CHUYỆN VUI BUỒN CẢI TẠO

 
 

Dương Hoài Ninh

Chuyện tù cải tạo toàn là đau buồn chứ làm sao mà vui được nhỉ? Ấy thế mà cũng có đấy. Tôi xin “nhập đề lung khởi” một chút. Nhiều người đã viết về chuyện buồn nát ruột ra rồi và viết hay nữa như Hà Thúc Sinh với Đại Học Máu,Tạ Tỵ với Đáy Địa Ngục v.v. Thật ra, Đại Học Máu cũng có chuyện cười… ra nước mắt và Hà Thúc Sinh ở cùng trại Trảng Lớn (Tây Ninh) nhưng khác tiểu đoàn với tôi nên tôi không muốn đi sâu vào chi tiết những việc “học tập” mà sẽ kể dăm ba chuyện vui lẫn buồn đã thực sự xảy ra trong khu vực tôi ở tù và theo trí nhớ của tôi. Do đó, chuyện vui lẫn buồn này khó có khả năng hay cơ may gây cười cho người đọc nhưng cũng không phải là chuyện nghe qua rồi bỏ bởi vì đó là tất cả sự thật! Cười hay mếu, theo thiển ý của tôi, chẳng quan trọng cho bằng sự thật chưa được ai kể lại, dù có nhiều quyển hồi ký về tù cải tạo ngoài hai quyển trên, chẳng hạn như Cùm Đỏ, Trại Trừng Giới, Những Bước Chân Tù v.v... Lý do đơn giản là tiểu đoàn mà tôi đi tù cải tạo chưa có nhà văn nào chịu viết ra nên tôi đành phải “múa rìu qua mắt thợ” vậy! Chính vì “múa rìu… ” nên tôi cũng chỉ kể lại đơn sơ dăm ba chuyện để góp phần vào những chuyện tù cải tạo, sợ để lâu quên mất do trí nhớ giảm sút khi mình ngày càng già đi.
……………………
Trước khi nạp mình cho “cách mạng”, tức là ngày 24-6-1975, tôi cùng người anh họ đã chuẩn bị cho những ngày tù tội của mình hơi khác với mọi người. Đó là buổi sáng dậy sớm ra ngồi quán cà phê cạnh nhà làm một ly xây chừng rồi chở nhau bằng chiếc xe đạp cũ mới mua để lên nhìn phố xá Sài Gòn một lần chót. (Chiếc xe Honda của tôi thì vẫn đứng nép bên vách tường bà chủ nhà vì xăng bấy giờ thuộc nhà nước, tư nhân không dám bán. Chiếc Honda trên cũng có số phận trùng hợp“nạp mình” giống y như tôi sau đó khi rơi vào tay một y sĩ cán bộ! ). Tôi không tin mình sẽ về đúng kỳ hạn theo thông cáo của Ủy ban Quân Quản. Chẳng hiểu đó có phải là do tôi bi quan hay có linh cảm về một tương lai bất trắc ở phía trước nên tôi đành hờ hững đạp xe dạo quanh phố phường xem như là lần cuối cùng. “Cuối cùng cho một tình yêu”… tự do đã mất chăng? Đến chiều, tôi mới chạy đến nhà bà chị họ lấy một lon Guigoz đựng ruốc gồm đủ thứ hầm bà lằng như thịt, đậu phụng, gừng v.v... mà chị dặn mấy ngày trước rồi lững thững dẫn xác đến địa điểm tập trung là một vận đồng trường ở đường Nguyễn Kim. Đang ngồi mơ mơ màng màng tựa lưng vào tường đến nửa đêm, bỗng tôi bị đánh thức dậy cùng với mọi người để lục tục xếp hàng lên cả chục xe Molotova bít bùng đợi sẵn ở bên ngoài!

Chẳng ai đoán nỗi xe sẽ chở đi đâu vì xe bị bịt kín và hai vệ binh lăm lăm cò súng ngồi sau cùng. Đoàn xe chạy vòng vèo qua không biết bao nhiêu con đường đến tờ mờ sáng, người tù cải tạo mở mắt ra mới biết là mình đang ở trong trại Trảng Lớn, một căn cứ quân sự cũ, trông hoang vu đổ nát.

Thời gian đầu nhập trại có lẽ là giai đoạn hoang mang nhất của người tù cải tạo. Hoang mang càng ngày càng tăng lên mãnh liệt, căn cứ vào thông cáo của Ủy ban Quân Quản là mang theo lương thực đủ dùng trong 10 rồi 30 ngày. Hoang mang cực độ là phải vì trước đó hạ sĩ quan và binh sĩ bị gom lại đi học tập 3 ngày ở phường đều đã được trở về nhà một cách phấn khởi hồ hởi. Bây giờ người tù cải tạo mới bật ngửa ra đó chỉ là cái “mánh” để gom vào lưới toàn bộ sĩ quan, cán bộ chế độ cũ. Tuy thế, sự hoang mang cũng bị hạn chế vì những lý do khách quan. Người tù cải tạo buộc phải lao động ổn định nơi ăn chốn ở mới rất mệt mỏi, không những cho mình mà cho cán bộ quản giáo tiểu đoàn, trung đoàn v.v… Tối về, họ còn phải họp tổ để kiểm điểm, rút ưu khuyết điểm và đề ra phương hướng khắc phục. Không khắc phục sao được khi chẳng có nhiều dụng cụ nào như búa, kềm, cuốc, xẻng… may lắm chỉ có vài ba cái thì làm sao hoàn thành được chỉ tiêu công tác. Không đinh thì dùng kẽm gai cắt ra rồi tán nhọn một đầu làm đinh. Dây kẽm thì dễ hơn, chỉ gỡ gai ra là làm dây để cột. Quanh đi quẩn lại là lao động mệt phờ người rồi họp tổ làm rã rời cả xác lẫn hồn khiến tù cải tạo không còn thì giờ nhiều để hoang mang… “toàn thời” như trước nữa. Đã thế, ăn uống quá thiếu thốn không đủ sức lao động nên cái ăn là một ám ảnh kinh hoàng. Ai cũng chú ý đến việc ăn, thậm chí so đo từng bó rau úa lá, từng miếng cơm cháy cho Đội, cho Tổ của mình. Lý do cũng dễ hiểu là để có sức cầm cự, khỏi bỏ mạng ở trại tù cải tạo trước khi được thả về với gia đình. Chính vì thế mà ăn không có gì, tôi vẫn nuốt được và đôi khi cũng cảm thấy ngon. Tại sao? Có lẽ là có yếu tố tâm lý, triết lý trong đó. Ăn để tồn tại chứ không phải tồn tại để ăn!

Lao động một thời gian, tù cải tạo cũng quen dần những việc trước đây chưa ai từng mó đến. Lúc này người nào cũng mong đến ngày học tập, chứ lao động hoài cũng chán. Học tập xong mới có ngày trở về, dù không ai biết rõ học tập tốt là như thế nào để được về sớm như cán bộ lải nhải “học tập tốt sẽ về sớm”. Câu trên nằm ở đầu môi chót lưỡi của cán bộ quản giáo nhiều nhất là khi tù cải tạo bắt đầu khai lý lịch trên cái gọi là bản lý lịch trích ngang. Thôi thì phải khai từ đời ông bà nội, ông bà ngoại đến cha mẹ mình và của vợ. Họ đã ở đâu, làm gì, nếu chết thì khai rõ do nguyên nhân nào mà họ hết muốn sống v.v…? Khai không những anh em ruột mình và của vợ mà còn cả những anh em ruột của cha mẹ mình cùng con cái của họ nữa. Riêng quan hệ bạn bè thì ai dại gì mà khai, dù có muốn “thấy sang bắt quàng… ” đi nữa, vì chẳng ai biết rõ họ cách mạng thật hay giả lúc mình ở tù. Nhờ khai lý lịch mới biết thêm học tập tốt là thành khẩn khai báo tất cả mọi liên hệ của mình để cách mạng tạo điều kiện cho về sớm và giúp trở thành người tốt. Cũng có người mắc mưu này nên phải nhường anh em khác về trước mình… vài cuốn lịch! 

Sau một thời gian, có lẽ hơn 1 năm khăn gói đi tù cải tạo ở trại Trảng Lớn, một hôm bỗng tôi khám phá ra mình yếu sức rõ rệt khi tôi không thể nào kéo gàu nước từ giếng lên một cách dễ dàng như nhiều lần trước đó. Ban đầu, tôi cảm thấy như đôi tay của mình hoàn toàn mất hết sinh lực, mềm đi, không thể co duỗi mạnh mẽ như cũ và hai chân chẳng những không bám chắc được nền đất mà còn không thể dựa chặt vào thành giếng để kéo gàu nước lên. Tôi đành để gàu không mà kéo lên từ từ, từng đoạn. May là từ đáy đến miệng giếng không cao lắm. Tôi sợ hãi thực sự, tưởng đời mình chưa gì đã tàn trong ngõ hẹp và cố gắng suy nghĩ nguyên nhân tại sao tôi bị như vậy, nói đúng hơn là cái triệu chứng tôi đang mắc là do bệnh gì mà có. Nhiều anh bạn cũng đã từng than vãn với tôi về những triệu chứng như phù thủng, nặng và yếu chân tay v.v… nhưng bây giờ chính tôi cũng bị một ít triệu chứng của bệnh beriberi như họ vậy. May mắn là tôi không bị ghẻ lở như người khác. Đó là hai bệnh phổ biến mà hầu như ai cũng mắc phải. Dù lúc ấy, tù cải tạo chưa được phép thăm nuôi nhưng được phép nhận quà trong đó có thuốc trụ sinh, sinh tố v.v… nên người nào được tiếp tế kịp thời thì có cơ may chữa lành còn anh nào chưa được tiếp tế thì xin nhà bếp ban “ơn mưa móc” là cho nước vo gạo để trị và rồi bệnh tôi cũng được khống chế. Duy có bệnh ghẻ thì nhiều anh cũng phải gẩy đờn tịch tình tang dài dài vì con cái ghẻ hè nhau tấn công cơ thể người tù trên… mặt trận rộng. Có anh trèo lên nóc hầm tránh pháo kích để tự điều trị cho thoải mái, sợ phô “của quý” ra làm “công xúc tu sĩ” chăng? Liều thuốc… thần dược trước mắt hồi đó là thuốc súng (có sẵn rải rác trong căn cứ quân sự Trảng Lớn) vì xem như nó có thể thay thế cho lưu huỳnh nên anh nào anh nấy lo… nạp thuốc từ trên cao, vừa kín đáo vừa mát mẻ! Thuốc trừ muỗi cũng là thần dược, theo lời một số… nạn nhân ghẻ!

Tất nhiên, tôi vốn có bệnh viêm xoang mãn tính từ bé thì không kể vì tôi “chung sống hòa bình” với bệnh này lâu rồi, nó thường gây phiền nhiễu, mà chẳng nguy hiểm gì ngay tức thời . Tôi chỉ sợ mình không đủ sức lao động để sống sót. Đi tù thì cùng lắm ngồi gỡ hết vài tấm lịch là biết ngày về chứ đi tù cải tạo thế này thì không án, hạn kỳ mơ hồ, chẳng biết đâu mà mò! Lo quá cũng không giải quyết được gì, lại dễ bị bệnh thì khốn. Thôi thì ai cũng đành phải đổ lỳ ra mới sống nổi. Có anh còn đề ra triết lý gói gọn trong bốn chữ “Đến đâu hay đó”! Hình như những người bi quan can đảm đã chọn cho mình mỗi người một cách kết liễu cuộc đời ngay trong năm đầu tiên. Có một anh dược sĩ chế chất nổ để tự sát. Có anh tự cho phép mình ra trại khi hết hạn kỳ tập trung của Ban Quân Quản. Vệ binh gác cổng đuổi vào cũng cứ điếc không sợ súng mà bước, thế là súng nổ và anh từ giã cõi đời có lẽ theo cách anh đã tự chọn từ trước. Lại có anh coi như không có hàng rào kẽm gai mấy lớp nên đã lầm lũi vượt qua lúc trời tối và mìn nổ thì xác anh tung lên phơi hàng rào sáng hôm sau. Người tù vượt ngục Ngô Nghĩa tìm cái chết trước một đội hành quyết là trường hợp nổi tiếng nhất đã được Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu. Có thể nói Trại Trảng Lớn là nơi tập trung hầu hết thành phần đủ loại chuyên môn vào lò cải tạo. Bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi HVC, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia LQU, khá nhiều giáo sư đại học, bác sĩ, luật sư, nhà văn, ký giả, kỹ sư v.v… nghĩa là hầu như toàn bộ tinh hoa VNCH. Thế nhưng cũng có dăm ba anh thuộc vào diện… dở khóc dở cười như bị tố cáo là CIA, dù chỉ là người câm (bẩm sinh) quét dọn trong Bộ Tư lệnh Cảnh Sát hoặc mang lon sĩ quan giả để cua gái nên bị phường gửi vào trại học tập cho… bỏ ghét, có lẽ để cho anh chàng đền cái tội đã lếu láo cuỗm mất người đẹp của cán bộ nằm vùng bây giờ làm lớn chăng? Theo một hồi ký tình cờ tôi đọc được, có anh tự xưng là Trung tướng Tư lệnh Sư Đoàn 23A Bộ Binh (?) cũng bị tù cải tạo ở ngoài Bắc theo diện Sĩ quan cấp Tướng! Tên anh ta là Nguyễn Văn Huệ không hề có tên trong hàng tướng lãnh VNCH. Đúng là chuyện khó tin mà có thật!

Tiểu đoàn tôi nghe nói có rất nhiều bác sĩ nhưng oái oăm thay, Đội tôi đốt đuốc không tìm ra thầy thuốc nào cả ngoài tôi. Dược sĩ, nha sĩ thì có nhưng họ có lý do hợp lý để từ chối nên tôi đành phải “ăn cơm tù… và vác ngà voi”. Tuy công việc này chỉ là dẫn người có bệnh lên cho y sĩ cán bộ khám bệnh nhưng thực ra là xin thuốc gồm một loại thuốc tây độc nhất là Aspirin trị… bá bệnh! Đau đầu hay đau bụng gì cũng dùng Aspirin tuốt tuồn tuột! Đúng là thần dược (?) Những anh tù nào chẳng may cần thuốc đặc trị thì đành phải dùng KaPemycin vậy! Tức là thuốc trụ sinh có tên đặc biệt là “Khắc Phục”!!! Dẫn bệnh nhân xong (1- 2 lần/tuần) là về làm đủ thứ việc linh tinh trong Đội. Nếu được phụ trách về y tế thôi thì sướng quá, chẳng phải làm việc nặng mà chỉ nặng khi một lần tôi đứng đực mặt ra để nghe tên y sĩ cán bộ chưởi những lời nặng như búa bổ xuống đầu mình. Nguyên lúc bấy giờ, tiểu đoàn yêu cầu các đội báo cáo cho họ biết nguyện vọng về thuốc trị bệnh của cải tạo viên. Với sự cố vấn kiểu “quân sư quạt mo” của vài người, tôi bèn viết một tờ kê khai hơn chục loại thuốc dài như sớ Táo quân và chỉ ký tên đàng hoàng ở phía dưới (không dám đóng dấu!) thế mà ông y sĩ bộ đội nổi giận nặng lời cho rằng tôi có tội bôi bác cán bộ, bôi bác cách mạng! Anh vào đây học tập cải tạo mà sao dám bố láo bố lếu viết chêm vào nhiều chữ nước ngoài như thế? Muốn viết tiếng nước ngoài thì phải đánh vần ra tiếng VN ta mà viết để cho trong sáng rõ ràng! Anh cố tình bôi bác vì đã đánh giá thấp khả năng chữa bệnh của cán bộ cách mạng. Đế quốc Mỹ “giàu mà không mạnh” còn thua, các anh là cái thá gì! Thật ra, họ giả vờ làm như quan tâm đến sức khỏe tù nhân vì tình trạng quá khan hiếm thuốc, còn báo cáo chỉ là hình thức. Cũng may cho tôi, sau này các đội tổ chức lại sau vài đợt biên chế nên tôi đã phải “tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa”! Còn tiểu đoàn cũng có y sĩ cán bộ mới là một người Tày dễ chịu hơn nhiều và chính anh này chẳng biết tại sao lại biết tôi có chiếc xe Honda mà đến hỏi gạ mua. Suy nghĩ mãi, tôi mới sực nhớ ra là mình có kê khai tài sản trong mục liên quan “đặc quyền đặc lợi” của tờ khai lý lịch trích ngang! Khôn thật!

Chỉ năm đầu trong gần ba năm nằm tù cải tạo, tôi mới biết duy nhất một lần có lễ Giáng Sinh sắp diễn ra ở bên ngoài trại tù. Chuông nhà thờ ở xóm đạo Cao Xá không xa Trảng Lớn bao nhiêu vọng về nghe rõ những hồi chuông vừa quen thuộc vừa xa vắng làm tê tái cõi lòng! Tê tái cũng phải vì năm đó, thời tiết bỗng trở lạnh hơn hẳn những mùa đông trước đây, theo lời những anh bạn từng đóng quân ở Tây Ninh. Đêm Noel, nằm vắt tay lên trán, tôi trằn trọc không sao ngủ được, một phần vì chỉ còn dăm ngày nữa là hết năm. Chung quanh mình cũng có vài anh đã ngáy ầm lên hết sức vô tư nhưng phần lớn là nói chuyện tầm phào làm “một đêm không ngủ” cho qua lễ Giáng Sinh. Lan man từ chuyện nọ nhảy chuyện kia lung tung, có lúc bàn ra tán vào chuyện đèn sách du học… Tây (Ninh) mà “sinh viên” có người từng là giáo sư thực thụ, giáo sư thỉnh giảng v.v… ở ngoài đời. Mấy anh “quản giáo” cũng rét nên có anh phải xử dụng khẩu súng để giương oai nói cứng ta đây bóp cò súng mà bắn kẻ thù thì chưa hề run tay bao giờ! Trí thức đã từng bị Đảng ta ưu tiên trù dập hồi Cải cách Ruộng đất (Trí phú địa hào: đào tận gốc, trốc tận rễ) còn ngo ngoe làm gì được cơ chứ? Nói một cách công bằng, tinh thần phản kháng của trí thức miền Nam, dù bị tù tội,vẫn chưa hoàn toàn bị hủy diệt mà âm thầm tồn tại dưới hình thức châm biếm. Tôi nhớ lúc trại được lệnh ăn mừng ngày lễ lớn 02-9-1975 Ban quản lý trại mua sơn về cho tù cải tạo vẽ một pa nô rất lớn, trên đó viết hàng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Anh bạn phụ trách việc sơn đã bỏ dở nửa chừng … xuân hai chữ “độc lập” làm cho câu khẩu hiệu biến thành “Không có gì quý hơn đô la (!) (Thật là một câu tiền định đã tiên tri mấy chục năm tình hình xã hội VN hiện nay !). Khi cán bộ xuống kiểm tra, anh bạn nói chận trước sơn hết nên chưa hoàn thành xin cán bộ phải đi mua gấp để sơn cho kịp ngày mừng lễ, dù rõ ràng tên cán bộ đã nhìn thẳng vào từng chữ khẩu hiệu mà không kịp “lên lớp” chưởi mắng gì vì thời hạn mừng lễ đã “khẩn trương” quá rồi. Có lẽ tên cán bộ sợ không đạt chỉ tiêu trên giao thì sẽ mất cơ hội lập thành tích cá nhân hơn là quát mắng tù cải tạo thì phải?

Để tránh bị lên án kém tiến bộ, có anh trong khi thảo luận lại dựa vào lời lẽ của quản giáo để nói “trả miếng” chơi. Chẳng hạn quản giáo đã phóng đại cách tuyên truyền của miền Nam khi cho rằng VC không phải người mà là con quỷ có đuôi. Anh bạn tù liền đưa ra một hình ảnh để mọi người có thể hình dung là khi bị lụt ngập nước, chuột phải tìm nấp ở những hang cao hơn, còn khô ráo, nhưng cuối cùng xoay trở cho lắm vẫn không tài nào giấu được cái đuôi của mình thò ra trong hang (nghĩa là vẫn “giấu đầu lòi đuôi”)! Tôi không biết quản giáo có biết thâm ý của anh ta không nhưng một anh bạn khác lại bị “dũa” thê thảm khi anh này có lẽ muốn bênh vực cho việc cách mạng nói đi học tập 10 ngày đến 1 tháng mà đến nay chưa cho ai về cả. Anh ta biện hộ việc này cũng như việc một bà mẹ trả lời cho đứa con nhỏ tuổi của mình khi nó hỏi “em con sinh ra từ đâu hả mẹ ?” thì người mẹ tất nhiên sẽ nói qua quít cho xong nhưng xem ra vô hại là “em con sinh ra từ nách”! Thế là quản giáo bắn ngay một tràng… liên thanh nào là bà mẹ đó đuổi Pháp, Mỹ quá đà đã chạy vào Nam năm 54, nào là bà mẹ nói láo để lừa bịp đó không phải bà mẹ yêu nước mà là phản động v.v… ! Chưa chắc anh này muốn bênh vực nhưng muốn nhắc cho quản giáo biết là nói thật tốt hơn nói láo ngàn lần chăng? Vui nhất là một anh tự nhận là cháu nhà thơ Bùi Giáng lên phát biểu. Sau khi nói cho đúng “thủ tục”, anh ta xin phép đọc lên hai câu thơ Lục bát:

“Tôi ưa kiếp sống lang thang
Cà phê buổi sáng, khoai lang buổi chiều!”.

Trong khi cả hội trường cười tán thưởng… sự thành thật của anh thì quản giáo chụp lấy micro oang oang chỉ trích phủ đầu là tư tưởng của tàn dư Mỹ Ngụy độc hại thế này mà các anh không nhận ra à? Quản giáo trịnh trọng phân tích hai câu thơ như một nhà phê bình văn học chính hiệu… bà lang trọc! Đúng là bọn đế quốc chống cộng tinh vi và nham hiểm thật! Kiếp sống lang thang là của ai? Là của kẻ ăn bám, không lao động, vô công rỗi nghề rồi nói xấu cách mạng. Bây giờ mơ tưởng như thế là lạc hậu, phản động! Tại sao cà phê buổi sáng và khoai lang buổi chiều? Đây là kiểu nói xỏ xiên, bôi đen, xuyên tạc cách mạng. Buổi sáng có ý nói chế độ ngụy quyền cũ thì các anh được thảnh thơi ngồi uống cà phê còn buổi chiều ám chỉ chế độ cách mạng các anh chỉ được ăn khoai lang, nghĩa là sống khổ cực hơn thời trước. Ý đồ của các anh rõ ràng quá nhưng không qua mặt được cách mạng chúng tôi đâu. Đừng hòng! Anh này phải được giáo dục thêm để cải tạo thành người tốt XHCN. Tôi nhớ về sau người cháu của thi sĩ Bùi Giáng bị biên chế đi trại cải tạo khác trong đợt đầu tiên.

Có anh chọn một cách phản kháng rất nguy hiểm là đóng vai người câm, không thèm phát biểu trong bất cứ bài học nào. Trong sinh hoạt hàng ngày cũng vậy, anh không hề mở miệng nói chuyện với anh em. Cũng may, anh có lẽ là người duy nhất thành công trong kiểu này. Cách phản kháng trên có thể là hậu quả của một căn bệnh tâm thần, chứ nói anh có chủ ý chống đối thì cũng chưa chắc 100%. Mình nghĩ thế thôi, còn đúng hay sai phải hỏi anh mới biết rõ, nếu gặp lại anh. Thực tế mà nói, cũng có vài trường hợp bệnh tâm thần, thật có giả có. Chẳng hạn một giáo sư trung học dạy Toán trứ danh ở Sài Gòn thì thường đi thơ thẩn trong trại, bạ cái gì cũng đưa vào miệng nhai tỉnh bơ !!!   

Trong các câu chuyện tù cải tạo đáng nhớ thì câu chuyện sau đây là buồn cười nhất, đã xảy ra vào năm đầu tiên, khi toàn trại bắt đầu học tập 6 bài học chính trị căn bản. Học tập thực ra là nhồi nhét vì những bài này đưa ra một định đề, như một chân lý, rồi từ định đề đó mà tha hồ nói thánh nói tướng. 

Ngày kia, một gã cán bộ chẳng biết điếc không sợ súng hay sao mà khoe “đỉnh cao trí tuệ” của mình bằng cách tiết lộ một tin… động trời như thế này: đó là “ta đã trục xuất một tên cố đạo nước ngoài phản động về nước hắn. Để che mắt công an ta, hắn lấy ba cây tre, mai, le mọc nhiều ở ta làm tên của hắn”. Lúc đầu, chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau không hiểu anh ta nói gì nhưng sau khám phá ra rằng anh ta đã đánh vần ngược tên của vị khâm sứ tòa thánh bấy giờ là H. Lemaitre. Có vài anh bạn đồng tù kìm nén được, chỉ cười thầm nhưng nhiều anh bạn lảng ra xa đã bật lên những tràng cười khanh khách khiến tên cán bộ đỏ mặt biết mình có lẽ đã hố to vì câu chuyện này. Anh ta chạy vào dãy nhà có tiếng cười và quát lên “Cười gì mà cười? Nụ cười các anh là nụ cười của kẻ bán nuớc phản động” Chúng tôi im lặng ngay khi nghe những lời chưởi mắng mà anh ta đã thuộc lòng nhằm đánh trống lảng và chữa thẹn rồi đỏ bừng mặt, anh ta quày quả trở về khu vực cán bộ quản giáo ở. Người cán bộ đi rồi, lúc đó chúng tôi được dịp cười một bữa thoả thích như quên hết mọi chuyện phiền muộn trong đời tù. Tôi không muốn suy diễn tất cả cán bộ quản giáo đều cùng trình độ học vấn thấp kém như anh này, tuy nhiên chắc chắn họ hơn thua không xa nhau lắm về kiến thức tổng quát. Đa số họ có lẽ đều học thuộc cùng một bài nên nói cũng không khác gì nhau. Họ nói ba hoa những chuyện đại loại nghe rất ngớ ngẩn như sau. Có vài cán bộ huyênh hoang là thằng Nhật muốn mua khói nhà máy của ta ở Hà Nội để làm bom nguyên tử nhưng ta chưa đồng ý vì chúng trả giá thấp quá?! Hoặc dầu hỏa Trung Đông có thấm thía gì so với dầu hỏa của ta. Biển Đông nước ta là cái rốn dầu hỏa của thế giới, mọi dầu hỏa khắp nơi đều chảy vào chỗ trũng là biển VN ta. Họ nói chuyện ra vẻ cả quyết chứ chẳng tỏ vẻ ngờ vực gì như thể “chân lý đó không bao giờ thay đổi” vậy. Có lẽ họ học thuộc lời từ miệng của một quan chức nào đó phát biểu kiểu đại ngôn rồi có dịp tự mình lặp lại để khoe khoang với người khác là mình giỏi, hiểu biết nhiều. Thế thôi. Chẳng cần mất công suy luận sự việc đó đúng hay sai gì cả!

Nói cho ngay, viên sĩ quan cấp tá kiêm cán bộ Trưởng Trại cũng không hơn nhiều lắm. Khi đọc họ tên tù cải tạo có số quân bắt đầu bằng 54/1… ông ta liền lên giọng mỉa mai kết án là những anh này có nhiều nợ máu với nhân dân lắm đây vì đã di cư vào Nam năm 1954! Con số đó chỉ là năm sinh cộng với 20 để thành số quân mà thôi, chẳng hạn ai sinh năm 1934 thì số quân là 34+20=54/ 123… Như vậy, VC cũng chẳng biết gì nhiều về đối thủ của họ nhưng họ luôn luôn chơi đòn tâm lý là cách mạng biết hết và biết rõ những tội ác “đất không dung trời không tha” của ngụy quân các anh, do đó các anh phải thành khẩn khai báo lý lịch để được cách mạng khoan hồng cho về sớm!  

Thật ra, cách thảo luận những bài học chính trị mà Ban Quản giáo áp đặt mọi người phải tham gia ý kiến là một kiểu tuyên truyền “nhồi sọ”. Anh tù nào cũng phát biểu một luận điệu giống nhau, trong một khuôn mẫu lý luận đã vạch sẵn. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần qua nhiều người khiến cho ai cũng có thể thuộc lòng hay nói như cán bộ là quán triệt cả bài học rồi. Dù bất đồng ý thế nào đi nữa, ai cũng giả vờ đóng kịch thông hiểu hết vì sợ không những ảnh hưởng đến cá nhân mình mà còn sợ liên lụy đến thân nhân ở ngoài nữa. Cán bộ quản giáo thường vừa đe vừa vuốt là các anh cố học tập cho tốt để gột bỏ mọi tàn dư phản động và nhờ đó cách mạng cũng sẽ quan tâm giúp đỡ gia đình vợ con các anh phấn đấu xây dựng cuộc đời mới!  

Đến đây, tôi cũng xin được viết vài giòng về tình trạng “ăng ten” mà đôi ba quyển hồi ký tù cải tạo có nói đến. Theo tôi, đúng cũng có mà sai cũng không thiếu. Do đó, một số người đã không may biến thành nạn nhân của sự nghi ngờ làm “ăng ten” này sau khi ra khỏi trại. Phải chăng cái miệng làm hại cái thân hay chỉ là đòn “ân oán giang hồ” mà anh em lâm nạn chơi nhau sát ván? Trong Đội tôi cũng có tin đồn “ăng ten” là một giáo sư đại học. Ai tin nổi không? Thế mà cũng có người tin mới lạ, tin đến nổi anh em còn đặt biệt danh cho ông ta là tiến sĩ Mách (chơi chữ Maths, thực ra ngành của ông là động lực học và thuỷ lợi). Của đáng tội, vị giáo sư này làm Đội trưởng đội tôi nhưng chẳng ai biết tại sao những “bí mật đời tư” trong đội đều bị cán bộ quản giáo phụ trách “nắm” hết. Chẳng ai biết nên anh em nghi ngờ lẫn nhau và cuối cùng nghi cho đội trưởng. Thật là “oan Thị Kính”! Sau này, có một hồi ký mà tác giả tôi quên tên đã nghi nhà thơ quân đội PLGĐ làm “ăng ten” trong trại Long Giao, tôi bán tín bán nghi tự hỏi chẳng lẽ hồi còn ở trại Trảng Lớn PLGĐ giữ chức Đội phó Sinh Hoạt đã làm “ăng ten” chăng? Đội phó Học Tập là giáo sư VTH thì nhất định không rồi, vì ông là người rất có tư cách của một vị giáo sư đại học Sài Gòn. Phần nhiều anh em tù cải tạo bị nghi ngờ làm “ăng ten” là chức sắc của đội, tổ v.v… hàng ngày phải lên tiểu đoàn báo cáo với cán bộ quản giáo, chứ còn những tù cải tạo khác làm gì có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với cán bộ để bị nghi oan. Trừ ra trường hợp người nào tự hào có bà con cách mạng và có hành vi tiếp xúc mờ ám với vệ binh hoặc cán bộ thì bị nghi làm “ăng ten” quả là không oan ức lắm!
Phải thành thực mà thừa nhận những người CSVN tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của cấp trên, dù họ biết ngày nào tù nhân cải tạo được lệnh chuyển trại, họ hoàn toàn không tiết lộ ra cho ai biết cả. Ngay việc kiểm soát đồ đạc của tù nhân cũng xảy ra “đột xuất” không biết đâu mà đỡ. Lâu lâu, họ bắt người tù phơi bày tất cả mọi đồ tế nhuyễn, của riêng tây để họ xem xét từng cái. Mọi người có dịp ra ngồi giữa trời phơi nắng cả buổi và lo chẳng biết mình có bị kiểm điểm vì vi phạm quy định gì không. Nếu có sẽ khó mà về sớm được vì học tập… chưa tốt! Tuy nhiên, tù cải tạo lo nhất là lần biên chế đầu tiên sau khi học xong mấy bài chính trị. Ai đi và ai ở lại? Lúc đó, tù cải tạo đã được phân loại nghĩa là có nợ máu nhiều hay ít. Lần đầu thì biên chế đi Phú Quốc. Lần khác thì biên chế đi Katum, đi Long Giao v.v… Nhờ những lần biên chế này, tôi mới biết được bác sĩ đàn anh LTL qua nha sĩ VTD (anh của bác sĩ đàn em VDS.) và bác sĩ cùng khóa PTT đều ở chung một tiểu đoàn L1T2. Đa số người đi các đợt biên chế trước đều “nặng tội” cả như chiến tranh chính trị, phi công, pháo binh, thiết giáp v.v… còn lại là các sĩ quan chuyên môn khoa học kỹ thuật đi đợt cuối cùng về Trảng Táo thuộc tỉnh Long Khánh. Chính ở nơi này mà tôi đã thấy thoáng qua đủ mặt “quần hùng”, cùng trường có, cùng lớp có, đang lang thang lúc thì đi lao động như cắt tranh, vác gỗ, gánh củi v.v… lúc thì đi tìm chỗ tắm giặt ở một lạch nước cạnh rừng, không xa ga xe lửa Trảng Táo bao nhiêu. Ga Trảng Táo trông thảm hại quá sức, nhỏ nhoi đến tội nghiệp, chỉ có trơ vơ một cái nhà xơ xác cho trưởng ga và dăm ba cái chòi tranh lụp xụp và trống trải. Cũng tại ga này mà những nàng “thương phu trích lệ” tự mình diễn xuất rất đạt trong vai những bà bán hàng rong để mong được trực tiếp nhìn thấy chồng cho thoả lòng nhớ thương sau bao ngày tháng. Bà thì bưng thúng khoai, bà thì đội rổ trứng v.v… ngồi chờ đợi rải rác quanh ga Trảng Táo. Cũng có bà ra đó báo tin cho chồng biết là con cái họ đã vượt biển thành công, cứ chịu khó mà an tâm học tập, về được rồi sẽ tính sau.

Thời kỳ đi lao động cải tạo ở đây là thoải mái nhất nhưng cũng nặng nhọc nhất. Thoải mái vì được tha hồ hít không khí núi rừng, được nhìn ngắm những cánh hoa dại trong sương sớm, đẹp một cách tinh khiết hay nhìn thấy cả một khu rừng cây bằng lăng nở đầy hoa tím mà chợt nhớ bài thơ “Màu tím hoa sim” thời danh của Hữu Loan, dù hai màu tím đó đậm nhạt khác hẳn nhau, bên thì nhẹ nhàng, bên thì đậm đà, tươi tắn. Tuy nhiên, ai cũng cảm thấy mệt mỏi so với thời ở Trảng Lớn. Mỗi sáng sớm, tù nhân cải tạo đi rừng như là đi hành quân, nai nịt gọn gàng nhưng nói phải tội trông như một đám thổ phỉ vì áo quần thì vá chùng vá đụp, đầu đội những chiếc nón tự chế không giống ai, người thì cầm rựa, anh cầm dao mác v.v... lũ lượt từng đoàn tiến vào… mặt trận nằm sâu trong rừng. Một tổ 4 hay 6 người cùng nhau đốn tre, đốn cây hay đốn củi. Đúng là “khó nhất đốn tre, khó nhì ve gái”. Cũng may có anh từng trải qua việc này nên đạt chỉ tiêu lao động không mấy khó. Vác ba cây tre dài dưới mười thước thì đi phom phom một đoạn ngắn nhưng đi cả mười cây số ra khỏi rừng là muốn đứt hơi, nói không ra tiếng, phải nằm há miệng mà thở chứ không thể ngồi hay đứng được vì cái lưng như muốn gãy rời ra từng khúc. Sau giai đoạn làm chỗ trú ngụ cho chính mình ngay trên mảnh đất có những cái gọi là nhà tranh trông xiêu vẹo và bệ rạc bị đồng bào đi kinh tế mới vất bỏ trước đó, người tù cải tạo được lệnh phải dựng một hội trường để làm nơi học tập chung cho cả tiểu đoàn. Hội trường này được phân công cho kiến trúc sư DPL phụ trách. Mọi người phải đi sâu hơn vào rừng mới kiếm được hàng chục cây làm cột nhà vừa cao vừa to đến nỗi 4, 5 người mới khiêng nổi một cột. Tuy nhiên, cũng nhờ công trình này, một nhóm trong đó có tôi may mắn được làm một chuyến… “về trần” như Từ Thức. Đó là được phép ra thị trấn Long Khánh để mua thêm vật liệu xây dựng hội trường. Chúng tôi đi LK bằng xe đò chạy bằng than. Nhiều cô đi buôn hàng, dù cũng biết chúng tôi là tù cải tạo nhưng họ rất có thiện cảm với chúng tôi nên đã dám buông lời nửa như tán tỉnh nửa như chọc ghẹo rồi cười giòn giã vang cả xe. Chúng tôi chỉ biết cười trừ giả vờ thoái thác khi có cô dám bày tỏ cảm tưởng là nhớ tiếc chế độ cũ và thương mến các quân nhân ngày xưa mặc quân phục oai hùng hơn bộ đội bây giờ rất nhiều. Họ ăn nói không dè dặt gì cả làm chúng tôi đâm ra chột dạ nhưng cũng chỉ đồng ý một cách âm thầm và kín đáo mà thôi! Đến nơi, chúng tôi hẹn nhau cố gắng đạt chỉ tiêu làm sớm, nghỉ sớm để vào quán cà phê tìm lại hương vị của ngày xưa. Chẳng biết chúng tôi thả hồn đê mê vào “những ngày xưa thân ái” quá lâu hay sao mà cán bộ tiểu đoàn tìm không ra chúng tôi đã về trước, bắt anh kiến trúc sư ở lại tìm cho ra chúng tôi để hộ tống về sau. Báo hại, chúng tôi gồm ba người (tổ tam tam ?) phải ngồi viết bản tự kiểm rồi mỗi người đọc lên để phê bình, thảo luận mất mấy ngày về cái tội đã “quan hệ linh tinh” với những thành phần không rõ ràng ngoài xã hội! Thật là “đi thì vui, về thì xui” quá cỡ thợ mộc. Lại lo không được thả sớm thì thật chán mớ đời?
Một chuyện khó quên xảy ra ở ga Trảng Táo, nơi mà hầu như ngày chúa nhật nào anh em tù cũng la cà ngoài đó. Lý do là được phép đi lại tắm giặt hay mua đồ ăn trong những ngày được nghỉ lao động. Nhưng thường là có nhiều lý do hơn cái “chính nghĩa”đó. Ra ga để nghe giọng nói, để nhìn thiên hạ ngoài đời xuôi ngược trên những chiếc tàu hỏa cũ kỹ quen thuộc. Ra ga để tìm một ánh mắt, một nụ cười thân thương của ai đó mà cứ tưởng biết đâu có thể là của mẹ, của em, của người tình v.v… Chỉ tưởng tượng thế thôi cũng đủ ấm lòng cho cuộc đời tù tội! Chính những lần ra chơi thơ thẩn ngoài ga như vậy mà tôi cùng một anh bạn sung sướng đến rơi nước mắt khi được chứng kiến những gì đồng bào hành khách đi tàu đã làm. Hôm đó, chúng tôi mua nải chuối về vừa qua khỏi đường ray vài thước thì đoàn tàu đi ngang và từ trên tàu ào ào vất xuống đủ thứ, nào mít xoài chín, nào bánh kẹo v.v… và không ngờ có cả tiền nữa chứ! Nhiều anh em xúm nhau lượm, tôi và anh bạn vớ được mỗi người năm chục đồng bay tới chỗ chúng tôi đứng (thời đó 50 $ mới = 500$ cũ). Có anh còn kể đồng bào nhiều lần thả gà vịt đã cột chân, có duy nhất một lần thả nguyên một con heo mọi trong rọ xuống và anh em mang về trại mở tiệc ăn mừng. Hôm đó, chúng tôi tản bộ về mà trong tâm trí vẫn còn như thấy hình ảnh những nụ cười và những bàn tay vung vẩy dễ thương của đồng bào đi xe lửa! 

Nếu ra ngoài ga, người tù cải tạo không cảm thấy mình bị xã hội bên ngoài bỏ rơi thì đi rừng, họ lại học được khá nhiều kinh nghiệm chưa từng bao giờ trải qua. Đi rừng thì đáng ngại nhất là đi lạc. Để tránh lạc đường, mỗi lần đi rừng các nhóm phải xác định một điểm xuất phát được làm dấu bằng mũi dao trên thân cây và các lối đi từ điểm xuất phát cũng phải làm dấu như vậy. Rừng thưa cũng dễ làm lạc đường rồi, huống hồ rừng dày đặc đủ loại cây cối che khuất ánh mặt trời thì làm người ta đi lạc dễ như chơi. Lâu lâu, chúng tôi phải hú lên để dễ nhận ra phương hướng của nhau. Còn điều đáng sợ nhất là gặp thú dữ, tuy nhiên cũng may chưa ai gặp. Riêng tôi một lần không phải vắt giò lên cổ chạy trốn thú dữ mà là con ong, con vật nhỏ bé nhưng có vũ khí lợi hại là nọc độc. Lúc đó, vì phải lo chặt những cây thấp làm củi cho đủ chỉ tiêu, tôi xăm xăm phạt ngang gốc cây mà trên đó có tổ ong, thế là cả đàn ong bay tứ tung rồi xúm vào chích tôi đau nhói cả người. Anh bạn đi cùng kêu to lên mày bỏ mũ lại mà chạy, nghe xong tôi tức tốc làm theo lời anh mới đánh lừa được bầy ong và thoát được. Tối về, tôi chỉ đau ê ẩm chứ không nặng lắm, có lẽ vì liều thuốc độc chưa đủ đô, nếu nhiều con cùng “hợp đồng tác chiến” thì tôi chắc đã sưng vù cả người lên rồi chứ nhỉ? Điều kinh hoàng nhất nữa là gặp cháy rừng. Lửa cháy nhanh không thể tưởng tượng được, bốn bề bừng bừng lửa nóng đỏ chẳng biết đâu mà chạy. Cả tiểu đoàn nhốn nháo cả lên chen lẫn tiếng hò hét ra lệnh và tiếng phụ họa ỏm tỏi. Nhóm thì chạy đi vác tôn ra đè chung quanh chỗ cháy. Nhóm khác thì tất bật ùa vào chặt hết cây cối ở chỗ lửa chưa cháy. Nếu không kịp thời chữa cháy thì khu nhà tranh nằm cạnh rừng của đám tù cải tạo chúng tôi đã tan thành tro bụi. Thật là một phen kinh hồn bạt vía. Sở dĩ có cháy rừng là vì sau mỗi lần phát quang một khu vực nào đó thì lá rừng, cành khô, gỗ vụn v.v... được un lại thành nhiều đống rồi đốt để làm tốt đất mà trồng bắp, trồng sắn (khoai mì) v.v... Đốt không cẩn thận là tàn bay theo gió nóng phát lửa táp nguyên cả một khu rừng trong khoảng khắc. Tuy nhiên, trong họa có phúc như chuyện “Tái Ông thất mã”. Cháy rừng thui luôn những con vật chạy không kịp nên hôm đó, tiểu đoàn thu được 1 số “chiến lợi phẩm” ngoài kế hoạch. Đó là những con kỳ đà, rùa v.v... mà thịt thì ăn ngon không thua thịt gà bao nhiêu. Đôi khi cũng có con mển, con hoẵng là những con vật còn có thịt chứ còn những con vật nhỏ khác như thỏ, sóc, chồn v.v... đã cháy là thành than luôn, ăn gì được! Nhân nhắc đến thịt rừng, tôi lại phải nói tới một lần cán bộ tiểu đoàn đi săn được một con bò rừng béo tốt, ít ra trên mấy trăm ký. Thế là chúng tôi được ăn theo một bữa thật thịnh soạn. Công đầu thuộc về một anh dược sĩ có tài đầu bếp vào hạng cao thủ. Anh chế biến tài tình làm sao mà chúng tôi ăn được thịt bò đủ 7 món ngay trong trại cải tạo. Ngon ơi là ngon! Thịt bò 7 món nổi tiếng ở Sài Gòn ngày xưa chưa chắc đã ngon hơn. Nói thế chứ ngon ở đây cũng là do yếu tố tâm lý. Đói quá ăn gì chẳng ngon nhưng nên thành thực mà thừa nhận anh làm đủ món khi thiếu gia vị cũng là tay thượng thừa rồi vậy!

Thiên nhiên nói chung hay rừng nói riêng còn dạy cho người luôn cả sự hiểu biết. Đời tôi chưa hề biết con vắt là con gì nên khi gặp con vắt, mình cảm thấy chúng nó đáng sợ thật. Chúng có biệt tài đánh hơi người ở đâu là chúng sấn sổ chạy tới. Có khi cả một bầy đang nhắm hướng mình mà cắm đầu cắm cổ bò đến trên lối đi. Nhìn từ xa, mình cứ tưởng bò chậm như thế còn lâu chúng mới đến mình nhưng thoắt một cái chúng lọt vào người mình khi nào không hay. Đang nhỏ như con giòi, nó vọt lên bằng con đĩa căng tròn vì hút máu người. Vào rừng mà gặp vắt thì dù bó chặt quần áo, đeo găng tay, vớ chân kín đáo cách gì cũng bị vắt chui vào hút máu. Nhiều con vắt cùng ùa vào hút máu… nhân dân lao động ốm đói thì “từ chết đến bị thương”, thế là mạnh ai nấy chạy. Chịu gì thấu hàng hàng lớp lớp bọn… khát máu này! Phải tìm khu rừng khác, ai mà dám “đội trời chung” với kẻ thù quái quỷ như thế? Trong khi con vắt hút máu người từ bên ngoài thì con muỗi truyền ký sinh trùng tàn phá máu âm thầm ở trong cơ thể con người nên lại càng nguy hiểm hơn. Một số anh em khi bị chỉ định đi Suối Kiết (Long Khánh) lấy lá dừa cạn về lợp mái nhà thay tranh đã chẳng may bỏ mạng vì bệnh sốt rét. Từ lâu, Suối Kiết đã khét tiếng là nơi bệnh sốt rét hoành hành, theo lời của cán bộ thời ẩn núp trong rừng cũng như anh em tù cải tạo từng hành quân ở đây:

“Ai đi Suối Kiết thì nguy muỗi mà chích tất sẽ đi luôn đời!”         

Học tập cải tạo chỉ qua hai nơi thôi mà một số anh em đã vĩnh viễn nằm xuống, còn nhiều trại rải rác khắp cả nước sau 1975 chẳng rõ tổng số có bao nhiêu con người đã mãi mãi một đi không trở về với gia đình, với những người vợ mòn mỏi trông chồng, với những bà mẹ quặn lòng nhớ con, với hằng hà sa số những đứa bé đã biết hay chưa hề biết mặt cha nhưng vẫn ngày đêm mong cha chúng được trở về đoàn tụ gia đình.

Khi kể vài mẫu chuyện vui buồn trên, tôi thật lòng chỉ muốn nói đến chuyện vui nhiều hơn chuyện buồn nhưng thực tế, tôi đã bất lực không thể làm được. Phải chăng những sự đau khổ của con người bi đát quá đến nổi vượt lên và lấn át cả ý định ban đầu của mình? Trong những giòng cuối này, tôi xin kể thêm vào một chuyện thương tâm trong hàng trăm, thậm chí hàng ngàn câu chuyện của người tù cải tạo vô danh. Đó là câu chuyện thắt cổ trên cây cổ thụ trước sân tiểu đoàn của một anh trung úy không quân trẻ tuổi và khôi ngô tuấn tú, khi hạn kỳ thả tù đang được lên danh sách mà chính anh là người được tiểu đoàn cho tham gia viết họ tên người tù nào sắp được thả về. Đến bây giờ, tôi vẫn còn bàng hoàng và thương tiếc cho anh, người chung tiểu đoàn với tôi. Lẽ ra anh không nên chết trẻ một cách oan uổng như thế. Anh chưa được về đợt đầu thì các đợt kế tiếp cũng có tên anh thôi khi chúng ta đang ở những tháng cuối cùng trong trại Trảng Táo. Lúc đó, tất cả anh em tù cải tạo đều xúc động và nghĩ rằng ai muốn tự tử thì đã thực hiện vào giai đoạn đầu mới vào trại là hợp lý nhất (?) chứ còn anh thì chẳng ai hiểu được. Tôi cũng không hiểu do nguyên nhân nào vào giờ chót anh đã tự tìm đến tử thần vội vã như vậy, bằng cách thắt cổ, trước khi tôi được thả về 2 tuần sau đó. Dù không hiểu gì đi nữa, tôi cũng bắt buộc phải viết ra những lời tiếc thương anh, người tù cải tạo đoản mệnh!

Sydney ngày 18-01-08.
Dương Hoài Ninh.

 
 
Copyright 2007. ykhoahuehaingoai. All rights reserved