Dòng họ Nguyễn bắt đầu từ Nguyễn Hoằng Dụ tới Nguyễn Kim  đã được thiên hạ cho là những anh hùng cái thế, nhưng phải đợi đến đời con cháu  là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng mới là những tay tuấn kiệt. Anh em Hoàng bấy giờ đang phục vụ  dưới cờ của Trịnh Kiểm, lập được nhiều công lao. Nguyễn Uông được phong làm  Lạng Quận Công, Nguyễn Hoàng được tước Đoan Quận Công. Rồi Uông chết, người ta  nghi Uông bị độc thủ của ông anh rể Trịnh Kiểm. Ư Ký là Thái Phó của Nhà Lê, là  cậu ruột của Nguyễn Hoàng, thấy thế nguy liền khuyên Nguyễn Hoàng tạm thời giả  ngây dại để khỏi bị Trịnh Kiểm để ý. Trong lúc này gia thần của Trịnh Kiểm là  Nguyễn Hùng Long thúc giục Trịnh Kiểm  trừ Nguyễn Hoàng để tránh hậu hoạn, nhưng Kiểm còn trù trừ chưa quyết. Nguyễn  Hoàng có ý lánh xa Kiểm, nên viện cớ đất Thuận Hóa thường hay bị Chàm quấy  nhiễu, Hoàng nhờ chị là Ngọc Bảo vận động với Kiểm để xin vào Thuận Hóa với  chức Trấn thủ. Trịnh Kiểm liền chấp nhận ý kiến của vợ. 
                                      Tương truyền rằng, khi có mưu định đi Thuận Hóa, Nguyễn  Hoàng đã cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Trình. Cụ Trạng đang đứng  ngắm hòn giả sơn trước mặt nhà. Thấy đàn kiến bò theo chân ngọn núi, cụ chỉ vào  hòn giả sơn nói rằng:  
                                    
									               Hoành sơn nhất đái 
                                                       Vạn đại dung thân 
                                    Một dãy Hoành Sơn có thể dung thân cho cả vạn đời. Ý cụ  khuyên Nguyễn Hoàng nên vào Thuận Hóa để dung thân 
                                      Thế là Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng lên đường vào cuối  năm Mậu Ngọ (1558) đời Vua Lê Anh Tông. Sự nghiệp của triều Nguyễn bắt đầu từ  đó. Chúng ta thử sưu tầm những câu ca dao, tục ngữ có liên quan đến những sự  kiện hay các nhân vật lịch sử dưới triều đại này . 
                                    Ông Đào Duy Từ là người Thanh Hóa (1), học rất giỏi nhưng  là con nhà xướng hát (xướng ca vô loại!) cho nên không được đi thi. Phẫn chí  ông Đào Duy Từ vào Nam, được trọng dụng và giúp chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên rất  đắc lực. Chính ông đã xây những chiến lũy kiên cố ở Quảng Bình (như lũy Trường  Dục, lũy Thầy) để đàng Trong chống đỡ với đàng Ngoài. Trịnh Tùng thấy ông có  tài và hối tiếc đã không biết trọng dụng nhân tài nên gởi sứ giả vào Nam móc  nối về với ông Đào Duy Từ. Ông Đào Duy Từ không đáp, chỉ bế con nhỏ mà hát để  tỏ lập trường dứt khoát như sau:  
                                              Ba đồng  một mớ trầu cay 
                                                  Sao anh  không hỏi những ngày còn không? 
                                                  Nay em tay  bế, tay bồng 
                                                  Xin đưng  lui tới mà chồng em ghen. 
                                    Trước đây không ngó ngàng, đến nay thì đã muộn màng quá  rồi. Ông Đào Duy Từ ví như là một thiếu phụ "tay bế, tay bồng", yêu  cầu đừng lui tới, để chúa Nguyễn khỏi nghi kỵ. 
                                    Dưới thời Tây Sơn có câu: Đào Duy Từ  
                                              Nực  cười châu chấu đá xe 
                                                  Tưởng rằng  chấu ngã, ai dè xe nghiêng 
                                    Theo "Việt Nam thi văn hợp tuyển" của  ông Dương Quảng Hàm, hai câu trên trích từ Hoài Nam khúc của Hoàng Quang: lúc  khởi nghĩa thì quân Tây Sơn còn yếu mà dám chống lại với quân của Chúa Nguyễn,  ai ngờ giống y chang câu chuyện trong Kinh Thánh David thắng Goliath 
                                              Số đâu  có số lạ lùng 
                                                  Con vua  lại lấy hai chồng làm vua 
                                    Bà Ngọc Bình (em của công chúa Ngọc Hân vợ vua Quang  Trung) là con út của vua Lê Hiển Tôn được gả cho Nguyễn Quang Toản tức là vua  Cảnh Thịnh. Sau 26 năm lưu lạc ngày 15 tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh trở lại Phú  Xuân. Vua Cảnh Thịnh lúc này bỏ ngai vàng, ấn tín sắc phong của nhà Thanh chạy  ra miền Bắc. Người vợ trẻ của ông là công chúa Ngọc Bình (chắc cũng đẹp lắm)  cùng một số cung nữ không kịp theo đều sa vào vòng tay của quan quân nhà  Nguyễn. Năm 1802 Nguyễn Vương lên ngôi vua và tuyển bà Ngọc Bình làm thứ phi  mặc dù nhiều đại thần can gián. Phải chăng một trò chơi định mệnh? Hai kẻ cừu  địc không đội trời chung Nguyễn Huệ Quang Trung và Nguyễn Ánh Gia Long trở  thành anh em cột chèo. Bà Ngọc Bình sinh hạ được hai trai là Quảng Oai Công  ngày 20.05.1809 (con thứ 10) và Thường Tín Quận Vương ngày 20.10.1810 (con thứ  11) 
                                    Nguyễn Văn Khôi con nuôi của Lê Văn Duyệt nổi lên chống  triều đình dưới thời vua Minh Mạng. Lê Văn Khôi chiếm thành Phiên An (Gia Định)  rồi lan dần đến các tỉnh kế cận. Quan quân nhà Nguyễn từ Huế vào đánh dẹp rất  vất vả. Các bà có chồng ra đi chỉ mong cho được:  
                                              Bao giờ  bắt đặng ông Khôi 
                                                  Lấy thành  Gia Định chồng tôi mới về 
                                    Ông Khôi chống giữ thành Phiên An được 1 năm thì bị bệnh  rồi mất. Quân của ông Khôi còn chống giữ non 3 năm nữa mới thôi. 
                                    Hường Bảo là con đầu của vua Thiệu Trị vì không được nối  ngôi cha cho nên lấy làm phẫn uất, âm mưu chiếm đoạt ngai vàng cũng bị bại lộ,  nên bị em thứ hai là vua Tự Đức bỏ vào ngục rồi chết trong đó. Theo cụ Trần  Thanh Mai trong "Tuy Lý Vương" thầy cũ của Hường Bảo là Tương An Quận  Công có câu than:  
                                              Chiều  chiều lại nhớ chiều chiều 
                                                  Nhớ người  đảy gấm, khăn điều vắt vai 
                                    Trong cuốn "Cố đô Huế" của Thái Văn Kiểm thì cụ  Tùng Lâm Lê Bá Cư (Phó Bảng Cư) cho rằng 2 câu trên là của công chúa Đồng Xuân,  con vua Thiệu Trị, để tưởng nhớ vua Hiệp Hòa. Ông này, lúc còn là Hoàng tử Lảng  Quốc Công hay mang cái đảy gấm đựng thuốc điếu vấn sẵn móc trên nút áo và cái  khăn điều vắt trên vai để lau nước trầu ở miệng, thường hay đi dạo vào buổi  chiều, nhất là thường đến thăm công chúa Đồng Xuân. 
                                      Cũng vì sự phế bỏ con trưởng lập con thứ, cũng vì tranh  giành ngôi báu để phải chết trong ngục, cảnh anh em chém giết nhau lại một lần  nữa được thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh phụ họa trong một bài thơ tứ tuyệt  
                                              Ngã  sinh chi sơ nhữ vị sinh 
                                                  Nhữ sinh  chi hậu ngã vi huynh 
                                                  Nhứt dường  cộng hưởng trấn cam vị 
                                                  Hà nhẫn  tương vong cốt nhục tình 
                                    được dịch là:  
                                              Tớ đẻ  trước khi chú chửa sinh 
                                                  Sau sinh  chú tớ được làm anh 
                                                  Ngọt bùi  chẳng nghĩ cùng nhau hưởng 
                                                  Cốt nhục  mà sao nỡ dứt tình 
                                    Bài thơ "ác ôn" được làm ra trong bữa tiệc giữa  vua tôi nhà Nguyễn. Vua Tự Đức vừa ăn vừa nói chuyện thơ văn một cách say sưa  nên đã cắn phải lưỡi cũng là đầu đề bài thơ đã được thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh  làm nhanh nhất. Kết quả là mỗi câu thơ được lãnh một lạng vàng tiền thưởng vì  lời thơ hay, nhưng ý thơ lại quá ác đáng bị ghép tội "đại bất kính",  vì thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh là thầy vua Thiệu Trị cho nên chỉ lãnh thêm một roi  để phạt. Thấy sự đãi ngộ đối với thầy của vua không được thỏa đáng nữa cho nên  thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh đã xin cáo quan về nhà dạy học. 
                                      Làm vua lúc 19 tuổi đã có vợ rồi, sau đó còn cưới thêm  nhiều bà, trong số đó có bà Học Phi, mà đến 35 tuổi vẫn chưa có con. Vua Tự Đức  đi tìm an ủi trong bốn chữ "Sinh ký tử quy" nghĩa là sống trên đời  này chỉ là tạm bợ, chết mới thật là về nơi muôn đời. 
                                      Với tư tưởng đó, Tự Đức quyết định xây một sinh phần nguy  nga gọi là Vạn Niên Cơ (tức Khiêm Lăng ngày nay). Lệnh khai trương công trường  vào tháng 9 năm Giáp Tý (1864) với dự trù kéo dài 6 năm. Biện lý Nguyễn Văn  Chất và Nguyễn Văn Xa muôn tâng công và trổ tài nên chỉ xin 3 năm thì xây xong.  Thế là hàng ngàn dân phu, hàng trăm loại thợ dưới sự canh gác của 300 lính hàng  ngày nai lưng ra làm từ sáng đến hết canh một. Cảnh khổ sai ấy gây nhiều tang  tóc. Tuy Hường Bảo đã chết, con bị cải thành họ mẹ, nhưng vây cánh vẫn còn mạnh  để cố loại vua Tự Đức và đưa con của Hường Bảo là Đinh Đao lên ngôi. 
                                      Lợi dụng thời cơ này, nhóm Hường Bảo đã tung câu hát để  kích thích lòng căm phẫn dân chúng:  
                                              Vạn  Niên là Vạn Niên nào? 
                                                  Thành xây  xương lính, hào đào máu dân 
                                    Câu ca dao quả thật không ngoa nhưng cuộc khởi nghĩa  chống vua Tự Đức năm 1866 bị thất bại. Nhóm cầm đầu là Đoàn Hữu Trung (con rể  Tùng Thiện Vương), Đoàn Hữu Ái và Đoàn Tư Trực (ba anh em quê quán làng Chuồn,  An Truyền, Phú Vang), Trương Trọng Hòa, Nguyễn Văn Quý... đều bị lăng trì bêu  đầu, tịch thu gia sản. Đinh Đạo cùng mẹ, vợ, con cái tất cả 8 người đều bị treo  cổ (theo Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược) 
                                              Nhất  giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết 
                                                  Tứ nguyệt  tam Vương triệu bất  tường 
                                    nghĩa là:  
                                              Một sông  hai nước lời khó nói 
                                                  Bốn tháng  ba vua, điềm chẳng lành  
                                    Một con sông Hương mà bên này (hữu ngạn) là chính phủ Nam  triều, phía bên kia (Tả ngạn) là chính phủ bảo hộ mà tượng trưng là tòa Khâm sứ  (ngày xưa, các nhà sử địa gia định hướng từ phương Đông sang phương Tây, từ cửa  biển, cửa sông hướng về nguồn Trường Sơn thì phía bên mặt là hữu, còn phía bên  trái là tả. Ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phước chỉ kế tiếp nhau trong vòng 4  tháng. Câu đối rất hay là nói lên hiện tình đất nước lúc bấy giờ, tài tình là  còn ghép được tên hai quan phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn  Tường đương thời ở cuối hai câu. 
                                      Sau khi người Pháp đến Huế, dân gian có truyền ca câu hò:  
                                              Mưa  trên trời mưa sa xuống 
                                                  Gió ngoài  Hà Nội gió thổi vô 
                                                  Kể từ ngày  thất thủ kinh đô 
                                                  Ông Tây  qua giăng dây thép, họa địa đồ Việt Nam 
                                    Khi vua Hàm Nghi lẩn tránh trong dãy Trường Sơn nơi mạn  ngược Quảng Bình và Hà Tĩnh, có nghe câu:  
                                              Lần theo  dấu thỏ non đoài 
                                                  Miễn phò  đặng chúa, dám nài chi công 
                                    Ngày thất thủ kinh đô 05.07.1885 tức là ngày 23 tháng 5  năm Ất Dậu, nhóm chủ chiến phò vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, lên Tân Sở rồi theo  đường núi đến Hà Tĩnh. Tại đây hịch Cần Vương được ban ra khắp nước. Dấu thỏ  non đoài là ám chỉ đường mòn trên dãy Trương Sơn rất vất vả. 
                                    Phong trào Cần Vương phát động mạnh mẽ ở vùng Nam Nghĩa  và Nghệ Tĩnh và những nghĩa sĩ vẫn tiếp tục kháng chiến. Ở Huế có vua Đồng  Khánh được Pháp đặt lên ngôi và nhờ có quân đội Pháp nên tạm yên, bởi vậy có  câu:  
                                              Ngẫm  xem thế sự thêm rầu 
                                                  Ở giữa  Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi 
                                    Theo ông Bửu Kế thì câu này bị cấm dưới thời Đồng Khánh 
                                      Cùng một ý niệm như trên, dưới thời Đồng Khánh có câu:  
                                              Một nhà  hai chủ không hòa 
                                                  Hai vua  một nước ắt là không yên  
                                    Vua Tự Đức tuy đã lấy 104 vợ mà đến năm 35 tuổi vẫn không  có con nên đành phải nuôi ba người cháu gọi mình bằng bác ruột làm con nuôi: 
                                      1. Ưng Chân tức là Đức Dục Đức con Thoại Thái Vương 
                                      2. Ưng Đường tức Chánh Mông, vua Đồng Khánh con Kiên Thái  Vương 
                                      3. Ưng Đăng tức Dưỡng Thiện, vua Kiến Phước con Kiên Thái  Vương 
                                      Sau khi vua Kiến Phước chết, người em vua Kiến Phước, Ưng  Lịch lên ngôi là vua Hàm Nghi (01.08.1884). Kinh đô Huế thất thủ, vua Hàm Nghi  13 tuổi lãnh đạo phong trào Cần Vương (nghĩa là hết lòng hết sức với vua). Pháp  đưa Đồng Khánh lên ngai vàng nên mới có câu hát  
                                              Một nhà  sanh đặng ba vua 
                                                  Vua còn,  vua mất, vua thua chạy dài 
                                    Vua còn là Đồng khánh, vua mất là vua Kiến Phước, vua  thua chạy dài là Hàm Nghi. 
                                    Dưới thời các chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần thì  Kim Long là nơi đô hội.  Sau khi chúa Nguyễn Phúc Trăn (1687) đưa thủ phủ về Phú Xuân, Kim Long lại  được giao cho các ông Hoàng bà Chúa. Đặc biệt con gái Kim Long phần đông làm  nghề thủ công ở chỗ im mát, lại xuất thân từ các gia đình có nề nếp văn hóa cho  nên vừa đẹp, vừa nết na, duyên dáng rất dễ thương... Sự hấp dẫn, nét kiều diễm  của con gái Kim Long nổi tiếng và vang xa... Dân gian đã ghi nhận hiện tượng  hấp dẫn đậm đà kia qua câu ca:  
                                              Kim  Long có gái mỹ miều 
                                                  Trẫm yêu,  trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi 
                                    Câu hát không ghi rõ "trẫm" đây là ai, nhưng  nhiều người quả quyết chỉ có "Ngài Thành Thái" mới dám  "liều" như thế. 
                                      Chuyện kể rằng: Vào một ngày trong Tết Nguyên Đán, vua  Thành Thái cải trang thành một người dân bạch tinh đi "liều" lên Kim  Long để tìm chọn một quý phi. 
                                      Đến nơi, nhìn khắp đây đó không gặp được người vừa ý,  thất vọng, bèn thuê một chiếc đò ra về. Đò cặp bến, lòng ông bỗng xao xuyến khi  thấy cô lái đò trong chiếc áo vá vai, đôi môi ửng hồng rất có duyên. Ông hỏi  một câu rất đột ngột: 
                                      - Nì, o tê! O có muốn lấy vua không? 
                                      Cô lái đò thiệt tình nhìn ông khách lạ đối đáp: 
                                      - Đừng có nói bậy mà họ lấy đầu chừ! 
                                      Điệu bộ và giọng nói thật thà của cô gái càng đáng yêu  hơn, vua Thành Thái đổi giọng: 
                                      - Tui nói thiệt đó, o có muốn lấy vua thì tui làm mối  cho! 
                                      Nghe rứa cô lái đò làng Kim Long thẹn thùng, cúi mặt nhìn  lơ qua chỗ khác. Một khách đi đò lớn tuổi, khăn đen áo dài chững chạc chừng như  mới đi lễ về, tủm tỉm cười vui vẻ nói với cô gái: 
                                      - Nì, o tê! O cứ nói "ưng" để coi thử nờ! 
                                      Cô lái đánh bạo nói nhanh: 
                                      -"Ưng". 
                                      Vua Thành Thái thích thú đứng dậy đi về phía lái, cầm tay  cô kéo ra đầu mui thuyền. Mặc cho cô gái thẹn thùng dùng dằng, ông bảo: 
                                      - Rứa thì quý phi ngồi để trẫm chèo cho! 
                                      Nói xong đi ra sau lái cầm chèo đưa đò đi trước sự ngạc  nhiên vui vẻ của mọi người. 
                                      Chiếc đò xuôi theo dòng sông Hương êm ả... Cô lái không  hiểu chuyện gì sẽ xảy ra... Đến trước kinh thành, vua đưa đò đậu ở bến Nghinh  Lương (trước Phu Văn Lâu) và bảo mọi người: 
                                      - Thôi thiên hạ đứng dậy trả tiền đò cho trẫm và tiễn quý  phi vào cung! 
                                      Mọi người đều làm theo ý nhà vua, tất cả đứng dậy rời đò  và đưa cô lái đò Kim long vô Nội làm quý phi của vua Thành Thái. 
                                      (Theo lời kể của Bảo Hiền, cháu nội vua Thành Thái, trong  cuốn "Chuyện các bà trong cung Nguyễn") 
                                      Có người lại giải thích như sau: Thuở ấy ở Kim Long có  nhà cụ Nguyễn Hữu Độ (Nay là nhà thơ Vĩnh Quốc Công). Ông này nguyên làm Kinh  lược Bắc Kỳ, được Pháp đưa về bàn việc lập vua mới thay vua Hàm Nghi. Ông có ba  người con gái rất xinh đẹp, một gả cho vua Đồng Khánh (gọi là Thánh Cung), một  gả cho em vua Hàm Nghi (Ưng Quyến), còn lại người con gái út chưa chồng là  Nguyễn Hữu Thị Nga. Vua Thành Thái thấy cô ta mỹ miều nên hay đi xe song mã lên  chơi. Sau này 1895 bà này cũng được đưa vào cung phong làm Huyền Phi. Câu hò  trên kia, theo một người cháu của tư đường Vĩnh Quốc Công, do chính miệng của  vua Thành Thái nói ra để đùa với cô nàng, rồi lan dần ra công chúng. 
                                    Câu hò sau đây được cụ Ưng Bình Thục Gia cho biết là được  nhiều người công nhận là có liên hệ với vua Duy Tân:  
                                              Chiều  chiều trước bến Văn Lâu 
                                                  Ai ngồi,  ai câu, ai sầu, ai thảm 
                                                  Ai thương,  ai cảm, ai nhớ, ai trông? 
                                                  Thuyền ai  thấp thoáng bên sông, 
                                                  Đưa câu  mái đẩy, chạnh lòng nước non 
                                    Trước Phu Văn Lâu có ngôi nhà mát gọi là Lương Tạ, phía  trước có Nghinh Lương Đình (nhà đón gió), sau có bến ngày trước dành cho Long  thuyền đậu, nay để cho mọi người đến tắm hay câu cá vào mỗi buổi chiều. Tương  truyền rằng vào khoảng đầu tháng 5 năm 1916, Trần Cao Vân giả dạng đến ngồi câu  ở đây để chờ gặp vua Duy Tân. Chiếc thuyền thấp thoáng bên sông là chờ sẵn để  đón vua trốn khỏi kinh thành. Âm mưu bị bại lộ. Vua bị bắt và bị đày sang đảo  Réunion cùng một nơi với vua Thành Thái. Những người chủ mưu như Trần Cao Vân,  Thái Phiên... thì bị xử chém tại pháp trường Anh Hòa. Dân Huế cảm thương va  chạnh lòng cho non nước. 
                                      Pháp đã mộ lính ở các nước thuộc địa chở về đánh giặc  thuê cho mẫu quốc trong đệ nhất Thế chiến (1914-1918) và đệ nhị Thế chiến  (1939-1945). Vì kinh tế gia đình khó khăn nên có nhiều người phải bỏ Huế ra đi,  để lại con thơ, vợ dại, thật đáng thương tâm:  
                                              Anh đi  Tây bỏ bầy con dại 
                                                  Tay dắt,  tay bồng thảm hại lắm anh ơi! 
                                    Nền bảo hộ mới đã xuất hiện nhiều vua chúa và quan lại  làm tay sai cho thực dân Pháp, chỉ lo vinh thân phì da, còn quốc sự thì phó mặc  cho Bảo Hộ, và họ đã làm bẩn lịch sử oai hùng của dân tộc kiêu hùng Việt Nam,  nên dân chúng mới đặt ra câu hỏi đáp dí dỏm như sau:  
                                    Hỏi:   Vua bù  nhìn, quan tay sai 
                                                  Đố ai  biết, ai đẻ ra ai? 
                                      Đáp:   Thằng Tây  mới thật đại tài 
            Bù nhìn khéo  nặn, tay sai khéo tìm 
                                    ***** 
                                    Ngày 20.07.1954 hiệp định Genève được ký kết giữa Pháp và  Việt Minh đưa đến tình trạng chia đôi đất nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc  thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Riêng Miền Nam, vào ngày 23.10.1954  đã tổ chức trưng cầu dân ý và ngày 26.10.1954 chính phủ Ngô Đình Diệm đã tuyên  bố Việt Nam là một nước Cộng Hòa theo Tổng thống chế. Bảo Đại, vị vua thứ 13  của triều Nguyễn thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ... 
                                    Ghi chú: 
                                      Đào Duy Từ (1572-1634): Đệ nhất khai quốc công thần thời  Nguyễn sơ; có tài cai trị, giỏi mưu lược. Người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn,  phủ Tỉnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (Trung Phần). Thông minh, tinh thông kinh sử, sở  trường về thơ văn, lại tinh hiểu lý số và binh thư đồ trận. Nhưng là vì con nhà  xướng ca (thân phụ là Đào Tá Hán làm Quản Giáp trong nghề ca hát, rồi lên chức  Linh Quan, coi đội nữ nhạc trong Đại nội dưới triều vua Lê Anh Tôn) nên không  được đi thi. Phẫn chí ông rời Đông Kinh (Hà Nội sau này) đi vào Nam để xây dựng  sự nghiệp. 
                                      Đến phủ Hoài Nhơn (tức phủ Bống Sơn tỉnh Bình Định ngày  nay), ông vào chăn trâu cho một vị điền chủ có tên tuổi ở thôn Tùng Châu. Được  quan Khám Lý Trần Đức Hòa ở Qui Nhơn mến tài, trọng đức, gả con gái cho và tiến  cử lên chúa Sãi dùng làm Nội Tán. Từ đó gặp thời vận, suốt 8 năm trời, ông dốc  lòng giúp chúa Nguyễn, bày mưu tính kế chống quân Trịnh và có công lớn trong  việc xây thành đắp lũy (lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, lũy Nhật Lệ tức Định  Bắc Trường Thành- tên gọi dưới thời Thiệu Trị tục gọi lũy Thầy, trên sông Nhật  Lệ ở Đồng Hới, Quảng Bình). Ông mất ngày 17 tháng 10 năm Giáp Tuất (1634), được  phong tặng chức Tán trị Dực vận, Kim tử Vinh Lộc Đại Phu, Đại Lý Tự Khanh tước  Lộc Khê Hầu. Sau, ông được phong làm Phúc Thần, dân chúng lập đền phụng tự. Đời  Gia Long ông được liệt vào hạng Công Thần Thượng Đẳng, thờ trong Thái Miếu. Đến  đời Minh Mạng, tặng chức Thái Sư Hoằng Quốc Công. Ở huyện Phong Lộc (Quảng  Bình) có đền thờ Đào Duy Từ gọi là đền Hoằng Quốc Công. 
                                      Lúc còn hàn vi, để tỏ chí hướng của mình muốn đem tài trí  giúp chúa Nguyễn và tự ví mình như Gia Cát Lượng bên Tàu. Khi còn ẩn tại núi  Ngọa Long, Đào Duy Từ viết bài "Ngọa Long cương vãn" bằng quốc âm  theo thể lục bát. Ngoài ra ông còn để lại bài "Tư Dung vãn" cũng làm  bằng văn quốc âm theo lối lục bát trường thiên và một bộ binh thư nhan đề:  "Hổ trướng khu cơ"(*) 
                                      (*) Cao Xuân Dục: DNNTC 
                                      Quốc sử quán: Liệt truyện 
                                      Dương Quảng Hàm: VHSY- Nha học chính Đông Pháp, Hà Nội  -1943.                                      |