  
                                    NGƯỜI VIẾT: BÁC SĨ LÊ ĐÌNH  THƯƠNG 
                                    Mùa  hè năm ngoái, nhân cuộc họp mặt thường niên của hội tại nam California, tôi được anh Lê đình Thương cho  xem sơ bản thảo cuốn sách nhỏ anh vừa viết xong. Tháng 4 vừa rồi , anh gởi  tôi cuốn A Life Changed vừa in xong. Anh muốn  tôi đọc trước, để sửa soạn giới thiệu sách của anh trong ngày ra mắt tại Thư  viện Huntington Beach vào chủ nhật mồng 5 tháng 8, 2007, tức ngày hôm nay. Xin  cảm ơn anh Thương. 
                                    Chỗ  bạn bè cùng học, cùng chơi, cùng sống, cùng đi qua những đoạn đường,  kề cận   nhau trong suốt gần 50 năm, được bạn thương, tin,  giao việc cho làm là một điều vui mừng. Vậy  nên, tôi đã được đọc sách anh viết trước những bạn khác của anh. Tôi đọc một  lần, hai lần. Có lẽ ở tuổi này,  không ai  còn can đảm đọc một cuốn sách đến hai lần, dầu là một kiệt tác. Nhưng quả thật  tôi đã đọc A Life Changed hai lần. Không phải vì nhu cầu đọc để viết bài giới  thiệu. Có nhiều người viết bài giới thiệu sách thật dài, thật hay mà không cần  đọc quá 5 trang sách. Tôi nghĩ cũng có thể làm như vậy. Nhưng tôi đã đọc “Một  Đời Nổi Trôi” ( tiêu đề sách tôi tạm dịch ra tiếng Việt, và có hỏi ý anh, nhưng  anh không trả lời ) hai lần, vì một cuốn hút nào đó. Sách đã đưa tôi về một quá  khứ thật gần gũi, một quá khứ  50 năm,  hay dài hơn vậy nữa. Một quá khứ của người viết, của tôi, của bạn, của nhiều  cuộc đời, nhiều thế hệ. Như chỉ là một cái chớp mắt của thời gian, nhưng là một  khối nặng kỷ niệm trong đáy sâu lòng người. A Life Changed đã đưa tôi về một  thời đã qua, một thời tưởng đã quên đi, tưởng đã xếp lại. 
                                    A  Life Changed là một cuốn tự truyện, an autobiography, theo đúng nghĩa. Xem phớt  qua, người đọc có cảm nghĩ đó là cuốn sách viết cho riêng anh, như một ấn tự,  viết lại  những riêng tư cho chính mình,  như một gởi gắm cho vợ con, cho những người thân yêu nhất, những bè bạn gần gũi  nhất. Nhưng càng đọc, cái cảm giác đó   nhẹ đi, nhường chỗ cho một xâm lấn, ban đầu mơ hồ, rồi càng lúc càng rõ  nét: hình như qua từng giòng chữ, từng trang sách, như có sự hiện diện của mình  trong đó. Để cuối cùng khi gấp sách lại, chuyện   của bạn mình không còn là chuyện của riêng tư, mà đâu đó, cũng là chuyện  của chính mình, qua hoài niệm và một chút ngậm ngùi thích thú. 
                                    Vì  quê hương đó,  cái xóm làng, những con  đường, những bụi tre, gốc chuối,...trong Một Đời Nổi Trôi cũng là quê hương của  tôi, của anh. Cái dòng họ, gia phả, những người thân quanh quẩn cũng chỉ là một  phần cái gốc rễ chung của mọi anh em mình. Cái đạo lý, cái ý sống, đời sống,  nếp sống, lối suy nghĩ,  niềm vui, ước  vọng, cái nỗ lực, cố gắng vươn lên, cho đến cái cam chịu, nhẫn nhục, khổ đau,  cái thăng trầm, cái thành đạt,... cũng là những cái gì rất gần, rất giống nhau  của chung mọi anh em mình, của một lớp người, một thế hệ. Niềm say mê, nỗi chán  chường, tình yêu, người yêu,  cái đẹp  nhận thức, từ cái nắm tay cho đến nụ hôn đầu đời, cho đến nỗi chết, như là một  rập khuôn. Và đó là cái đồng hương, đồng điệu, đồng sàng của anh em chúng ta.  Chứ không như nơi đây, chỉ khác nhau một con số thật nhỏ trong dãy số an sinh,  con người đã là những cá thể riêng biệt, phân cách. Phân cách đến ngàn đời. 
                                    Chúng  tôi đã có một khoảng thời gian tuyệt vời ngày theo học y khoa ở Huế. Anh em  chúng tôi,  ở đây tôi muốn nói gồm tất cả  những sinh viên trong bốn, năm khóa đầu của trường Y Huế, chúng tôi là một khối  khá thuần nhất.. Chúng tôi thương, quý nhau, nâng đở, giúp nhau, chia xẽ, lo  cho nhau trong mọi chuyện học hành, cũng như trong đời sống riêng tư. Chúng tôi  cùng chơi, cùng học. Không đố kỵ, không ganh ghét. Thương là sinh viên nổi bật  thời đó. Thương học giỏi, tận tình giúp đở được nhiều bạn trong chuyện học  hành. Nghề chơi của Thương cũng nhất, nơi nào có chuyện chơi là có Thương.  Thương chơi cái gì cũng trội hơn người khác, đam mê hơn người khác, từ đua xe,  té xe, kề cận với nguy hiểm, cho đến chuyện cờ bạc vụn, đánh tennis, thụt  bida...Thương hòa đồng, nóng tính, nhưng dễ nhịn. Cho nên, Thương nhiều bạn.  Thương  là con một, lại là con cưng. Hai  bác Tuân thương con, nên thương bạn của con. Nhà anh thời đó cũng gần như nhà  chúng tôi. Trong cái tình đó, chúng tôi đi qua những năm học khó khăn, những  xáo trộn của thời cuộc, của đất nước. Có lẽ cũng nhờ cái tình đó mà chúng tôi  đi hết được học trình, mà trường tồn tại cho đến ngày nay. Rồi chúng tôi vào  lính. Rồi tan hàng, rã đám, cùng qua những trạng huống đau thương. Để cuối cùng  cũng gặp lai nhau nơi đất khách, quê người, nối tiếp lại những ngày tháng cũ,  kẻ mất, người còn, người thành công, kẻ ít may mắn. Nhưng cái tình thì vẫn còn  đó, như ngày nào. Qua trên hai trăm trang giấy, Thương đã viết lại hết mọi  chuyện đó. Cho nên, cái tự truyện của Thương cũng là cái tự truyện của anh em  chúng tôi. 
                                    Chỉ  một điều anh em chúng tôi không ngờ đến là  người thay chúng tôi, viết nên cuốn tự truyện lại là Thương. Vì Thương chưa bao  giờ là người thích viết văn, thích gặm nhắm chuyện đời, hay mọi chuyện lớn nhỏ  quá đến ngày hôm sau. Thương ít nghĩ sâu, bộc trực trong cung xử, thẳng thắn  trong giao tiếp. Nên ai cũng nghĩ anh dễ quên, dễ sống. Vậy mà anh đã nhớ, đã  viết lại trong một cái bình thản hiếm thấy, viết rất thật, rất giản dị, ghi lại  sự việc từ một góc cạnh dễ thương, hóm hỉnh nhất. 
                                    Như  chuyện tình yêu, My love story, Thương gặp Túy, người vợ của anh bây giờ, lúc  mới 11 tuổi. Hoang sớm, nói theo tiếng Huế, nên có lúc anh bị thầy Quyến cấm  cửa vì bị hiểu lầm là playboy, với bad reputation ( trang 33). Anh có thể có  nhiều người yêu    ( sometimes going out  with other girls, trang 35), nhưng anh chỉ có một tình yêu. Và anh đã chiến đấu  đến cùng để có được tình yêu đó. Trọn đời, anh chỉ có một tình yêu, cho đến bây  giờ và mãi mãi. 
                                    Về  cuộc chiến , My life in the military, Thương viết: 
                                    “  Kể cũng là một trạng huống kỳ cục, người trong một nước cứ mãi đánh giết nhau,  trong khi những thế lực ngoại bang cứ mãi giật dây. Thẳng thắn mà nói, tôi  không tin cuộc chiến ý thức hệ này là một tất yếu. Mãi cho đến biến cố Mậu  thân, thấy được cái dã man của những người cộng sản, tôi mới có dịp suy nghĩ kỹ  hơn, mới nhận thức được sự căm thù sâu xa giữa những người cùng một dân tộc. (  trang 64 )... 
                                    “  Điều khôi hài là tôi cũng chẳng biết cái ngày tận thế đã đến vào hôm 30 tháng  tư năm đó. Suốt 3 ngày hai đêm liền, tôi làm việc không nghỉ trong phòng mỗ,  vừa bận, vừa mệt, làm chi còn thì giờ theo dõi tin tức. Lúc đang giữa ca mỗ,  một người y tá hớt hãi loan tin “ Chúng ta đã đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đã  đầu hàng.” 
                                    “  Tôi không tin được chuyện đó!... 
                                    “  Một lúc sau, tướng Phạm Hà Thanh, chỉ huy trưởng tổng y viện Cộng hòa, họp anh  em chúng tôi lại, nói lời giả biệt: “ Tôi không còn là chỉ huy trưởng của các  anh nữa. Tôi chỉ muốn cảm ơn các anh đã ở lại và chu toàn nhiệm vụ cho đến giờ  phút cuối. Từ lúc này, chúng ta là tù binh. Tôi đã được lệnh trao quyền chỉ huy  cho lực lượng mới.” Và chúng tôi chào nhau, lần cuối.... 
                                    “  Và như thế chấm dứt cuộc đời quân ngũ của tôi. Tôi đã ở trong quân đội, ngành  quân y 7 năm rưởi. Tôi về nhà hôm đó,   trĩu nặng lo âu không hiểu ai sẽ chăm sóc  những người bệnh binh còn nằm lại, lòng buồn  vui lẫn lộn,  buồn vì thua trận, vui – có  lẽ vậy,  vì cuộc chiến đã chấm dứt....Túy  mừng thấy tôi về. “ Vậy là xong, it’s over!” nàng nói, giọng có chút bùi ngùi.  Trí não của chúng tôi ngỗn ngang những suy nghĩ mâu thuẩn. Chúng tôi ngồi lặng  yên bên nhau cho lòng lắng xuống. Rồi tôi buồn bã cởi bỏ bộ quân phục, vĩnh  viễn rời bỏ chúng,  rời bỏ bộ đồ trận mà  tôi đã khoát trên người, ngày đêm, trong suốt bảy năm qua. Ờ, thì cũng tốt  thôi. Well, might as well. (trang 65, 66) 
                                    Tôi  chỉ trích dẫn một đoạn ngắn, để xin được hiểu vì sao tôi đã đọc Một Đời Nỗi  Trôi hai lần. Có một người nào viết hồi ký, viết tự truyện, dẫu là một nhà văn,  khiến người đọc ứa nước mắt, như những đoạn văn Thương viết. Những đoạn văn như  thế này  đầy cả trong hai trăm trang  sách. 
                                    Thương  cũng viết về tình gia đình, gia tộc, và lòng hiếu thảo. Bác Quyến gái đã chết  trong vòng tay hai vợ chồng Thương-Túy. Vợ chồng Thương-Túy cũng phụng dưỡng  hai bác Tuân trong nhiều năm, trong những hoàn cảnh cực nhọc, cho đến ngày hai  bác thay nhau nằm xuống khi tuổi đã cao lắm. “ Vậy mà, không hiểu tại sao, tôi  luôn có cái mặc cảm tội lỗi khi bà tôi, cha mẹ chúng tôi lìa đời lúc tuổi già.  Có lẽ tôi phải kề cận, gần gũi cha mẹ tôi nhiều hơn, có lẽ còn biết bao nhiêu  điều tôi còn có thể làm được để cha mẹ tôi sống vui hơn cho đến cuối đời.” Ai  trong chúng ta cũng có ý nghĩ đó. Ai cũng tự dằn vặt về những điều không trọn,  mà mãi vẫn không nói được nên lời. 
                                    Trong  một đời nổi trôi đó, Thương cũng đã trãi một năm, tám tháng, bốn ngày trong  trại tù cải tạo. Có lẽ không dài lắm so với những người khác. Nhưng dài ngắn gì  đi nữa thì cũng chỉ là số phần, là một nổi trôi trong cuộc đời, một vết hằn in  sâu. Những ngày trong lao tù đó cũng là những trang sách thật hay, thật sống.  Và để thấy thêm một điều: trong anh không có hận thù. 
                                    Rồi  vượt biên. Rồi những ngày tháng làm lại. Những cố gắng, những nỗi vui mừng qua  cuộc trả nợ áo cơm để nuôi mình, nuôi vợ, nuôi con nên người. Có bao nhiêu điều  được gói ghém lại trong chừng đó trang sách. 
                                    Không  có gì để nói nhiều hơn nữa. Không ai có thể nói nhiều hơn khi cuộc đời, cuộc sống  là những trường thiên. 
                                    Thế  hệ của chúng ta, của chúng tôi, là thế hệ không biết nói dối. Cảm ơn anh Thương  đã nói dùm chúng tôi điều đó. Trong suốt cả cuộc đời, Thương có ba lần nói dối  ( sự bất quá tam ). Tôi không nhớ rõ, sau khi gấp sách lại, Thương đã nói dối  trong những trường hợp nào, và đã phạm bao nhiêu điều răn trong thánh kinh.  Nhưng với kinh nghiệm của anh em chúng mình, thế nào cũng phải có ít nhất một  lần dối mẹ, một lần dối vợ, và một lần dối người dưng. Lần nói dối hình như là  cuối cùng của Thương, là nói dối ông hàng xóm để có được một chân chăn ngựa  trong những ngày đầu định cư ở New Jersey, để có việc làm nuôi vợ, con, có chút  tiền gởi về giúp đở cha mẹ. Ngày qua đi, tình người và ngựa mỗi ngày một thân  thiết hơn, để một hôm anh tìm được chân lý khi đổ bo bo cho ngựa ăn, và nhớ lại  những ngày trong tù cải tạo, anh nói với ngựa, “ tao với mày thân nhau cũng  phải, vì tao với mày cùng ăn một thứ thức ăn.” ...I whispered into the horse ‘s  ears, “ May be we get along well because we ate the same kind of food.” (trang  142). Những ngày tháng đã và đang qua đi của Thương, hình như cũng là những  chuổi ngày tháng, thân phận của mỗi anh em chúng mình, của chú ngựa bạn của  Thương, nơi quê hương thứ hai này. 
                                    Thương  viết A LIFE CHANGED bằng Anh ngữ. Thương viết cho tôi “ Thật ra viết tiếng Mỹ  cũng khó khăn cho moi, và cần có người giúp sửa lại cho đúng. Nhưng đó chính là  ý định của moi: nhiều người viết qua giai đoạn lịch sử này rồi, nhưng nghĩ lại  tụi nhỏ đâu có đọc được. Ý định của moi là viết cho tụi nhỏ, viết cho những  người Mỹ quen biết đọc để thấy rõ hơn tại sao tụi mình phải bỏ xứ phiêu bạt bốn  phương.” Hẵn vậy. Thương sử dụng một thứ   tiếng Anh đơn giản, thứ tiếng Anh của những thế hệ di dân thứ nhất, dễ đọc,  dễ hiểu, và gần gũi, nhưng không kém nhuần nhuyển. Những tụi nhỏ Thương nghĩ  đến, cũng là những tụi nhỏ của anh em chúng mình. Cho nên, lại một lần nữa, xin  cảm ơn Thương. 
                                    Một  lúc nào đó, cuộc sống chỉ còn là những hoài niệm, và càng lúc sẽ càng nghèo  thêm. Mỗi người đi  mang theo một phần đời  của chính mình.  Đến một lúc nào đó, khi  nắng chiều đã xuống, cầm trong tay cuốn sách của Thương, đọc sách khi mắt đã  mờ, mờ vì thời gian,  mờ vì tuổi lớn dễ  xúc động, để được sống lại với bao nhiêu người xưa, chuyện xưa, sống với một sự  trở về, thì âu đó cũng là chút niềm vui hiếm có vậy. 
                                      
                                    Người  điểm sách: Nguyễn Văn Thuận 
                                      tháng  tám, 2007.                                       
                                   |