Vĩnh Chánh 
                                       Sau khi Ban Chấp Hành  HAHYKH đồng quyết định chọn “20 Năm Kỷ Niệm YKH Hải Ngoại” làm đề tài cho Tập  San năm nay, tôi cứ mãi do dự không biết phải viết một bài như thế nào để đóng  góp vào Tập San. Sau những đắn đo suy nghỉ, qua những trao đổi ý kiến trong nội  bộ, tôi tự nhận lãnh trách nhiệm viết một bài về Giáo Sư Bùi Duy Tâm, một tên  tuổi đã gắng bó với thế hệ chúng tôi tại Đại Học YK Huế. Xin bạn đọc hãy xóa bỏ  những dị biệt chính trị để cùng tôi  lùi  lại vào thời gian mà chúng ta đang là sinh viên y khoa trong những năm cuối của  thập niên 60 và những năm đầu của thập niên 70.  
                                    Giáo Sư Bùi Duy Tâm được  chính thức bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học YK Huế vào cuối năm 1967 khi tôi  mới bước chân vào năm thứ nhất của trường. Khi được biết Thầy là một Bác Sỷ Y  Khoa có luôn cả bằng Ph.D về Biochemistry ở Mỷ, chúng tôi rất ngưỡng mộ và mơ  hồ nhìn thấy một hướng đi mới của Viện Đại Học Huế và của Trường YK.  Chúng tôi sẳng sàng chờ đợi những thay đổi, những bổ sung nhân lưc quan trọng  trong ban giảng huấn cũng như sự cọng tác thân thiện và hữu ích của các giáo sư  thuộc Đại Học YK Saigon. Biến cố Mậu Thân không những đã mang đến nhiều đau  thương chết chóc cho toàn thành phố Huế, mà còn gây nhiều tổn thất tinh thần và  vật chất cho trường YK Huế qua cái chết của các giáo sư người Đức và sự mất  tích của Thầy Nguyển Văn Đệ. Đứng trước tình trạng không có đủ các thầy, nhất  là sau khi các giáo sư ở Saigon không thể bay ra Huế để dạy một cách thuận lợi,  Giáo Sư Bùi Duy Tâm đã làm một quyết định không tiền khoáng hậu, đầy thử thách  và rất ư mạo hiểm, chỉ có thể tìm thấy được ở con người có đầu óc bén nhạy, can  trường và quyết tâm. Đó là quyết định tạm dời trường YK Huế vào Saigon. Quyết định nầy không những đã giúp chúng tôi khỏi  bị mất một năm học và thực tập, và khỏi bị động viên, mà còn là một cái mốc đưa  trường YK Huế lớn mạnh và vững vàng thêm trong tương lai về sau. Theo với sự  dời trường, Thầy đã cụ thể giúp đở rất nhiều chúng tôi bằng cách tìm cho phương  tiện di chuyển vào Saigon, và các nơi tạm trú  cho sinh viên xa nhà. Thầy đã tranh đấu để chúng tôi có những nơi để học, dù đó  là ở Đại Học Vạn Hạnh, ở trường Quân Y, ở trường Dược, ở trường YK Saigon, ở  Viện Pasteur… Cùng với Thầy, Giáo Sư Võ Đăng Đài, và quý Ông tổng thư ký Lê Cảnh  Đạm, Vĩnh Tiên đã tận tình tận lực chu toàn trách nhiệm nên chỉ sau 2 năm chúng  tôi trở về Huế tiếp tục học lại trong ngôi trường thân yêu, để từ đó lớn mạnh  trong sự săn sóc của một ban giảng huấn hùng hậu và đầy đủ khả năng hơn trước.  Rồi Y Học Đông Phương đã được giảng dạy đầu tiên tại đây đã cho chúng tôi biết  sơ khởi thế nào là “Thương Hàn Tạp Bệnh Luận” hay “ kinh mạch, âm dương”, và  “châm” khác với “cứu” như thế nào; lời thề Hipocrate khi ra trường đã được thay  thế bằng lời thề Hải Thượng Lãng Ông; lễ phục khi tuyên thệ là quốc phục… 
                                      
                                    Ngoài cách hành xử cứng  rắn nhưng đầy hiểu biết của một vị khoa trưởng, Giáo Sư Bùi Duy Tâm còn là một  vị thầy có tâm hồn nghệ sỉ và rất tình cảm. Tôi còn nhớ những lần Thầy tổ chức  cho cả trường đi chơi bằng thuyền từ dưới Đông Ba lên đến lăng Minh Mạng, hay  những đêm nghe nhạc trên thuyền ở sông Hương, hoặc những đêm dạ vũ tại trường  với ban nhạc gồm các anh Hà Thúc Như Hỷ, Hoàng Thế Định, Phạm đăng Thiện… ,  hoặc cùng chở nhau đến lăng Tự Đức rồi chạy qua lăng Khải Định, để cùng nhau  hát hò với sự thành lập ngay tại chổ ban nhạc “les tuberculeurs”gồm các anh  Trần Nhật Trí, Đồng Sĩ Nam và Trần Tiển Ngạc để phụ họa với các ca sỉ bạn của  Thầy như Thu Hà, Hồng Vân, Ngọc Minh…. Các bạn tôi cũng không thể nào quên được  lần Thầy tổ chức  trại hè lịch sử tại đảo  Phú Quý với sự cọng tác của Hải Quân và ban ca đoàn Gió Khơi trước khi trường  chính thức trở về Huế. Cũng không quên được chuyến đi chơi hè năm 1971 tại Đà  Lạt với gia đìnhThầy Cô, Thầy Đài, và các bạn Hớn, Chủ, Chữ, Châu, Tiến.  Chưa  bao giờ mà tinh thần đoàn kết thân  ái giữa các thầy trò và các đồng môn lại cao đến thế, chưa bao giờ mà toàn thể  sinh viên cùng nhau muốn học nhiều như vậy và cũng chưa bao giờ có một Khoa  Trưởng mà được các sinh viên quý mến và cảm thấy gần gủi như thế. Bạn có phải  là một trong những người đã từng nhận được phần thưởng học giỏi cuối năm do  Thầy Tâm đích thân phát không? Hay có phải bạn đã thay phiên chở Thầy đi đây đó  mổi khi Thầy ra Huế, mặc dù có sẳn xe của trường dành riêng cho Thầy. Ngay khi  Huế vừa tan mùi khói súng sau Tết 68, Thầy đã bay ra làm việc ở trường YK và  mang theo một phái đoàn văn nghệ sĩ trong đó gồm có chị Nhã Ca và thân hữu Chu  Mai để uỷ lạo sinh viên chúng tôi. Khi chúng tôi chưa chịu lên xe GMC để vào  quân trường Đống Đa theo chương trình huấn luyện quân sự học đường trong mùa  hè, Thầy đã được chở đến bằng xe Honda và dỗ dành chúng tôi với một câu nhẹ  nhàng nhưng rất hữu ích mà mãi đến bây giờ tôi không thể nào quên “các cậu phải  nhớ là ở đời có những lúc mình cũng phải làm những điều mà mình không muốn”. Thế  là tất cả chúng tôi leo lên xe, hứng khởi và sôi động. 
                                     Mùa thu năm 1969, chúng  tôi bắt đầu năm thứ ba tại Huế. Trường đã được sửa sang lại, thư viện có nhiều  sách và tài liệu mới, ban giảng huấn có thêm nhiều khuôn  mặt mới, như các đàn anh và đàn chị thuộc  khóa 1 và 2; đặc biệt là cặp thầy cô Tôn Thất Chiểu & Bùi Bội Tiên và Bửu  Châu & Hạnh Phước, mà theo ý kiến riêng của tôi nếu không có thầy Tâm không  chắc các cô Bội Tiên và Hạnh Phước đã chịu thôi làm ở phòng sinh hóa YK Saigon  đề về đất thần kinh dù là đi theo chồng. Bên cạnh đó vẫn còn có nhiều giáo sư  khác như quý thầy Nguyễn Văn Tự, Bùi Minh Đức, Lê Bá Nhàn… đang du học ở  Đức…Các giúp đở từ ngoại quốc tiếp tục đổ vào, theo với số bác sỉ làm việc tại  bệnh viện để hướng dẫn lâm sàng cho sinh viên. YK Huế đang trong đà bành trướng  mạnh, các đàn anh ra trường vững vàng trong nghề nghiệp dân y hay quân y, thì  bổng nhiên Thầy Tâm rời bỏ chức vụ khoa trưởng YK Huế vào cuối năm 1972. Lòng sinh  viên chúng tôi rất trong trắng, không biết chính trị ở đàng sau nên chúng tôi  đã bày tỏ thái độ chống đối bằng cách rầm rộ đưa tiển Thầy ra tận sân bay, mang  theo nhiều biểu ngữ bày tỏ cảm tình sâu đậm dành riêng cho Thầy; Ban đại diện  sinh viên YKH cũng có tặng Thầy một tấm tranh sơn mài rất giá trị của họa sỉ  Nguyễn Tăng vẽ các cô gái Huế tóc thề, tay ôm cặp trước cổng Thượng Tứ. Trên  bức tranh có 3 câu viết tặng: “Toàn thể Sinh Viên Đại Học Y Khoa Huế  (1967-1972) kính tặng Giáo Sư Khoa Trưởng Bùi Duy Tâm, Người đã đến trong Gian  Nguy và ra đi khi An Bình”. Thầy đã như một vị chỉ huy biệt kích nhảy dù,  không e ngại gian khổ, vượt qua bao thữ thách, đem đến chiến thắng, mang các  con cái về lại nhà, nhưng Thầy lại ra đi sau đó vì một sứ mạng khó khăn hơn với  nhiều thách đố hơn đang chờ đợi tài quản trị và ngoại giao khéo léo của Thầy.  Và như thế trường YK Minh Đức, con đẻ của Thầy, được chính thức thành hình ngay  tại Saigon. 
                                      
                                    Sau biến cố mất nước năm  75 với những trôi nổi đau khổ, tôi đã bặt tin của Thầy. Cho đến mãi sau nầy,  gần cuối thập niên 80, tôi mới hay biết Thầy định cư tại vùng San Francisco và  có tham gia nhiều cuộc hội họp với các anh chị em trong HAHYKH trong những năm  sơ khai. Lần gặp lại Thầy trong buổi lễ tưởng niệm thầy Lê Văn Bách năm 2002, trông  Thầy vẫn không mấy thay đổi, cũng một cách nói chuyện nhiệt tình như xưa. Thầy  đã cho chúng tôi xem lại những tấm hình “thời sự” của những năm Thầy có mặt ở  Huế. Trông lần họp thường niên của HAHYKH vào tháng 8, 05 vừa qua, tôi có mời  Thầy tham dự, nhưng rất tiếc là Thầy bận đưa Cô đi cruise thăm nước Greenland  và Iceland vào thời gian đó. Qua các cuộc nói chuyện với bạn bè, tôi vui mừng  biết được Thầy nay đã “đạt”, xa lánh “đường trần mưa bay gió cuốn” và đang tích  cực làm việc ngày đêm chờ đợi ngày “gát kiếm”. Tôi muốn chung vui với Thầy Cô  về sự thành đạt của các em, trưởng nam Bùi Duy Linh, một BS gây mê, trưởng nữ  Bùi Việt Hà, quản lý của một trung tâm YK, thứ nam Bùi Duy Thiện, orthodontist  hiện đang là giáo sư tại ĐH UCSF và út nữ Bùi Duy Việt Hồng, một BS Gia Đình.  Tôi ước mong có ngày được gặp lại Thầy Cô để bày tỏ sự biết ơn của kẻ “ăn quả  nhớ kẻ trồng cây”, để được xem lại tấm tranh sơn mài năm nào đã ghi đầy đủ sự  nhớ ơn của tất cả chúng tôi mà Thầy vẫn trân trọng treo ngay chính giữa phòng khách  của gia đình dù trải qua bao nhiêu thăng trầm, và tôi cũng muốn kể cho Thầy Cô  nghe những tên tuổi, thành tích của những sinh viên năm xưa của Thầy hiện đang  thành danh ở trong nước hay ở bên ngoài. Nếu điều nầy có làm ấm lòng Thầy trong  tuổi xế chiều, thì đó là một vinh dự cho tôi.  |