện Ḥa Lan ở
Đông Hà để nhờ họ chăm sóc vết
thương và thay cái túi bên hông. Họ hỏi ai đă mổ
cho mẹ tôi và đă làm cái hậu môn giả đó, mẹ
tôi nói là một bác sĩ là tù binh đă mổ cho bà ngay trong
trại tù, họ có vẻ không tin, tưởng là mẹ tôi
nói sảng. Như anh đă dặn, họ
đă đóng lại hậu môn bên hông của mẹ
tôi." Cô gái c̣n cho biết là một toán
người trong xă đă mang quà lên để biếu tôi,
nhưng ban quản lư trại không cho họ gặp tôi và họ
giữ luôn cả gói quà.
Từ sau hôm giải phẫu cứu
người dân, tôi đă yêu cầu bác sĩ bộ đội
cho bổ sung thêm nhân sự hầu có thể giải quyết
những trường hợp mổ lớn cho anh em tù binh. Họ đă cho BS Nguyễn Văn T. và BS. Trương Ngọc H. cùng 3 anh Lê Như T., Nguyễn
Văn T. và Vơ Văn Đ., cả 3 đều là sĩ quan
trợ y thuộc Đại Đội Quân Y của tôi,
đến phục vụ tại trạm xá tù. Từ
đó, toán y tế tù của chúng tôi đă cấp cứu kịp
thời cũng như giải phẫu nhiều anh em tù bị
tai nạn lao động, đa số là những anh em tù bị
cử đi gỡ ḿn bẫy tại một vùng mà trước
kia đă là băi chiến trường giữa hai bên Quốc-Cộng.
Trừ những trường hợp mổ và cưa
xương mới được dùng thuốc gây mê, những
ca mổ ruột thừa phải gây tê từng lớp bằng
Novocain 3% cho lớp da, những lớp bên trong cho đến
vùng quanh ruột thừa th́ dùng Novocain 0.25%. Một hôm tôi
được cán bộ bộ đội báo tin để
chuẩn bị cấp cứu một anh bạn tù từ trại
2 đang trên đường gánh sang trạm xá chúng tôi. Bệnh
nhân là một bạn tù trẻ tên Huỳnh A. thuộc toán
đi đào đất sét để làm gạch, bị tai nạn lao động. Trong khi mải mê
cúi người đào đất trong hang,
cả khối đất đá bên trên đă sụp xuống
vùi anh ta. Toán bạn tù với anh đă gấp rút đào bới
khối đất đá và kéo được anh ra, may thay anh vẫn c̣n sống, nhưng anh
đă bị găy xương chậu. Khi mở
ổ bụng dưới ra mới thấy một mảnh
xương chậu găy đâm thủng bàng quang (bladder), một
mảnh xương dẹp khác sắc như dao đă cắt
sâu 3/4 dương vật đoạn dưới bàng quang, cắt
luôn cả niệu đạo (urethra) của anh. Không có dụng cụ để gắn
xương chậu găy, tôi chỉ để những mảnh
xương lại với nhau rồi khâu các lớp mô quanh
xương. V́ không có Foley Catheter, tôi
đă cố gắng nhiều lần đặt ống
thông tiểu thông thường từ ngoài vào, nhưng ống
thông không thể vượt qua đoạn urethra bị cắt,
tôi đành đặt ngược từ bên trong bàng quang ra
ngoài. Sau khi đă khâu bàng quang và đóng ổ bụng với
ống drainage, bác sĩ bộ đội cho biết không có
bột để bó xương găy, chúng tôi phải dùng nẹp
tre quấn vải rồi cột từ hai bên hông xuống
đến hai đùi để giữ bệnh nhân không cử
động phần chậu. Hai tuần sau,
khi kéo ống thông tiểu ra, anh bạn tù trẻ đă có thể
tự tiểu được. Thêm một
tháng rưỡi sau, chúng tôi cắt bỏ nẹp tre hai bên
mông, anh Huỳnh A. đă có thể ngồi dậy với
hai bạn phụ giúp hai bên. Thời gian
ngắn sau, anh Huỳnh A. nhận được giấy về
với gia đ́nh. Đưa anh bạn
tù ra về mà tôi măi lo không biết cuộc sống của
anh sẽ như thế nào với một chấn
thương như vậy; thế mà vào năm 1985, khi tôi
được về với gia đ́nh, anh Huỳnh A.
đến thăm tôi và giới thiệu vợ con của
anh.
Hai bác sĩ T. và H.
ở tại trạm xá tù vài tháng th́ được thả
tự do. Đầu năm 1979, tất cả bệnh
nhân và anh em tù phục vụ trạm xá được lệnh
thu xếp hành trang để trở về
trại tù cũ tùy theo cấp bậc của mỗi người.
Đang thu dọn th́ một bệnh cấp
cứu được gánh từ trại 5 đến. Khi sờ đến thành bụng căng cứng
như tấm ván, tôi biết anh ta bị viêm phúc mạc
(peritonitis). Anh bạn tù không c̣n sức
để la hét v́ đau đớn mà chỉ há miệng
để thở, người anh th́ chỉ c̣n da bọc
xương, trông không khác ǵ những xác chết trong các trại
giam Đức Quốc Xă. Anh bị viêm phúc mạc mà
không đủ sức để có một cơn sốt,
ngược lại, người anh lạnh tanh. Ngô H., tên
anh bạn tù, là một Nghĩa Quân viên, không có cấp bậc,
đă từng khai đau dạ dày nhiều lần, nhưng
anh tù phụ trách y tế của trại 5 cho rằng anh giả
bệnh v́ lười lao động. Không c̣n
bác sĩ nào khác, anh sĩ quan trợ y Lê Như T. phụ tôi
giải phẫu. Vừa đưa mũi
dao sâu một chút, cả anh y tá T. và tôi cùng ngă người
ra sau bởi mùi hôi thúi từ trong bụng thoát ra. Tôi tiếp
tục rạch lưỡi dao xuống bụng dưới,
tôi cố nín thở v́ mùi hôi, khi ổ bụng đă
được mở ra, cả đám y tá bộ đội
đứng quanh chúng tôi v́ ṭ ṃ hơn là học hỏi đều
đồng loạt dùng hai tay bịt lấy mũi miệng
và chạy ra khỏi pḥng mổ. Đă nhiều
lần họ tự tiện vào pḥng mổ với bộ
đồ quân phục thường ngày bất kể việc
ngăn ngừa nhiễm trùng cho bệnh nhân và chúng tôi không
được quyền mời họ ra. Chúng tôi t́m ra chỗ abscess đă vỡ không khó
khăn, đó là một bọng lớn với mủ sền
sệt nửa đen nửa vàng-lục ngay bờ cong nhỏ
của dạ dày tới hoành cách mô (diaphragm). Tôi rất đỗi ngạc nhiên là làm sao anh bạn
tù có thể chịu đựng đau đớn suốt
thời gian khi dạ dày thủng đến khi tạo một
bọc abscess lớn như thế. Tôi phải tách màng
bụng (peritoneum) với mô liên kết dày đặc và nhiều
cuộn ruột non đă viêm đỏ dính quanh abscess . Chúng tôi cẩn thận
lau sạch đám mủ bầy nhầy rồi dùng gauze bọc
quanh abscess, xong kéo ra khỏi bụng. Sau
khi rửa tất cả ổ bụng của bệnh nhân với
nước muối ấm và kiểm soát lại tôi khám phá
ra chỗ hoành cách mô chỗ dính liền với abscess đă
bị thủng một lỗ. Tôi cố thọc sâu
ngón tay trỏ vào lỗ thủng ở
cách mô nhưng không thể xa quá một lóng tay, tôi rửa sạch
vùng abscess ở hai nơi dạ dày và cách mô rồi khâu lại.
Sau khi lau khô toàn ổ bụng, tôi rải hai
chai bột Penicillin G loại 1 triệu đơn vị lên
ruột bụng rồi đóng thành bụng với dải
cao su thoát mũ máu (drainage).
Nh́n thân h́nh kiệt quệ của anh Ngô
H. với chứng bệnh như vậy, không ai nghĩ anh
có thể sống thêm được bao nhiêu ngày nữa.
Ông bác sĩ trưởng trạm xá bộ đội đă
theo dơi suốt cuộc giải phẫu. Hôm sau, ông xuống trạm xá tù nh́n anh bệnh nhân
tù rồi đi bộ qua ngọn đồi kế cận
là trụ sở của Đoàn 76, trung
ương quản lư tù binh. Ba hôm sau, ông bác sĩ bộ
đội lại xuống nh́n anh Ngô H. xong ông kéo tôi ra ngoài
và cho tôi biết là ông đă đề nghị cấp trên
phóng thích anh Ngô H. Đoàn 76 đă gởi giấy về
địa phương nơi gia đ́nh anh H. sinh sống
và yêu cầu họ cho vợ anh H. lên đưa anh ta về
để được chết tại quê nhà. Điạ
phương đó đă trả lời Đoàn 76 rằng họ
không nhận anh ta trở về với lư do anh tù binh Ngô H.
có "nợ máu với nhân dân" Bốn ngày sau, sắc
mặt anh bạn tù đă bớt nhợt nhạt, anh đă
có thể nhúc nhích tay chân và nuốt được vài muỗng
nước cháo loăng. Hôm sau, khi kẹp nhiệt, chúng tôi thấy
anh H. bị sốt khá cao và hiện tượng đặc
biệt là mỗi lần đến thay băng hoặc
đút nước cháo cho anh H., chúng tôi ngửi ra hơi thở
của anh có mùi hôi như mắm nêm, một loại mắm
làm bằng loại cá Cơm. Anh H. thều thào rằng anh
khó thở và đau nhức ở hông trái; đặt ống
nghe và gơ hai lá phổi của anh ta, tôi thấy ra hết nửa
lá phổi bên trái đă ngập nước. Chúng tôi đă
tŕnh với ông bác sĩ bộ đội về t́nh trạng
sức khỏe của anh Ngô H. và mời ông ta đến chứng
kiến việc chúng tôi làm chest tube cho anh bạn tù, nước
mũ màu đen ng̣m đang chảy trong ống giây dịch
chuyền xuống lon sữa rỗng. Sau khi rút hết mủ,
tôi dùng syringe hút nước muối ấm bơm vào khoang
màng phổi (pleural cavity) súc rửa cho đến khi nước
rút ra đă trong, tôi ḥa Penicillin G và Streptomycin rồi bơm
vào khoang màng phổi, xong đặt chest tube trở lại.
Chúng tôi tiếp tục súc rửa khoang màng phổi
cho anh Ngô H. và ngày nào chúng tôi cũng rút ra chừng 1 lon sữa
mủ đen đặc và nồng nặc. Ông bác sĩ
trưởng trạm xá bộ đội đă gởi
thư cho ông xă trưởng nơi vợ con anh H. đang ở
và yêu cầu họ cho vợ anh H. đem thức ăn lên bồi
bổ cho anh ta. Chị vợ anh H. đă vay mượn bà
con lối xóm mua thức ăn để săn sóc chồng,
chị gánh lên trạm xá tù hai thùng, một đầu là
thùng gạo và nếp, đầu kia là thùng chứa đầy
cá Tràu và cá Trê. Chị vợ anh H. được
cho phép ở lại một giường bên cạnh chồng
trong trạm xá trống rỗng. Thời
gian chúng tôi chăm sóc anh H., tất cả bệnh nhân và anh
em tù phục vụ trạm xá đă được trả
về lại trại tù cũ. Dần
dà, màu mủ rút ra càng nhạt dần. Một
tháng sau, anh Ngô H. đă có thể đứng dậy và đi
lui lại vài bước, chúng tôi đă rút ống chest tube và
khâu da. Ba hôm sau, ông bác sĩ trưởng trạm xá bộ
đội ra lệnh 3 người tù chúng tôi c̣n lại thay
phiên d́u và vơng anh Ngô H. về trại 5, và chúng tôi cũng trở
về trại của ḿnh trước kia.
Vợ anh Ngô H. bịn rịn nh́n chồng
đi từng bước xa dần bà. Tuy đă xa,
chúng tôi c̣n thấy chị H.vẫn giơ cánh tay
gạt nước mắt cho đến khi chúng tôi qua khỏi
một khúc quanh của chân đồi.
Về sau, tôi thường nghĩ
đến những điều lạ lùng như trong
trường hợp người đàn bà đạp phải
ḿn cóc với những thương tích vấy bẩn đầy
người cũng như anh bạn tù Ngô H. chịu đựng
cơn đau thủng dạ dày rồi bị abscess như
trên đă nói... và nhiều
trường hợp giải phẫu khác như ruột thừa
viêm, cưa xương tay, chân... tất cả những nạn
nhân đều phải chịu mổ xẻ trong một
điều kiện thiếu thốn đủ thứ, nhất
là vấn đề vệ sinh pḥng mổ hết sức tồi
tệ, thuốc men chống nhiễm trùng lại chỉ có
hai loại thuốc lấy từ những hầm y tế
trong thời chiến tranh đă quá hạn từ nhiều
năm, đến việc
không có cả dịch truyền cho người bệnh giải
phẫu... Làm sao những bệnh nhân tù đó
không ai chết, không ai bị nhiễm trùng mà lại c̣n
được phục hồi với tốc độ
b́nh thường? Thật khó giải thích cho được!
Nhiều bạn tù ca ngợi và nói là tôi
"mát tay". Riêng tôi, tự thấy bản
thân chẳng giỏi giang ǵ, chỉ là một bác sĩ ra
trường 6 năm trước ngày mất nước,
làm sao đủ kinh nghiệm so với nhiều bậc thầy
và đàn anh. Chính v́ vậy mà tôi nghĩ rằng chắc
phải có một cái ǵ huyền bí luôn theo
trợ giúp cho những người tù chúng tôi đă chịu
quá nhiều nhục nhă, khốn khổ.
Tôi trở về
trại tù số 1, nơi giam những sĩ quan cấp bậc
từ đại úy đến trung tá. Một
thời gian ngắn sau, tất cả tù nhân từ 5 trại
tù từ thôn Ái Tử tỉnh Quảng Trị được
chuyển đến các trại tù ở B́nh Điền thuộc
tỉnh Thừa Thiên do công an Cộng Sản
quản lư. Ở đây, tất cả tù binh chúng tôi bị
quản lư chặt chẽ hơn, lao động khổ sai
cực nhọc hơn mà khẩu phần ăn uống lại
kém hơn lúc bị giam ở trại tù Ái Tử do bộ
đội Cộng Sản giam giữ. V́ vậy mà tất cả
tù binh trại tù số 4 đă đứng dậy phản
đối sự hà khắc của đám cai tù và chúng tôi
đă bị công an Cộng Sản trấn
áp dă man. Tôi bị gán vào tội lănh đạo nhóm "phản
động", nên họ chuyển tôi sang giam ở trại
tù số 1 là trại trung ương. Ở đó họ
đă tra tấn tôi bằng cách khóa 2 tay ra sau lưng bằng
ṿng số 8, rồi cột siết hai cánh tay bằng dây dừa,
xong kéo người tôi lên xà ngang đủ để mấy
ngón chân vừa chạm đến đất. 5 phút đầu
tôi không cảm thấy ǵ lạ, nhưng sau đó, cơn
đau như châm chích càng lúc càng mạnh bên trong động
mạch hai tay; tôi càng la v́ đau đớn
th́ tim đập càng mạnh và nhanh th́ cơn đau càng dữ
dội hơn trong mạch máu theo từng nhịp tim đập.
Từ hai ṿng giây thắt trở xuống, mồ hôi từ
trong da thịt tôi chảy thành gịng xuống những ngón tay đang tê dại lần lần. Tiếng
la hét của tôi chắc là lớn lắm, nên một tên công an pḥng kế bên cầm một nùi giẻ gắn
vào đầu cán chổi định nhét vào miệng tôi, tôi
nghiến chặt răng và ngậm kín môi. Nín
lặng được một lúc, tôi lại thét lớn.
Những người bị tra tấn kiểu
nầy không ai chịu đựng đến 1 giờ.
Qua 40 phút trong đau đớn tột cùng, tôi
không c̣n chịu đựng được nữa và tôi nhận
tội lănh đạo nhóm nổi dậy. Đến khi chúng cởi trói và mở
c̣ng sắt ra, hai tay tôi đă hoàn toàn bị
liệt. Chúng tống tôi vào pḥng biệt giam.
Pḥng biệt giam là một cái "hộp" làm bằng những
tấm ghi sắt lót sân bay ghép lại, 4 mặt xung quanh cùng nắp và đáy chỉ
vỏn vẹn 6 tấc c̣n chiều cao chừng 1 mét, người
tù bị phạt giam trong "hộp" đó chỉ có thể
ngồi bó gối hoặc đứng khum người mà
thôi. Đúng là tôi đă bị tù trong tù.
V́ liệt cả hai tay, nên mỗi lần
họ mang thức ăn đến, tôi đă phải ăn
như loài vật 4 chân. Về sau, khi điều tra ra
người cầm đầu cuộc nổi dậy, họ
nói với tôi: "Anh có biết khi anh khai là lănh đạo
phản loạn là anh lănh án tử h́nh không?".
Tôi trả lời là tôi đă khai bất cứ điều
ǵ để thoát khỏi cơn đau lúc đó. Bốn tuần
sau tay trái của tôi phục hồi dần
dần, nhưng tay phải vẫn c̣n liệt trừ khuỷu
tay. Trong hoàn cảnh như vậy mà một trung sĩ công an xin cấp trên để tôi chữa bệnh
mũi cho y v́ mộng mũi làm y không thở được.
Y đă thấy tôi đốt mộng thịt
trong mũi cho nhiều anh em tù binh. Nơi
đây, khí lạnh từ núi đá và rừng cây ẩm thấp
làm cho nhiều tù binh bị chứng nghẹt mũi v́ mộng
thịt mũi; có anh bị cả viêm xoang mũi (nasal
sinusitis) và viêm xoang trán (frontal sinusitis). Tôi đă yêu cầu
anh công an đem lại một nẹp
tre, một sợi dây nhỏ, 1 khúc dây kẽm gai ngắn và
một ḷ than nóng. Anh ta phải đưa tôi
vào một nhà ghi lớn để một người tàn tật
như tôi làm công việc chữa trị cho anh ta. Thời
gian ở trại tù Ái Tử, ông bác sĩ bộ đội
đă cho tôi về nhà để mang lên trại những dụng
cụ nhổ răng cũng như cái nông mũi với bộ
Ophthalmoscope. Tôi hướng dẫn anh công an dùng sợi dây mềm
nhỏ, buột nẹp tre vào cổ tay của
tôi để bàn tay không gập xuống. Xong
anh lại cột khúc kẽm gai ngắn đă mài nhẵn
hai đầu. Anh ta cầm cánh tay
tôi hướng khúc kẽm gai vào ḷ than nóng. Các ngón tay trái của tôi xử dụng được
cái nông mũi. Sau khi đốt xong mộng thịt 2 bên mũi
cho anh công an, tôi được chuyển
sang nhà giam lớn cũng làm bằng ghi sắt, đây là
nơi giam những tù nhân bị biệt giam hạng nhẹ.
Khoảng hai tuần sau, tôi được
đưa về giam ở phía sau hội trường của
trại tù, nơi đó là pḥng y tế trại. Sau nầy,
nhiều anh em tù cho tôi biết anh y tá là tay
"antenna": báo cáo viên; anh ta muốn lấy điểm
với trên nên đề nghị với cán bộ trại
để anh theo dơi xem tôi có thật bị liệt hay không.
Mỗi tối, tôi bị c̣ng một tay
phải vào giường tre dành cho bệnh nhân. Ban ngày, tôi kiếm
được một đoạn thép gai ngắn, mài nhọn
một đầu làm cái lao nhỏ phóng
giết mấy con rắn mối qua lại t́m mồi. Nhờ
bếp than ở pḥng y tế, tôi nướng con vật xấu
số và ăn ngon lành sau một thời
gian dài đói khát. Một tháng sau, tôi được trả
về lại trại tù số 4 và đi lao
động giống như mọi tù binh dù chỉ cử
động một tay. Năm 1980, tất cả 5 trại
tù B́nh Điền, ngoài việc bị áp bức lao động
khổ sai, chịu hạch sách đủ điều nhục
nhă, giám thị trại tù lại c̣n nhốt tù nhân h́nh sự chung với anh em sĩ quan Miền Nam chúng tôi
là tù chính trị. Số tù nhân h́nh sự gồm một số
vượt biên vượt biển, một số khác thuộc
thành phần trộm cướp, du đăng, lường gạt,
kể cả một số phạm tội giết người,
một số nữ phạm nhân khoảng 50 người gồm
đủ thành phần như nam tù nhân h́nh sự được
giam ở trại tù số 6 vừa thành lập. Chúng tôi biết
Cộng Sản muốn lập lại cách thức giam giữ
tù của Đức Quốc Xă khi mà họ giam tù h́nh sự
chung với những sĩ quan chống lại chế độ
phát xít, đă làm cho một số tướng lănh Đức
bị giam nổi điên và có người đă tự tử
v́ họ không chịu đựng nỗi nhục nhă khi mà hằng
ngày chung đụng với nhóm du côn, giết người...
bị chúng hiếp đáp, dành giựt thức ăn của
họ rồi tuôn ra những lời chửi bới thô tục.
Ngoài việc hằng
ngày, hằng đêm trong suốt nhiều năm trường
đối diện với một hoàn cảnh tột cùng khốn
khổ nhất là do thiếu ăn; mỗi anh em sĩ quan
tù chúng tôi phải cố t́m một cách sống ḥa đồng
với mọi người qua cảm thông, hiểu biết
nhau để sống c̣n. Một
nhóm nhỏ sĩ quan tù chúng tôi đă họp kín, không phải
để nỗi dậy mà để truyền miệng
trong anh em hầu cố giữ tác phong của người
sĩ quan quân lực VNCH, tránh không đụng chạm với
những tù h́nh sự hoặc giúp đỡ, cải hóa họ.
Một hôm, một trường hợp bị
dịch tả xẩy ra, anh y tá hoảng hốt, ông Ái, giám
thị trưởng gọi tôi lo cứu cấp. Tôi đề nghị chuyển anh bệnh bị dịch
tả về bệnh viện gấp, v́ chỉ có dịch
chuyền mới cứu sống anh ta. Không có xe di chuyển, anh bạn tù chết. Sau khi lo mọi việc pḥng dịch cho toàn trại
tù, ông Ái giữ tôi phục vụ y tế. Một năm sau, ông Ái được thăng chức
và làm giám thị trưởng trại tù trung ương, thời
gian sau tôi được chuyển đến trại tù
trung ương để phục vụ y tế. Các giám thị trại
tù tổ chức nhiều kế hoạch thi đua để
thúc đẩy tù nhân làm việc nhiều hơn trong khi sức
lực cùng tinh thần anh em tù ngày càng kiệt quệ.
Họ cho tù nhân được gia đ́nh thăm gặp và
bới xách thức ăn, nhưng thực sự cuộc sống
của người dân cũng chẳng khá hơn trong tù bao
nhiêu, thế mà gia đ́nh phải nhịn ăn để
nhường phần cho người thân trong tù. Nhiều
anh bạn tù mỉa mai: "Chúng ta ở trong nhà tù nhỏ
và vợ con chúng ta ở trong nhà tù lớn hơn. Thật vậy,
công an xóm phường buộc người
dân phải họp phê b́nh kiểm điểm, tố cáo,
ŕnh rập người khác... và c̣n đóng góp tiền của
cho cơ quan nhà nước. Làm việc ngày càng nhiều mà
thực phẩm chính là sắn (củ ḿ) và hạt bo bo, một
loại thức ăn của ngựa, nên rất nhiều
anh em tù bị bệnh dạ dày, và v́ suy dinh dưỡng, một
số anh bị phù thủng, số khác bị lao phổi.
Thiếu ăn, thiếu chất thịt, anh em tù lao động
bên ngoài trại, gặp con ǵ, cái ǵ có thể làm dịu
cơn đói là bỏ vào miệng; nhiều anh thu dấu củ
khoai chờ đến nửa khuya trùm mềm nhai ngấu
nghiến chống cơn đói và lạnh. Nhiều anh em tù
bị hư răng, một cách giải
quyết cơn đau răng là nhổ chứ không có thuốc
giảm đau hay chữa trám. Ngoài việc lo y tế trại
tù trung ương, tôi được phép một ḿnh đi
đến 4 trại tù quanh vùng để khám và chữa những
ca ngoài khả năng của y tá ở các trại tù đó,
phần lớn các
trại tù yêu cầu tôi nhổ răng cho các bạn tù. Anh y
tá mỗi trại chuẩn bị một anh tù khá mạnh
để giữ yên người bệnh trên ghế khi nhổ
răng; nên anh em tù thường gọi đùa là
"ê-tô" hoặc "gọng kềm". Thuốc tê là loại Novocain 3% của Hà Nội nên
không làm giảm tê bao nhiêu so với cái đau khi kéo bật
cái răng từ trong xương hàm ra. Nhưng có c̣n
hơn không, anh em tù cố chịu đựng miễn sao vất
bỏ đi "cái nợ đời" làm anh rên la suốt
mấy ngày đêm v́ đau nhức răng. Dụng cụ
nhổ răng gồm một cái kềm và một cái nạy
tách lợi răng do ông anh rễ họ cho tôi,
thế mà tôi đă nhổ hàng trăm cái răng đủ
loại của anh em tù. Có những răng cấm khi kéo ra
th́ mặt răng mục nát chỉ c̣n lại mấy cái
chân, tôi phải dùng cái nạy để đục
xương hàm, thấy anh em tù nhăn nhó v́ đau, nhưng
tôi phải cố nén xúc cảm mới làm được. Một
lần tôi bị có một cái răng cấm bị cối,
đau nhức không chịu nỗi, tôi hướng dẫn
anh y tá làm anasthésie tronculaire, nhưng anh nhổ măi không ra,
đến khi gần hết thời gian tê, tôi mới nghĩ
ra cách nhờ một y tá công an nhổ, anh công an lắc mạnh
răng tôi rồi giật cái răng ra dễ dàng. Tôi biết
anh y tá v́ cảm xúc nên không mạnh tay
như anh công an chẳng chút thương cảm ǵ tôi. Sau
khi nhổ răng cho anh em tù xong, bệnh nhân không được
cấp bất cứ thuốc giảm đau hay trụ sinh
nào, mỗi người chỉ việc tự động
múc một ly nước muối trong một cái thau để
cạnh, súc và ngậm trong ngày và bị đưa trở lại
lao động, những ngày sau họ phải năn nỉ
mấy anh bạn làm nhà bếp xin một ít muối sống
để ḥa nước súc miệng. Thế
mà chẳng anh em tù nào bị nhiễm trùng.
Cuối cùng tôi cũng
được về với gia đ́nh do ông giám thị
trưởng trại trung ương đề nghị tha
tôi một năm sau ngày tôi đă cứu ông sống lại
khi ông bị
phản ứng Penicillin.
Lúc đó mặt mày ông ta đă tím ngắt, một tay ông ôm lấy cổ họng nổi đầy
mạch máu v́ ngột thở, một tay đập liên tục
xuống giường, mắt lơ láo cầu cứu mọi
người đứng cạnh. Một mũi
adrénaline chích tĩnh mạch, làm ông thở phào, ông đă sống
lại. Từ đó con người của ông ta thay
đổi hoàn toàn, ông ra lệnh bớt hà khắc tù nhân và
đề nghị một loạt anh em tù được về
với gia đ́nh trong đó có tôi. Không lâu sau,
ông ta bị cách chức và thải hồi về quê ở gần
Huế, ông đă t́m đến nhờ tôi chữa bệnh
cho ông. Trước đây, khi ở trại
4, chính ông ta đă đưa tôi trở lại phục vụ
y tế, rồi ông lại đưa tôi đến trại
trung ương nơi ông làm giám thị trưởng, để
rồi tôi cứu ông, rồi ông tha tôi khỏi trại tù.
Tôi nghĩ phải chăng có việc vay trả-trả vay
hay đúng hơn là luật nhân quả của nhà Phật
ngay trong kiếp sống nầy ?
Trong những lần họp mặt gia
đ́nh cựu tù nhân chính trị luân phiên các tiểu bang, nhiều
anh bạn tù cũ bắt tay mừng rỡ khi gặp lại
tôi nhắc lại chuyện cũ và anh nào cũng hỏi
tôi c̣n nhớ họ không, anh nào cũng nói tôi đă nhổ của
họ một vài cái răng và đùa nghịch đ̣i lại
răng đă mất, có anh c̣n lật môi chỉ cả loạt
răng tôi nhổ mất, bây giờ đă làm răng giả;
có người dẫn vợ con đến giới thiệu
với tôi và nói rằng tôi đă mổ ruột thừa cho
anh mà không gây mê, mà mổ trong cái mùng vây quanh. Vài anh bạn tù cũ v́ sinh kế
không thể tham dự họp mặt, hỏi được
số điện thoại của tôi gọi hỏi han sức khỏe rồi hàn huyên nhắc chuyện
trong tù.
Chuyện tù là
chuyện dài đầy đau buồn và nhục nhă kể
hoài không hết. Tính nhẩm số bác sĩ
trong các trại tù Ái Tử có đến 9 người mà một
anh đă tự vận bằng thuốc ngừa sốt rét
CP (trong "Khóc Bạn"); số c̣n lại đều
được tha khỏi trại trừ một ḿnh tôi bị
giữ lại cho đến khi chuyển qua công an quản
lư ở trại tù B́nh Điền. Nhiều bạn
tù xót xa cho tôi, một bác sĩ chỉ lo cứu người,
kể cả bên địch, mà lại chịu tù đày khổ
sở đến 10 năm. Có nhiều anh bạn tù an ủi tôi và nói là do số phận, có anh nói
là cái nghiệp (karma) dẫn dắt th́ phải chịu.
Trong cái nghiệp phải chịu tù đày khốn khổ
như vậy, nhưng tôi lại có được niềm
vui là giúp được anh em cùng cảnh ngộ bằng y
nghiệp của ḿnh kể cả việc nhổ răng
không phải là nghề chính của tôi. Với một thời
gian dài sống trong một tập thể đầy phức
tạp, giao tiếp nhiều tầng lớp xă hội với
cách sống khác nhau, tŕnh độ học vấn khác nhau kể
cả thất học, và đủ hạng người tốt
có, xấu có, gian ác cũng có kể cả "antenna",
đâm sau lưng chiến sĩ... tôi đă may mắn không bị
điên, không bị liệt vĩnh viễn mà lại
được đem nguyên h́nh hài về với vợ con
ngày đêm ăn chay, cầu nguyện cho tôi.
BS Hoàng Thế Định