|   | 
                                                                                                                                             Uyên Hạnh                
                                 Tôi xa quê hương đã lâu lắm rồi, nhưng kỹ niệm  của quê hương không bao giờ xa tôi cả. Tình quê và kỹ niệm lấp đầy rất nhiều những  trống vắng trong tôi khi tôi thấy mình lạc lõng. Quê hương là đất mẹ, là nơi  mình được sinh ra và lớn lên trong tình thương dịu dàng và ngọt mát không bao  giờ cạn của người mẹ. Cái tình đậm đà, là cội nguồn tạo niềm vui cho đời sống của  tôi hôm nay và một tin tưởng tôi có trong tôi, khi tôi hòa nhập vào một xã hội nơi  xứ lạ quê người. Một cộng đồng không cùng mầu da và ngôn ngữ, nhiều khi đã cho  tôi không ít những cảm giác bơ vơ. Qua những tiếp xúc hằng ngày trong công việc  làm, tôi đã từng ước mơ mình được vây bọc bởi những người có cùng tiếng nói,  cùng văn hóa và cùng mầu mắt. Cái mầu của một đôi mắt nâu, của một chiều sâu, là  cái mầu của một cảm giác yên ổn ấm cúng và của sự gần gủi quen thuộc.  
Trước đây tôi không hề nghĩ đến việc tại sao  đối với tôi mầu nâu của mắt lại có sức lôi cuốn như thế, chỉ biết rằng đó là  một cảm nhận. Sau nầy, khi một trong những bất hạnh nhất trong đời xảy đến cho  tôi, tôi biết được mầu nâu của mắt đã cho mình cái cảm giác thân quen gần gủi và  một sự yên ổn, là cái mầu nâu trong đôi mắt mẹ. Đôi mắt mình đã lớn lên trong  đó, đã soi bóng mình trong đó. Đôi mắt đã tỏa những vui mừng rộn rã phản chiếu  những nụ cười đầu đời của mình. Đôi mắt mà từ đó, mình đã học được ý nghĩa của  sự yêu thương, của một tình người, và từ đôi mắt đó mình biết được ý nghĩa của ân  tình và cảm nhận được hơi ấm của một vòng tay.
								 
                                Vào một Mùa Vu Lan của nhiều năm về trước, mẹ  tôi đã khép đôi mắt nâu dịu hiền, trút hơi thở cuối cùng, buông xuôi vòng tay  yêu thương rời Ba tôi và chúng tôi mà đi. Mẹ tôi từ giả cõi đời ngày 16.7 Âm  Lịch. Hằng năm đúng Ngày Rằm Tháng Bảy, ngày Lễ Vu Lan, tôi tụng Hồng Danh Sám  Hối, Kinh Vu Lan và cúng mẹ tôi. (*1) 
                                Trên bàn thờ tôi cắm thêm hai cành hoa trắng,  đóa nầy cao hơn đóa kia một chút. Thắp nén  nhang thơm tôi cúng mẹ. Mùi hương trầm lan tỏa, tôi nghe lòng mình bình yên trong  thương nhớ. Tôi yên tỉnh trong nhịp điệu của hồi chuông tiếng mõ, tụng lên phẩm  kinh sám hối và cầu nguyện cho người mẹ đã mất. Lời kinh đi sâu vào cái hiểu  của tôi, cho tôi thấy được, cái khổ của mình nói riêng và của con người chúng  ta nói chung, do đâu mà có. Thấy được rằng tự ái, cố chấp, kiêu ngạo, tham lam,  mê đắm là căn bản tạo khổ đau cho chúng ta. Thấy được rằng có nhiều điều đơn  giản mà khó dứt bỏ. Cần ý thức được sự buông xả, thực hành được sự thương yêu tha  thứ lòng mình sẽ nhẹ bớt, và những người sống gần ta, chung quanh ta, chia sẻ  được sự thoải mái nhẹ nhàng nầy. Tụng kinh cho ta có được thời gian trở về lại  với chính mình, tìm lại dần dần cái tình thương trong sáng bất vụ lợi của con  người, mà mình đã học được nơi mẹ mình, cũng là tình thương ta học được trong  lời dạy dỗ của Đức Bổn Sư đã có cách đây 2550 năm.   
                                Ngày Vu Lan vào chùa lễ Phật, tôi được cài hai  đóa hoa mầu trắng trên áo, bởi vì tôi mất mẹ và tôi cũng đã mất cha. Nhận hai  đóa hoa mầu tang trắng, tôi thấy tủi thân và thầm khóc cho mình. Sau buổi lễ  tại chùa, nhìn vào 2 đóa hoa cài trên áo của các Phật tử đến chùa lễ Phật, tôi  thấy nhiều người tuy lớn tuổi vẫn còn diễm phúc hơn tôi, khi trên áo họ cài hai  đóa hồng mầu đỏ, hoặc có người trên áo cài một cành hoa trắng và một cành hoa  đỏ. Cha/mẹ còn sống, mình sẽ được cài trên áo cánh hồng mầu đỏ. Cha/mẹ mất đi,  mình sẽ được cài cánh hoa hồng mầu trắng. Hai đóa hoa cài trên áo, không nằm  song song với nhau, vì đóa hoa cho Cha nằm cao hơn đóa hoa cho Mẹ. Nhìn vào vị  thế và mầu sắc hai đóa hoa cài trên áo một người, chúng ta biết được người đó  còn hay đã mất cha/mẹ.   
                                Rằm Tháng Bảy là ngày lễ lớn, Mùa Vu Lan Thắng  Hội, là ngày mà các chùa đều sửa soạn trai chay cúng tế. Đại Lễ Vu Lan tiếng  Phạn (sanscrit) gọi là Ullambana. Vu Lan có nghĩa là cứu đảo huyền, nghĩa là  cứu nạn treo ngược. Vu Lan Thắng Hội là Pháp Hội cứu khổ cho cha mẹ đã thác  khỏi cái nạn treo ngược ở địa ngục. Mùa Vu Lan các chùa khai Kinh Vu Lan và  tụng Hồng Danh Sám Hối. Kinh Vu Lan gọi là Ullambana sutra, do vị sư gốc người  Thiên Trúc tên là Pháp Hộ (Dharmaraksa) đời Tây Tấn thế kỹ thứ ba-thứ tư dịch  chữ Phạn ra chữ Tàu.  
                                Mùa Vu Lan còn gọi là Mùa Báo Hiếu, là mùa  nhắc nhở chúng ta sống đúng đạo nghĩa của người con Phật hiếu thảo. Không phải  suốt năm mình ơ thờ lãnh đạm không săn sóc mẹ, đến Mùa Vu Lan mình mới nhớ đến  mẹ mình mà trả hiếu cho cha cho mẹ. Cái tình của người mẹ vô biên, vô  lượng,  không đong không cân được. Tình  thương của mẹ là món quà trời đất dành cho mình, là tình thương chỉ biết cho mà  không cần đòi trả. Ngày xưa khi còn bé, những lúc mình bệnh, ban ngày khóc nhè  vì đau yếu khó chịu trong người, ban đêm không ngủ yên, thường trăn trở khóc  lóc. Mỗi lần mở mắt ra chúng ta đều thấy được nụ cười của mẹ với đôi mắt nâu  sẫm u buồn lo lắng, cùng vòng tay thương yêu trìu mến của mẹ ôm ta vào lòng,  như muốn lấy cái đau từ thân thể bé nhỏ của ta, chuyền qua thân thể mẹ. Ta đau  mẹ cũng đau. Ta buồn mẹ cũng buồn. Ta mệt mỏi mẹ cũng mệt mỏi. Ta không ngủ  không ăn mẹ cũng không ăn không ngủ. ”Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng…”.  
                                Đạo Phật dạy rằng, cái cần nhất ở người Phật  tử là sự hiếu đạo. Ơn cha nghĩa mẹ quá to lớn, tình thương của cha mẹ không lấy  gì trả được. Cha mẹ là người đã hy sinh cho ta, thương yêu nuôi nấng dạy dỗ  chúng ta. Ơn nghĩa nghìn trùng như thế, nếu không thấy được và đền đáp thì  không thể nào thấy được chư Phật, chư bồ tát, chư hiền thánh.  
                                Trong Thập Đại Đệ Tử, 10 vị đệ tử lớn của Đức  Phật, A Nan Đà là vị sa môn đẹp trai là Đa văn đệ nhất.  Nhờ giỏi văn chương chữ nghĩa và trí nhớ vô  song Ngài A Nan đã nhớ rõ từng lời giảng của đức Phật và ghi chép lại, chư tăng  thời đó kết tập thành Kinh và truyền lại cho chúng ta đến bây giờ. Theo Kinh  điển nhà Phật, Ngài Mục Kiền Liên (2*), một trong 10 vị đại đệ tử nầy, là Thần  thông đệ nhất. Mục Kiền Liên xưa vốn dòng thanh lưu sang trọng, và rất có hiếu  với mẹ. Khi ông phát tâm bồ đề, có ý muốn xuất gia, cha mẹ không cho phép, nên ông  bỏ ăn. Cha mẹ ông đành thua thuận ý cho ông được xuất gia với đức Phật. Bà Mục  Liên Thanh Đề, mẹ của Ngài Mục Kiền Liên, có lòng ghét bỏ chư tăng, nên đã có  dã tâm trộn thịt vào thức ăn chay tịnh dọn mời khi các vị tăng ghé đến nhà bà.  Đến khi mất, bà bị đọa xuống địa ngục, rất khổ sở. Ngài Mục Kiền Liên dùng thần  thông tìm mẹ. Thấy được mẹ mình bị đói khát đày đọa dưới ngục sâu, đau lòng  ngài đem cơm cho mẹ ăn. Được chén cơm, bà tỏ tánh tham lam, sợ những kẻ đói  khát xung quanh thấy được, bà bèn dùng tay trái che kín chén cơm lại, và tay  phải bốc ăn. Nhưng khi cơm vừa đến miệng thì biến thành lửa đỏ, không ăn được, nên  bà vẫn khốn khổ chịu cảnh đói khát. Mục Kiền Liên bèn thưa hỏi xin Phật giải cứu  cho mẹ. Đức Phật bảo phải nhờ lực thanh tịnh của chư tăng, sau 3 tháng hạ an cư  tu tập, cầu nguyện cho bà thì bà sẽ được giải thóat. 
                                Ba tháng an cư kiết hạ, là thời gian từ Rằm  Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy, là mùa mưa chư tăng không đi khất thực, để tránh  dẫm đạp giết chết côn trùng. Chư tăng nhập thất tụng kinh tu hành và sám hối.  Sau 3 tháng hạ, chư tăng tổ chức Lễ Tự Tứ, gọi là Hoan Hỉ Nhật, cầu nguyện cho  chúng sinh được thoát nạn khổ ở địa ngục, và chính những chúng sinh nầy cũng  phải thành tâm sám hối thì mới được giải oan: 
                                    Tội từ tâm khởi đem tâm sám 
                                    Tâm đã tịnh rồi tội liền tiêu 
                                    Tội tiêu tâm tịnh thảy đều  không 
                                    Thế mới thật là chân sám hối 
                                    Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma  Ha Tát  
                                Ngài Mục Kiền Liên đã theo lời dạy của Phật,  nhờ lực thanh tịnh của chư tăng, cầu nguyện cho mẹ ngài và cho chúng sanh bị  đày đọa dưới địa ngục. Kể từ đó mỗi năm, sau mùa An Cư Kiết Hạ 3 tháng, khi chư  tăng ni ra hạ, các chùa tổ chức Đại Lễ Vu Lan vào ngày rằm tháng bảy. Tăng ni  cùng phật tử cầu nguyện cho cha mẹ nhiều đời thoát cảnh khổ ở địa ngục.  
                                Đã từ lâu theo quy luật của Giáo Hội, sau 3  tháng an cư kiết hạ, chư tăng được thêm một ”tuổi tu hành”, gọi là tuổi hạ.  Người nhiều tuổi hạ và tùy theo Phật sự của mình, sẽ được Tăng Đoàn trong Giáo Hội tấn  phong, theo thứ tự từ đại đức, thượng tọa, hòa thượng. An cư kiết hạ hay giữ  giới là những hướng dẫn được chỉ bày để tu sửa và hành đạt. Tuổi hạ chỉ là một  hình thức của Nhà Phật hướng dẫn việc tu hành, tạo đức từ bi cao cả và hạnh  lành của người tu Phật.  
                                Giới luật của nhà Phật đặt ra để hướng dẫn để  hạn chế. Giới luật không đặt ra để so sánh đo lường, cân cho thấy nặng nhẹ, vì  như thế chỉ là hình thức. Có những thiền sư ngồi sâu trong rừng già, tu hành  thanh tịnh và đạo hạnh tâm lành của các ngài tạo cân bằng cho cuộc sống nhiễu  nhương ở trái đất chúng ta đang sống. Có những ngôi chùa nằm sâu trong những  vùng heo hút, các tăng ni tu hành ở đó, với một lòng thanh tịnh, giúp người  khốn khổ, tụng kinh niệm Phật, trồng rau cấy lúa để sống. Trong lúc làm việc  ngoài đồng, khi mỗi cây lúa được trồng dưới ruộng, mỗi cây rau trồng xuống hoặc  được hái lên trên rẫy trên nương, họ nhất tâm niệm Phật. Lòng họ thanh tịnh thì  tuổi hạ của các vị không tính không đếm. Đời sống của họ trong một năm của 12  tháng sẽ là 12 tháng nhiều thanh tịnh. Các vị chân tu không phân chia thời gian  tu hành của mình thành 9 tháng động và 3 tháng tịnh. Mỗi ngày họ sống là mỗi  ngày tích cực làm việc, hướng về sự tinh tấn tu hành và nhiếp tâm trong chánh  niệm.  
                                Khi còn tại thế đức Phật cũng vô hạ với các đệ  tử của mình để hướng dẫn các đệ tử tu hành. Một ông thầy giảng tóan, đứng trên  bục giảng, phải làm những bài tóan cộng trừ nhân chia, không có nghĩa là trình  độ của ông chỉ ngang đó. Ông có bổn phận hướng dẫn và thực hiện cái biết của  mình cho học trò thấy rõ để hiểu và để học theo.  
                                Đức Phật đặt ra mùa an cư kiết hạ tạo sự tu  học cho tăng đòan và để giới hạn sự sát sanh. Sát sanh có nhiều cách: thân sát,  khẩu sát và ý sát. Thân là hành động. Khẩu là lời nói. Ý là tư tưởng. Không  phải chỉ là sự dẫm đạp trên thể xác của côn trùng mới gọi là phạm giới sát. Trong  cuộc sống hằng ngày, chúng ta chứng kiến sự sát sanh xảy ra từng giờ từng phút.  Một lời nói cay độc của một đứa con bất hiếu, sẽ làm đau lòng người mẹ, người  mẹ sẽ khô da héo thịt. Một hành động bất nhân của đứa con bất hiếu sẽ giết chết  dần mòn người mẹ trong khổ đau trong tủi nhục. Sống một đời lành mạnh hữu ích  cho cá nhân, cho gia đình, cho đoàn thể, là một sự báo hiếu cha mẹ rất cụ thể. Ước  muốn của người cha và nhất là của người mẹ, là con mình có được một đời sống  đầy đủ hạnh phúc. Nghĩa là biết đem thân mình làm việc hữu ích cho mình, cho đời  và cho người. Hiếu thảo không gì bằng làm vui lòng cha mẹ.  
                                Một đóa hoa hồng cài trên áo cho Cha và một  đóa hoa hồng cài trên áo cho Mẹ trong Mùa Vu Lan là một nhắc nhở rất đẹp. Rằng,  anh và chị có mẹ có cha, dù các vị đã mất hay còn tại thế, anh và chị hãy sống  đúng danh nghĩa một người con.  
                                Có một câu văn rất hay, viết rằng: ”ngày mẹ  tôi mất là ngày tôi mất cả bầu trời”. Đúng rồi, vì bầu trời là không gian vô  tận trong xanh thanh thoát, là dưỡng khí, là nguồn sống, là một nơi ta nhận  thức được mình có một chỗ đứng. Mất mẹ là mất bầu trời xanh, là mất dưỡng khí,  mất chỗ đứng, là hụt hẫng, là một thiệt thòi lớn nhất trong đời. Dù là người  còn nhỏ hay đã là một người lớn tuổi, ta luôn luôn là con của mẹ, ta mãi hòai cần  tình thương của mẹ. Thế nên ngày mẹ đi, sẽ là ngày ta nếm rõ mùi vị của cô đơn,  lạc lõng. Tình thương là nắng ấm trong tim, là khả năng cảm nhận được sự hòa  điệu và nét thẩm mỹ của vũ trụ để thấy được sự điều hợp sự tiến hóa của tất cả  giữa đất trời, và thấy được vô thường của vạn vật để trân qúy những gì mình  đang có. Nếu còn mẹ, anh hãy sống trọn vẹn và vui hưởng tình nầy.   
                                  UYÊN HẠNH              
                                  Mùa Vu Lan 2550 
                                  (ĐTĐT - Tháng 8/2007) 
                                   
                                                                                      
                                 
                                  
                                  
                                GHI CHÚ: 
                                  (1*) Cúng lui một ngày:  Theo  chỉ bảo của người lớn, hễ mất ngày 16, thì đến khi cúng giáp năm, tức là tròn 1  năm sau khi người thân mình mất, mình sẽ kỵ giỗ vào ngày 15, coi như  đi lui một ngày, và sau đó cứ thế mà tiếp tục.  Người lớn giải thích: - ”Đi lui một ngày là vì khi cúng cơm, người ta cúng ngày  sống, không ai cúng ngày chết, vì như thế người mất mới được hưởng thức ăn mình  cúng”.  
                                Cúng lui một ngày là đúng,  nhưng vì sao cúng lui một ngày: Khi gia đình có tang  chế lần nữa, trong một lá thư của vị Hòa Thượng khả kính, gửi cho chúng tôi từ  Việt Nam, khi chỉ dẫn cũng như  giải  thích về nghi thức phải làm, Hòa Thượng đã viết: ”Con nhớ cúng giáp năm, tức là  ngày kỵ giỗ đầu tiên 1 năm sau khi người thân mình mất, phải tính lui một ngày.  Như bây giờ mất ngày 12 mình phải cúng ngày 11. Bởi vì nếu con cúng ngày 12 tức  là con cúng quá 1 ngày, vị chi là 1 năm 1 ngày. Con cúng ngày 11 thì đúng là  cúng tròn 1 năm”. Thật là đơn giản và hữu lý! Vậy mà bao nhiêu năm nay, tôi  không cảm thấy thắc mắc để tìm câu trả lời khoa học một chút thay vì ”nghe sao  biết vậy!”  
                                Cúng Tiểu Tường gặp năm  nhuận: 2005 - năm Ất Dậu, là năm  nhuận, có 2 tháng 7 Âm Lịch.Ví dụ mình có người thân mất ngày 12.4 ÂL, đến khi  cúng giáp năm, tức là cúng Tiểu Tường, chúng ta phải cúng lui 1 tháng. Bởi vì  2005, Ất Dậu, có 13 tháng. Cúng giáp năm phải tính đúng 12 tháng, nghĩa là đến  năm sau, 2006 - năm Bính Tuất, phải cúng ngày 11 tháng 3 ÂL. Nếu đợi đến 11  tháng 4 ÂL, thì quá 1 tháng.Tiểu tường, cúng giáp năm, làm lễ xả tang cho anh,  chị em, con gái đã có gia đình, là những người mang tiểu tang. 
                                Cúng Đại Tường: Năm kế tiếp Tiểu Tường, là năm cúng Đại Tường. Đại  Tường là năm làm lễ mãn đại tang cho vợ/chồng, con trai, và con gái chưa có gia  đình. Mất 12.4.Ất Dậu (2005) cúng Đại Tường sẽ cúng 11.4 Đinh Hợi (2007). Và những năm sau  đó, tiếp tục cúng ngày 11.4 ÂL. Vì sao vậy? bởi vì cúng giáp năm, tròn một năm,  phải tính đúng 12 tháng. Sau đó ngày kỵ giỗ sẽ tính theo ngày mất, không tính  theo năm nhuận. Nếu không, ngày kỵ/ giỗ sẽ xa lần ngày mất , bởi vì cứ mỗi 4  năm lại có 1 năm nhuận. 
                                Cúng Cơm tuần thứ nhất: Sau khi người thân của chúng ta mất đi, thi hài đang  còn nằm trong nhà xác, chưa liệm, tức là chưa đặt vào quan tài, chúng ta cúng  cơm hằng ngày để tụng kinh. Nên cúng chay để người mất khỏi bị mang tội, bởi vì   nếu cúng mặn, thì vì cái chết của người  đó ta làm thịt, tức là vì người mất mà sát sanh thì cả ta và người mất đều mang  tội sát. Trong những ngày nầy tụng kinh hay niệm Phật là điều thiết yếu, để  hương linh người mất được nghe lời kinh mà bình tâm, không bị hỏang hốt, sẽ  thấy được ánh sáng lành thiện của chư Phật mà đi theo.  
                                Lễ Tẩm Liệm (Mền Quang Minh  Mũ Quan Âm): Sau khi người thân của chúng  ta mất, chúng ta thường mời thầy hướng dẫn tụng kinh và theo nghi lễ nhà Phật  lo tẩm liệm.Chúng ta có thể đến chùa thỉnh một bộ áo quần liệm, gồm một chiếc  áo tràng màu lam, một mền Quang Minh và một mũ Quan Âm. Trên chiếc mền Quang  Minh có ghi tên và pháp danh người mất. (Pháp danh là tên của các thầy đặt cho  chúng ta, khi vào chùa thọ ngũ giới. Nhận ngũ giới là nhận để mà cố gắng thực  hành 5 điều: 1.không sát sanh;  2. không nói  dối, lừa đảo; 3. không tà dâm; 4. không trộm cắp; 5. không nghiện ngập). Trên  mền Quang Minh có ghi câu chú của chư Phật để hộ trì cho người mất. 
                                Lễ Thành Phục (Lễ Phát tang) Sau khi được tẩm liệm, tức là thi hài người mất  được đưa vào áo quan. Thầy làm lễ phát tang, nghĩa là chúng ta được mang áo  tang vào. Thi hài chưa liệm vào áo quan, chúng ta chưa được mặc áo tang. Sau lễ  tẩm liệm là lễ di quan hay động quan, nghĩa là đưa quan tài đi chôn hoặc đi  thiêu, tùy theo  quyết định của gia đình. 
                                      
                                    Cúng thất tuần: Qua tuần thứ 2 và những tuần kế tiếp, kể từ khi  người thân mất,sẽ cúng cơm liên tiếp cho đủ 7 tuần. Trường hợp người thân ta  mất ngày thứ năm, thì đúng ngày thứ tư mỗi tuần chúng ta cúng cơm, không còn  cúng mỗi ngày như ở tuần thứ nhất nữa. Mất ngày thứ năm thì cúng ngày thứ tư  mỗi tuần, là cúng đúng 1 tuần, nếu cúng ngày thứ năm sẽ là 1 tuần 1 ngày). Cúng  Thất Tuần, là cúng 7 tuần hay cúng 49 ngày. Nên cúng chay và tụng kinh cho  người mất sớm vãng sanh cõi Phật. 
                                Cúng trăm ngày: Tục lệ của nhà Phật cúng 49 ngày tức là cúng thất  tuần, tụng kinh để hương linh người mất được nghe kinh và sớm siêu thóat. Cúng  100 ngày là tục lệ dân gian.  
                                (2*) Mục Kiền Liên: một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ông mất  trước Đức Phật. Trong hội Pháp Hoa, đức Phật có thọ ký cho Mục Kiền Liên, phán  rằng về sau, Mục Kiền Liên sẽ thành Phật, hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, cõi  tên là Ý Lạc (Manobhirama), Kỳ kiếp tên là Hỷ Mãn (Ratiprapurna). 
                                 
                                                                   | 
                                |