Tô Đình Đài 
                                    Sau khi tốt nghiệp Trung  Học đệ nhất cấp ở Đà Nẳng năm 1956, tôi ra Huế vào học trường Quốc Học. Trong  ba năm học ở đây, tôi có cơ duyên được linh mục Nguyễn Văn Thích, vị linh mục  lớn tuổi có uy tín, dạy tôi sinh ngữ hai, Hán Tự. Ngoài dạy chữ, với sự tậm tâm  và niềm tin sâu sắc, linh mục đã truyền cho tôi “đạo đức thánh hiền”. Tôi xuất  thân từ gia đình nho giáo, gia đình tôi nhiều đời làm nghề thầy thuốc Bắc ở  vùng nông thôn Quảng Nam.  Tôi mồ côi cha từ lúc 4 tuổi. Do vậy tôi chỉ được biết tổ phụ tôi qua bà nội  bởi các chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ. Và qua mẹ tôi bởi những bài hát ru con  trữ tình và rung động. 
                                      Khoảng năm đệ nhị Quốc Học, vì tinh hiếu  kỳ, tôi tìm đến phòng mạch BS Lê Khắc Quyến, để tìm xem hình ảnh của một bác  sĩ, mà từ lúc nhỏ ở thôn quê và đến lúc ra sống ở thành phố tôi chưa hề biết. 
                                      Với gương mặt hiền lành, giọng nói đầy  tình cảm, BS hỏi tôi: “Con quê ở đâu?” 
                                      Tôi lễ phép trả lời (tôi nói giọng quảng):  “Con quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam”.  
                                      BS dịu dàng nhìn tôi: “BS biết quê con  nghèo lắm! con ráng học hành sau nầy giúp đở người nghèo”. 
                                      Và sau đó, BS hỏi tôi về tình hình bệnh  tật. Lúc đó tôi chỉ có mụn trứng cá. BS giải thích, cho toa và cho lại tôi tiền  khám bệnh để mua thuốc. 
                                      Bước ra khỏi phòng mạch BS, hồn tôi nhẹ  hẵn, tưởng chừng như qua một giấc mơ. Tôi thì thầm: Bác sĩ là thế!! 
                                      Rồi tôi lại tưởng nhớ đến các thầy thuốc  Bắc ở nông thôn, nhất là ông Nội tôi, một thầy thuốc được nhiều người ca tụng  về đạo đức thương người. 
                                      Ba năm sau tôi được nhận vào năm thứ nhất  YKH. Tôi lại gặp BS Quyến. Với tác phong giản dị và hiền lành, ông là khoa  trưởng ĐHYKH. Lúc ấy BS nhìn tôi như nhớ lại điều gì. Còn với tôi, BS là tấm gương  sáng mà tôi phải theo. 
                                      Cuối năm thứ II, chúng tôi bắt đầu đi bệnh  viện, nhưng chỉ thực tập công việc của người điều dưỡng. Không biết đây có phải  là sáng kiến của BS khoa trưởng hay không! Năm thứ III, chúng tôi thực tập bệnh  viện với chức năng thầy thuốc. Khi được chuyển về khoa truyền nhiểm- lúc đó  dịch tả ở Thừa Thiên đang hoành hành- chúng tôi được hướng dẫn ăn mặc gọn gàn,  ống quần vén trên mắt cá. Và được khuyên nên dẩm chân trên các khoảng đất trống  đã được rắc vôi trắng. Chúng tôi lại gặp BS Quyến, trưởng khoa truyềm nhiểm. BS  đã chân thành nhắc nhở chúng tôi: 
                                      -Bệnh nhân là quyển sách sống. Các con  phải quý trọng các quyển sách ấy. Khi ra trường các con đừng bao giờ quên ơn  họ- kể cả suốt đời của một ông thầy thuốc. 
                                      Và cũng trong thời gian nầy, BS đã cho  phép chúng tôi tập trung tại phòng khách tư gia của BS trong các buổi tối để  được ăn bánh ngọt, uống nước trà, đồng thời được nghe BS giãng dạy những điều  cần thiết mà sinh viên phải biết khi đi thực tập ở bệnh viện như giao dịch với  y tá và bệnh nhân…và BS cũng truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm về chuyên môn  nhất là những trường hợp cấp cứu khi trực gác. Và BS khuyên chúng tôi tìm hiểu  và nêu lên nhữnng thắc mắc nếu có để cho BS giải đáp. 
                                      Thời gian nầy chúng tôi cảm thấy tràn đầy  hạnh phúc khi được người thầy, người cha dành nhiều thì giờ quý báu để chỉ vẽ  và dìu dắc với tình thương và trách nhiệm cho những đúa con đầu lòng của YKH  (xin thúc nhẹ BS Lê Đình Thương về suy nghỉ nầy) 
                                      Đến khi ra trường, BS lại giúp tôi hoàn thành  luận án tiến sĩ YK. 
                                      Sau khi động viên vào phục vụ quân đội,  tôi tình nguyện chọn vào miền Nam.  Nhận công tác ở bệnh viện Tiểu Khu Phước Long hẽo lánh để tránh các liên hệ mà  tôi không muốn ngay từ lúc còn đi học. Xa Huế, xa Thầy, xa bạn bè. Tôi có nhớ  có một lần ghé thăm BS Quyến ở Saigon, nhưng  tôi quên mất địa chỉ. 
                                      Chiến tranh kéo dài. Máu lữa lan tràn. Với  trách nhiệm nghành nghề, tôi đem hết sự hiểu biết để phục vụ thương binh, mong  xoa diệu phần nào nổi đau đớn. Tôi thường không cầm được lòng khi thấy cảnh  chết chóc, thương tật của anh em binh sĩ, mầm non của đất nước và của những  thường dân vô tội. Tim tôi thường xốn xang đau nhói khi nghe những tiếng khóc  đau thương thất vọng của những người vợ, người cha, người mẹ khi phải vĩnh biệt  người thân của mình mà không hiểu vì sao!! Niềm đau đón của một người dân, một  BS khi nhìn thấy quê hương dân tộc mình đang gánh chịu một trách nhiệm quá lớn.  Một đất nước đang chịu điêu tàn đổ nát bởi cuộc chiến tranh không biên giới.  Tôi chỉ biết than thở với trời đất, trãi niềm đau trên trang giấy với những vần  thơ ngậm ngùi, chua xót. Thỉnh thoảng có xướng họa thơ cùng y sĩ Thiếu Tá Đặng  văn Trì; hay viết thơ chòng ghẹo các bạn BS Phạm Đình Chí, Y Sĩ Đại Tá Đổ Xuân  Dụ và cả ông Biện Lý Sóc Trăng; đồng thời cũng viết nhiều bài cầu nguyện thống  thiết, mong nước nhà sớm có hoà bình…để xoa dịu bao niềm đau. 
                                      
                                       
                                    Giờ phút lịch sử 30/4/75 đến. Thất vọng và  hải hùng, ngược với lòng mong mỏi trông chờ của người dân miền Nam. Quá hốt  hoảng, tôi nghe lời một người bạn tốt, Dược SĩVũ Tuyết Phương đem hai con nhỏ  lên Saigon để cùng tẩu thoát. Rủi thay, khi  tôi đến nhà cô ta, người nhà cô ta bảo là gia đình cô đã dọn chạy ra phi  trường. Buồn và lo sợ cho những ngày sắp tới. Tôi quay về lại Sóc Tăng để gánh  chịu những khổ đau đang chờ sẵn. Nhưng cũng may mắn, lúc đó BS Trần Phước Thọ,  đàn em YKH khóa 6, làm ở bện viện dân y quen biết nhiều người với đủ thành  phần. BS Thọ có tài xoay sở, giúp đở kéo tôi về làm việc tại bệnh viên dân y  Sóc Trăng ngay từ lúc ban đầu. Do vậy, lúc kêu đi cải tạo tôi chỉ ở lao xá của  tỉnh và không bị nếm mùi hành hạ đau khổ, đói khát như tại các nhà tù cải tạo ở  miền Nam hay miền Bắc. Rời khỏi nơi tù tội, tôi như người mất hồn. Lần cuối  cùng gặp BS Thọ ở chợ Sóc Trăng, vì quá cẩn thận, nên BS Thọ chẳng nói với tôi  lời chia tay trước khi vượt biên. Sau đó để thử thách, họ đua tôi về vùng nông  thôn sâu trong huyện Mỹ Tú với tư cách là BS lưu nhiệm để săn sóc sức khỏe cho  dân nghèo tại đó. 
                                    Không cách nào khác tôi phải chấp nhận. Âu  cũng là số trời. Tôi chỉ còn biết cố làm việc, tạo điều kiện giúp đở bệnh nhâ  để quên đi mọi tủi nhục. Tôi làm cả tớ lẫn thầy. Khoảng hai năm sau, với sự  đóng góp của địa phương, một bệnh viện huyện với nhà tranh vách lá gồm khoảng  80 giường bắt đầu hoạt động ở đầu cầu Bà Luôi, huyện Mỹ Tú trong phương tiện  thô sơ thiếu thốn. Thuốc men dùng gồm cả Tây và Đông. Bệnh viện chỉ có 1 BS  ngụy là tôi, hai y sĩ cách mạng, hai y tá lưu dụng và số còn lại chưa học  chuyên môn. Buổi sáng tôi khám bệnh, giải quyết bệnh nặng, phòng mổ, phòng  sanh…buổi chiều lên lớp dạy chuyên môn cho các thanh niên nam nữ tình nguyện để  họ sẽ trở thành y tá, y sĩ  sau nầy.  
                                    Khoảng 1980, có người bạn tên thợ Tòng  (tiệm vàng) ở chợ Xẽo Dừa bí mật đến tìm tôi, khuyên tôi nên đi vượt biên với  gia đình ông ta, khỏi lo chi phí. Nhìn công việc bệnh viện đang dở dang, nghỉ  đến bệnh nhân nghèo trong vùng đang tin tưởng chờ đơi tôi săn sóc bệnh tật cho  họ hằng ngày, tim tôi đau nhói. Nhớ lại tiểu sử BS Hurago mà tôi đã từng đọc-  nhớ lời dạy của BS Lê K. Quyến, tôi trình bày sự thật trong lòng tôi với người  bạn tốt ấy. Ông ta hiểu tôi. Và ông hứa, đến nước Mỹ, ông sẽ cố gắng dành dụm  gởi về cho tôi một ít tiền để mua thuốc giúp dân nghèo. Công việc chưa thực  hiện, tôi được tin ông Thợ Tòng đã qua đời ở Mỹ vì bệnh tiểu đường. Con cháu  ông hiện sinh sống ở California. 
                                      Ngày tháng nặng nề trôi qua. thử thách khó  khăn chồng chất. Hồi đó, bạn học cùng lớp có BS Hoàng Quỳnh ở thành phố Cần  Thơ, tuy không dám lộ vẽ thân lắm, nhưng hiểu nhau. Chúng tôi nhìn chừng nhau  để mà sống. Có lần lên Saigon, tôi ghé thăm  bạn cùng lớp, BS Nguyễn Minh Triết, người của chế độ. Triết rất tốt, dẫn tôi đi  ăn tối. Chúng tôi không đã động đến chính trị. Nhưng trong thâm tâm, BS Triết  có vẻ thương hại tôi “như kẻ sa chân thất thế”. Nhưng chuyện đời ai biết được  ngày mai. Chữ BS “lưu dụng” như dây thòng lòng đeo cổ, làm chúng tôi luôn lo  lắng và đau đớn. Nhớ lời Mẹ tôi dạy hồi còn nhỏ “phải sợ Trời”, “thương người  là ý của Trời”, và “Trời không phụ người hão tâm”. 
                                      Thế rồi, năm 1992 con trai đầu lòng của  tôi, Tô Đình Vũ, tốt nghiệp BS ở Saigon. Hiện  cháu đang sinh sống ở Canada.  Năm 1996 tôi xin về hưu non. Năm 1997, gia đình tôi lại ra đi. Đến đất mới gặp  nhiều khó khăn mới. Lúc đó tôi đã gần 60 tuổi. Từ lao động trí óc trở thành lao  động chân tay, thân thể rã rời, ác mộng hằng đêm. Lúc mới làm, hảng thịt bò IPB  thấy tôi có vẽ lèo quèo, không gọn gàn; supervisor quay tôi mấy buổi chiều, tôi  biến thành “người máy”, hồn vía lên mây. Đến nổi, khi ra về, tôi không còn nhớ  lock number, đành mang bộ đồ hôi thối về nhà. Nhiều lúc tôi không hiểu đây là  đâu? Mình là ai? Và đang làm gì? Ở VN đã khổ, qua Mỹ càng khổ hơn. Nhưng khi  nhìn các con, tôi mới nhận được sự thật. Không cách nào khác. Mọi việc đều do  số trời. Hết hảng nầy sang hảng khác. Thân già yếu luôn bị công nhân trẻ ăn  hiếp. Supervisor Mỹ thì kẻ ghét người thương. Rồi từ từ vài bạn VN tốt, bạn Mỹ  tốt giúp đở. Các thanh niên truyền giáo Mỹ đến nhà. Như nước về nguồn, gió mây  về hội, tôi đi nhà thờ, tôi đọc thánh kinh. Tim óc tôi như thân cây khô héo lâu  ngày từ chuyển mình, tươi tỉnh và sống lại. Mọi khổ đau, thử thách đã qua. Lá  rụng về cội. 
                                      Bây giời tôi đã hiểu-tôi là ai- đã và sẽ  làm gì. 
                                      Tôi chân thành kính trọng biết ơn: 
                                      Linh Mục Nguyễn Văn Thích Đã đặt chữ  “NHÂN” vào trái tim son trẻ của tôi. 
                                      Linh Mục Cao Văn Luận, người có công đào  tạo đội ngũ trí thức miền Trung VN, đã dạy tôi môn triết học năm Đệ Nhất Quốc  Học Huế. 
                                      BS Lê Khắc Quyến- hình  ảnh một ông Thầy, một người Cha- Trái tim BS đã soi sáng và dìu dắt tôi trong  suốt sự nghiệp y đạo. 
                                      Các thầy Đức, Việt Nam, Pháp, Mỹ, ông bà cha mẹ tôi.  Các ân nhân, bạn bè, nhất là song thân BS lê Viết Kiểu (79 Đinh Bộ Lĩnh, Thành  Nội), người mà tôi không bao giờ quên được, đã xem tôi như con trong nhà, suốt  10 năm trời tôi học ở Cố Đô Huế. Bạn thân: Các BS Lê Q. Tái, Lê Bá Dũng,Tạ Q.  Hát…và tất cả bạn bè khác đã giúp đở và diều dắt tôi trở thành một ông Thầy  Thuốc. 
                                      Các bệnh nhân chiến tranh VN, dân nghèo  vùng nông thôn sâu ở tỉnh Sóc Trăng đã giúp tôi hoàn thành lời thề nghề nghiệp. 
                                      Và đặc biệt 56,000 lính Mỹ và Thế Giới Tự  Do đã hy sinh ở chiến trường VN. Và 500,000 lính Mỹ thương tích tật nguyền với  bao nổi khổ của gia đình họ. Hàng vài triệu sinh linh VN, thân xác trở thành  tro bụi và biết bao người phải gánh chịu sự hành hạ, khổ đau, đói khát trong  các trại cãi tạo tập trung, bạn tôi, BS Lê Bá Khá, đã chết trong trại tù nói  trên… và biết bao nhêu dân chúng phải chịu cảnh đau thương do hận thù chiến  tranh để lại. 
                                      Và sau 30/04/75, biết bao nhiêu người VN,  bạn bè phải chịu nhiều gian khổ mất mát, nhục nhã đau đớn hoặc đã gởi mình  trong đại dương sâu thẳm trong các hành trìng tìm tự do. Chuyện “vượt biển”của  BS Đoàn Yến đăng trong Tập San YKH năm 2000 đã nói lên nổi đau khổ nầy. Bạn  cùng lớp, BS Mai Văn Tuấn đã mất tích trong chuyến vượt biển cho đến bây giờ.  Và đặc biệt Y Sĩ Trung Tá Trương Hoàn San, chỉ huy trưởng quân y viện Trương Bá  Hân ở Sóc Trăng, người mà tôi rất kính mến, cũng đã gởi mình ở biển sâu.  
                                      Riêng tôi được trời thương,  được thoát nạn trong cuộc chiến tàn sát Mậu Thân ở Huế năm 1968, được thoát  chết trong mùa hè đỏ lửa năm 1972 tại thị trấn tỉnh Phước Long Bà Rá. Và cuối  cùng, gia đình tôi được di dân đến miền đất hứa tự do thân yên nầy. 
                                      Do vậy tôi không thể nào quên ơn hàng  triệu người nằm xuống để cho tôi được sống ngày hôm nay. 
                                      Tôi luôn nhớ ơn trường ĐH YKH. Năm nay  trường được 45 tuổi. Đã có 38 khóa bác sĩ ra trường, đang phục vụ trên toàn  quốc VN, nhiều nhất là miền nam VN, cũng như trên toàn thế giới tự do. Công ơn  to tác nầy do các vị sáng lập: Linh Mục Cao Văn Luận, BS Lê Khắc Quyến và các  thầy người Đức, các BS, Dược Sĩ VN trong ban Giảng Huấn đầu tiên. Chúng ta cũng  không quên được các thầy Đức và BS Nguyễn Văn Đệ đã bị tàn sác trong Mậu Thân Huế. 
                                      Cuối cùng tôi xin gởi lời thăm, chúc mừng  các bạn cùng khóa, cũng như các bạn đàn em đã và đang tiến mạnh trong cuộc sống  ở xứ người, thế hệ thứ hai càng thành công rực rỡ và Hội YKH Hải Ngoại bền  vững. 
                                     Iowa City, 2005. 
                                    Tô Đình Đài  
                                    |