Ai ở Đà Nẳng chắc cũng biết địa danh Kho Đạn. Thời kỳ Tây,  kho dùng để chứa đạn, thời kỳ VNCH và sau này dùng để nhốt tù. Kho Đạn nắm  trước mặt chợ Cồn, xung quanh là một bức thành kiên cố, chằng chịt dây kẻm gai,  công an canh gác cẩn mật ngày đêm, ai yếu bóng vía đi ngang qua, nhất là ban  đêm đều rợc tóc gáy. TrạI giam chia làm nhiều khu, khu B thuộc về hình sự.  Trong phòng chu vi độ 4 mét vuông, hai bên là hai bục xi măng thay giường nằm,  trời lạnh thì thấu xương, trời nắng, nhất là với cái nắng ác nghiệp của mùa hè  Đà Nẳng thì mình như ở trong thùng chứa hàng bằng sắt Conex, mồ hôi mồ kê cứ  thế mà nhể nhải. 
                                    Sau 1975, tôi xông đại vô Bệnh Viện Đà Nẳng làm việc độ một  năm rồi mới bị bắt. Lần này khác với lần đi trình diện cải tạo ngày 30 tháng 4,  chỉ có tập trung rồi lên xe đưa đến cải tạo ở các trại. Ngày tôi bị bắt, khoảng  30 công an đổ xe tới , vây quanh nhà. Một công an chỉa súng vào tôi và bắt tôi  đứng im. Một công an khác đọc lệnh bắt. Tôi ngơ ngác, không biết mình bị bắt về  tội gì. Cũng có thể vì mình khám chui không xin phép. Hay vì tôi “thiến”-  vasectomy- hàng ngày quá nhiều, sai chánh sách nên bị bắt. Trước khi bị còng  tay, giải ra xe, tôi xin phép công an bồng bé Dung, con gái út của tôi mới hai  tuổi. Tôi bồng độ một phút, rồi nắm tay vợ tôi nghẹn ngào. Chuyến này đi có vẻ  dữ hơn lành. Tôi đinh ninh đi học tập chắc tối đa cũng vài tuần, rồi sẽ trở về.  Nên trong balô tôi đem giấy bút và cả mấy quyến sách triết lý Mác-Lê nữa trời.  Công an dẫn tôi ra xe, rồi chở tôi vô Kho Đạn. Tôi ngao ngán nhìn quanh đường,  nào phố xá, chợ búa thật tiêu điều. Sao số phận mình quá hẩm hiu! Tôi là người  ở lại làm việc không biết mệt mỏi trong hơn một năm trời. Chẩn bệnh- Mổ xẻ liên  tục- Chưa bao giờ cảm thấy mình lầm lổi một điều gì. Thế mà, ngày hôm nay, ngồi  trong xe tù, hai tay bị còng. Thật tình chẳng biết mình bị tội gì ?!  
                                    Vô trại giam Kho Đạn, việc trước tiên là qua khâu gặp bà  Giám Thị Trưởng. Bà này, sau khi lục tung các đồ dùng trong balô của tôi, nào  mì gói, đường, muối…Bà thấy tôi đem sách vở nhiều, bà hỏi: “Anh đem sách vở làm  gì mà nhiều thế?”. Tôi trả lời: “Tôi đi học tập, một vài tuần rồi cũng về”. Bà  nói : “Các anh này ngây thơ quá! Anh đi ở tù rồi đấy nhé, đem mấy thứ đó về  đi”. 
                                    Vì hết phòng, tôi được đẩy vô phòng số 11. Phòng này nổi  tiếng về kỷ luật sắt. Thành phần tù được coi như là nguy hiểm về hình sự, đa số  trốn trại cũng 5, 7 lần. Đi qua các phòng, tôi thấy các anh như BS Thái Thanh,  BS Châu (khoa nội), BS Hậu (tai, mủi, họng) và nhiều ngườI quen nữa. Các anh  quần áo xốc xếch, vẽ mặt bơ phờ, đang đu lên các thanh sắt của khung cửa sổ,  chẳng khác gì mấy chú khỉ trong sở thú. Các anh bị bắt trước tôi một ngày. Tôi  đặt chiếc balô trên sân xi măng ngao ngán nhìn quanh. Thật là một cảnh tượng  hải hùng. Hàng mấy chục người ở truồng, người ghẻ lở mùi hôi không thể tưởng  tượng nổi. Đó là những bộ xương biết đi, chỉ có hai con mắt là mở to sáng rực.  Chúng nhìn tôi trừng trừng: “Ê, lính mới hả? Có đường cho tụi tao không? Cất  dấu? biết tay tụi tao!? Rồi chúng xông lại, lục lọi balô tôi vung vãi. Một tên  tìm được bịch đường, cười lên hô hố rồi bỏ mấy miếng đường vô miệng nhai ngấu  nghiến. Đúng là mình sa vào địa ngục mà chúng nó là lủ quỷ đói. Có đứa moi ra  nào sách vở, giấy bút…nó cười lên hăn hắc. “Bộ ông anh, đem sách vở vào tù để  dạy tụi tôi học à?” Tôi ngây thơ: “ Dạ, họ cho tôi vô đây học độ một tuần rồi  về”. Cả bọn cười ồ lên: À, nó đi ở tù mà không biết”. May mắn cho tôi, trong  đám quỷ sống đó, có một tên mặt mày đanh ác, ốm tong teo, thân hình ghẻ lở có  nhiều vết xăm loang lổ. Hắn nhìn tôi trừng trừng: “Ai như BS Trâm phải không?”  Tôi nói phải. Hắn rú lên : “ Trời ơi! Ông Thầy của tao đây rồi. Sao ông Thầy  cũng bị bắt vô đây. Tội chi rứa? Em là lính của ông Thầy đây. Tiểu Đoàn 79 Biệt  Động Quân ở Thượng Đức đó. Thầy nhớ không: bửa đó em bị thương lòi ruột. Ông  Thầy mổ cứu em đó”. Tôi nói với hắn: “Tôi là Y Sĩ Trưởng Liên Đoàn. Tôi đi làm  Bệnh Viện một năm rồi bị bắt vô đây”. Hồi nảy bà Quản Giáo trại có hỏi tôi can  tội gì trước khi bà lăn tay, chụp hình va phát áo quần tù cho tôi. Tôi có trả  lời “tôi không biết”. Bà hỏi thêm: “vậy anh cấp bậc gì”- Tôi là Thiếu Tá, nhưng  lon chưa về- nên tôi trả lời: “Dạ, Đại úy Bác Sĩ”. Bà ta nói: “Thế à?! Là đủ đi  tù rồi đấy nhé. Làm Bác Sĩ mà cũng lên Đại Úy nửa!! Tù dài dài cưng nhé!!” 
                                    Tên Đại Bàng, lính của tôi, quay qua đám thủ hạ nói: “Đây là  Ông Thầy của tao ! Tụi bây lớ xớ, tao đánh bỏ mẹ. Nghe không!” Cả bọn nhìn tôi  im thin thít. Thực ra, có lẻ vì tôi ở hiền gặp lành, nên lúc nào cũng gặp hên.  Như lúc hành quân Hạ Lào, tôi ngồi trên cái mủ sắc trong một phi vụ tải thương  của trực thăng Mỷ, viên đạn ở dưới đất bắn lên xuyên thủng cái mủ sắc mà tôi  không hề hấn gì. Đến khi vô Kho Đạn lại có Đại Bàng che chở. Nhưng chưa hết,  tôi lại gặp được một cứu tinh khác. Tôi gọi là “Thầy Lốc Cốc Tử”. 
                                    Buổi sáng đầu tiên trong Kho Đạn, sau một đêm thao thức ngủ  không được, phần vì suy nghĩ trăm thứ chuyện, phần vì bị rệp cắn, vừa mới chợp  mắt thì tôi bổng choàng dậy vì nghe một tiếng rao lanh lãnh cất lên: “Ai đau  răng, đau bụng hôn?”. Tiếng ai nghe thật quen, giọng Huế, nhìn kỷ lại thấy BS  Hà Thúc Lể (Trưởng Ty Y Tế Đà Nẳng) đi trước, cầm một cái đùi gỏ lốc cốc vào  cái chén nhựa, theo sau một anh y tá đeo một tráp thuốc. Có lẽ vì thói quen hay  sao mà bước chân anh Lể đi trước cùng nhịp với bước chân người đi sau; hể anh  Lể quay qua trái, thì anh đi sau cũng quay qua trái. Điệu đi rất nhịp nhàng,  giống như cuộc diễn hành của Bộ Binh. Anh Lể cất tiếng rao nảo ruột, buồn bả,  tay vẫn gỏ lốc cốc vào cái chén nhựa: “Ai đau đầu không?” 
                                    Tên Đại Bàng nằm cạnh tôi bổng vùng dậy la lớn: “Bác Sĩ ơi!  Tôi đái không ra mấy ngày, có thuốc chưa Bác Sĩ?” Anh Lể dừng lại, ngó qua cửa  sổ nói to: “bệnh anh phải chửa trụ sinh mạnh, mà đây không có; chỉ có xuyên tâm  liên (chửa đâu đầu) và viên rửa (chửa đau bụng) thôi”. Chợt nhìn thấy tôi, anh  hỏi nhỏ: “Không biết sao, mà các anh vô đây nhiều lắm? anh cần gì không, tôi  gắng giúp anh một chút”. Tôi nói: “Anh coi cho tôi một quẻ, bao giờ được thả?”.  Anh Lể trả lời: “Tôi chỉ giúp anh mua ít mì gói thôi!”. Nói xong, hai người  quay đi chổ khác, tiếng gỏ lốc cốc lại cất lên, lần này tôi mường tượng như  tiếng rao “ Phởởở” của ông Cơ, buổi tối thường hay đẩy xe phở qua nhà tôi ở  Huế, với cô con gái gỏ tắc xịt trong đêm thanh vắng, khiến cầm lòng không đặng,  tôi phải kêu lại, ăn một tô phở nóng ngon đáo để. 
                                    Thành thói quen, buổi sáng hể nghe anh Lể gỏ lốc cốc là tôi  choàng dậy, có bửa hai người vừa đi theo điệu xàng xê, vừa gỏ dồn dập khi đi  qua phòng tôi, tôi đoán anh thông báo có tin vui. Anh nháy mắt “vợ anh ngày nay  vô thăm nuôi đó”. Mà quả thật, vợ tôi vào thăm nuôi lúc buổi trưa. Tha hồ mà  ăn, nào mì gói, đường Trung Quốc, ăn không hết, tôi chia cho các bạn tù. Ngày  vợ tôi thăm nuôi là một ngày hạnh phúc nhất. 
                                    Một buổi sáng khác, lần này anh Lể gỏ lốc cốc theo nhịp cha  cha cha. Hai người bước tới, bước lui, cái trap của anh y tá hôm nay đầy những  thuốc là thuốc, cứ xoay qua xoay lại theo nhịp bước. Sau này tôi mới biết: anh  y tá cũng là sư tổ trong các vũ trường. Chắc anh đi bộ, sực ngứa đôi chân, nên  tập một vài động tác nhót cho vui. Nét mặt anh Lể hôm nay thật vui. Anh thò mặt  vào cửa sổ, nháy mắt: “anh sắp được đưa lên trại rồi”. Anh đưa cho Đại Bàng mấy  viên Sulfamid dặn dò kỷ lưởng. Rồi tiếp tục khỏ nhịp đi qua các phòng khác.  Tiếng gỏ nhịp xa dần, bóng chiếc áo xanh đề hai chử “cải tạo” sau lưng của anh  Lể khuất qua hàng song sắt, đổi lại tiếng chưởi thề của tên Đại Bàng : “Mẹ  kiếp! tao đái không được tụi bây ơi! thuốc dở ẹc- uống không hết bệnh?!!” 
                                    Sau đó ít tuần, tôi không nghe tiếng gỏ của lốc cốc tử nữa.  Có lẻ anh Lể qua trại khác. Còn phần tôi, vì phải đắp chiếc chiếu toàn rệp và  rệp, nên người tôi ghẻ ngứa đầy mình; Cả bọn tù gải sồn sột đêm lẫn ngày; khi  công an đưa tôi lên trại giam An Điền, tôi dùng lưởi dao mổ các nốt ghẻ, rồi  tẩm teinture d’iode vào. Cháy cả da. Một tháng sau mới diệt được ghẻ. Thật là  rùng mình nổi gai ốc. 
                                    Câu chuyện kể tiếp cũng ở trong Kho Đạn, là chuyện về “ Mâm  Trưởng” tức là tôi. Bửa cơm ở Kho Đạn rất thanh đạm. Tổ của tôi gồm 5 người. 4  Bác Sĩ là tôi, BS Điều, BS Toàn ở Hội An (Toàn nhỏ chớ không phải Vĩnh Toàn,  anh của BS Vĩnh Chánh đâu!), BS Quyền và một thằng nhóc bị giam lâu ngày không  ai thăm nuôi vì can tội ăn cắp. Bửa cơm gồm có cơm bo bo, phần nhiều là cơm  cháy. 5 người có 5 tô canh toàn quốc nghĩa là toàn nước (nước pha muối với rau  thập toàn). Tôi được giữ chức Mâm Trưởng. Tôi tự hỏi, tôi không có công trạng  gì mà công anh lại cho tôi giữ chức cao vậy, chắc có lẻ vì tôi ăn ít như con  gái? Đã là Mâm Trưởng thì phải chia cơm cho đều. Vì mấy lần trước, hể khi chúng  tôi mới cầm đủa, là thằng nhóc lùa một mạch, cơm canh, bo bo vào miệng nhanh  như chớp, thành thử chúng tôi trở thành tiên ông. Một buổi họp có công anh tham  dự, BS Quyền chịu không nổi đứng lên phát biểu: “Tôi ăn chậm, lần sau chia cơm  cho đều”. BS Quyền lớn tuổi, lại cà lăm, ăn chậm không đủ no nên người trông  phờ phạc. Đến phiên tôi chia cơm thì thật khó xử, vì bửa cơm nào cũng có mấy  miếng cơm cháy đen to tổ bố và 5 tô canh toàn quốc. Tôi chia cơm thật đều, vì  nếu không đều, 5 đôi mắt nhìn hau háu sẽ có ý kiến. Thằng nhóc đề nghị: nó húp  4 tô canh trước, để dành cơm cho chúng tôi ăn. Hai ngày sau đến phiên nó sẽ ăn  luôn 5 phần cơm. Nó húp hết mấy tô rồi lăn ra ngủ. Sau khi chia cơm xong, mấy  con mắt trợn trạc nhìn vào 4 phần cơm, bo bo nỏn nà. Tôi hô to: “Nào bắt đầu  ăn”. Như chớp, các bác dành hết 4 phần cơm. Riêng phần cơm cháy thì để lại. Lẽ  dĩ nhiên, tôi phải ăn phần cơm cháy đó, vì tôi là Mâm Trưởng. Tôi ăn cơm cháy  đến mấy tuần. Sau này lên trại cải tạo An Điền, bị mắt chứng táo bón kinh niên. 
                                    Đến phần 15 phút giải lao, cả bọn ào ào chạy ra cái giếng.  Thành giếng bể một bên, nước đục ngầu. Vớ vội cái gàu, tôi múc nước giếng xối  lấy xối để. Chao ơi là mát. Vừa tắm vừa tranh thủ vò mấy cái áo, không cần xà  bong, miểng bớt hôi là được rồi. Nhưng vì cái giếng bị bể một bên, nước dơ ở  ngoài chảy vào giếng. Đa số hình sự đều bị ghẻ lở. Tắm rồi nữa đêm lên cơn sốt.  Cả bọn trong phòng gải sồn sột tạo một âm thanh quái đản, lẫn trong đêm tiếng  thanh la báo giờ đổi gác của trạm công an nghe inh ỏi chat chúa cả tai. Khó mà  dổ giấc ngủ. Ở một tháng trong Kho Đạn, người tôi phờ phạc hẳn ra. Nếu có chợp  mắt ngủ một chút thì những cơn ác mộng kinh sợ lại đến.  
                                    Khi qua Mỹ, bạn bè mời ăn cơm, thịt cá ê hề. Ngay cả gia  đình tôi, thức ăn, thức uống thừa thải. Tôi thường khuyên các con: “Hột cơm là  hột ngọc của nhà trời. Đừng có phung phí mà ông trời không cho”. Nhớ lại cảnh  tượng ở Kho Đạn, dành dựt nhau từng hột cơm mà thấy chán gán cho thế thái nhân  tình. 
									  |  
									 
									  Anh Trần Qúy Trâm và các bạn cùng khóa chụp trong chuyến đi Việt Nam lần rồi. 
									     
									 |   
                                    Cách đây hai năm, anh Hà Thúc Lể ở Georgia có tới thăm tôi,  vẫn tiếng nói nhỏ nhẹ như con gái, và dáng dấp như một lốc cốc tử thủa còn ở  Kho Đạn. Hai anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Tôi hỏi anh “cái anh y tá đi  theo phát thuốc với anh bây giờ ở đâu rồi?” Anh nói: “Ảnh qua Mỷ lâu rồi, bây  giớ là chủ một vủ trường sang trọng ở Cali”.  Hèn nào, lúc đó, đi phát thuốc mà anh ngứa chân, cứ đi điệu cha cha cha, cứ  tưởng như bị ma bắt. Sau đó chúng tôi xuống Galveston thăm anh Đinh Văn Tùng có nhà ở gần  biển đẹp vô cùng. Anh Tùng coi tôi như em ruột, Tết Mậu Thân tôi ở nội trú tại Bệnh  Viện Đà Nẳng, đêm ngày mổ xẻ mệt nghỉ. Anh Tùng đem hết các sở trường về giải  phẩu chỉ vẻ cho tôi. Anh có một người con, lúc còn ở Đà Nẳng bị phỏng nặng, tôi  là người cưu mang cháu nhiều nhất. Tôi kể mấy chuyện tiếu ở Đà Nẳng, ở Đại Lộc  cho anh nghe. Anh bò ra mà cười. Anh nói: “Sao em không đăng báo cho mọi người  cùng đọc cho vui”. Về nhà, dự định viết thì nghe anh đã mất. Thôi thì em viết  mấy chuyện vừa cười vừa ra nước mắt để anh ở suối vàng cùng đọc với các bạn bè  cho vui vậy. 
                                    Houston  1/3/2006 
                                    Trần Quý Trâm  |