Tháng 7 năm 1973, chúng tôi vào thực tập ở  TRUNG-TÂM Y-TẾ TOÀN KHOA ĐÀ NẲNG (xin gọi tắt là TK/ĐN: Toàn khoa Đà-Nẵng ; hay  BV/ĐN: Bệnh-Viện Đà Nẵng) và được chia phòng ở trong khu nhà dành cho nội-trú,  còn mới . 
                                      . 
                                      Thành  phố Đà Nẵng thì không lạ gì với chúng tôi, vì qua mấy lần Huế bị lâm vào chiến  cuộc ( Mậu Thân 1968, mùa Hè 1972,..v..v...), phần lớn thị dân Huế vào Đà Nẵng  lánh nạn ở nhà bà con hay nhà tạm cư, chờ yên lại quay về. 
                                      Chúng  tôi được chia việc, phân công trực gác và hoà nhịp ngay với guồng máy đang  chạy.  Lần đầu tiên trong đời đi học,  chúng tôi nhận được một ít lương. Ông Bác-Sĩ Giám-Đốc ( B.S G.Đ ) Toàn Khoa Đà  Nẵng Đ. V. T. cùng vài Bác Sĩ khác, kể cả các B.S từ Thuỵ-Sĩ hay B.S từ Pháp  đến giúp đỡ bệnh viện, dành một ít thì giờ để giảng dạy về trị liệu hay cấp cứu  . 
                                      Một nơi  mà mọi người đã trải qua những giờ phút êm đềm là phòng đọc sách, cạnh phòng  mổ. Phòng tuy nhỏ nhưng mát mẻ vì có điều hoà không khí và yên tĩnh vì cách ly  tốt, sách nhiều màu vui mắt chất lên đến trần nhà . 
                                      Hiếm có  Bệnh viện nào ở Việt Nam vào thời đó mà tổ chức chu-đáo như vậy, dành cho  nhân-viên phương tiện để tra-cứu và học hỏi ngay khi làm việc. 
                                      Lúc mới  vào B.V Đà Nẵng, ngày đầu trực phòng cấp cứu rất đông bệnh nhân, sau một  ngày làm việc từ sáng đến tối không có gì lạ  , 1 nội trú đã viết vào quyển sổ nhật ký để trong phòng trực , cảm tuởng sau 1  ngày trực, dựa theo câu tựa đề của quyển truyện Pháp đang thịnh hành của  E.M.R.: 
                                      -" À l'Ouest , rien de nouveau ! " (Ở miền Tây, không có chi mới lạ). 
                                      Mới vào  làm, cứ nghĩ rằng ai mà để mắt tới quyển sổ ấy... 
                                      Vậy mà  Ông Giám Đốc Bệnh Viện, dù bận việc, vẫn xem những điều các nội trú ghi lại  trong ngày và đã viết trả lời : 
                                      -" Il y a toujours du nouveau en ce monde  ". (Trên đời này luôn luôn có những điều mới lạ).  
                                      Ông  luôn luôn có những chỉ dạy và lời khuyên bảo ân cần, đúng lúc cho đám người trẻ  … 
                                     Con  đường từ Huế vào Đà Nẵng và Đà Nẵng ra Huế rất hiểm trở, đã đi qua mãi, nhưng  mỗi lúc nó lại có 1 vẻ đẹp riêng. Có ngày sương mù dày đặc, xe phải mở đèn chạy  giữa ban ngày. Có mùa hoa vàng nở khắp núi rừng, triền dốc. Có mùa hoa lau nở  trắng phơ phất trong gió ...Và nhìn xuống dốc đá sâu thẳm , sóng ầm ầm dội vào  ghềnh. 
                                       Cái Ải  trên núi là chứng tích của 1 thời lịch sử có vua có quan. Ngày nay đã có 1  đường 
                                      hầm ngầm đục xuyên qua núi nối liền 2 vùng, mà  khi đi qua 3 cái đèo và núi non, khí-hậu thay đổi khác biệt thấy rõ .. 
                                      Đà Nẵng  cũng có những nơi đáng xem như Bảo-Tàng Chàm, Ngũ Hành Sơn .... Những bãi cát  trắng với rặng thùy dương mà tới cuối tuần mới có thì-giờ rảnh đi với cả nhóm . 
                                      Thỉnh  thoảng Bệnh-Viện tổ chức cho nhân viên đi khám bệnh, phát thuốc ở các làng quê  hẻo lánh, thời ấy gọi là " Y tế về làng ". Đến nơi mới thấy làng quê  xơ xác vì chiến tranh, thiếu thốn mọi mặt, kể cả y-tế. Trẻ em thông thường là  bệnh giun sán, nhiễm trùng ...và thiếu sự săn sóc. 
                                      Cũng  nhân dịp đi với phái đoàn, chúng tôi đã lên thuyền ra thăm đảo Chàm ngoài khơi  của Hội An và thăm phố cổ Hội An (mà mãi đến năm 1999 được UNESCO  công nhận là di sản văn hoá thế giới, cùng  với khu di-tích Chàm ở Mỹ Sơn). 
                                      Bệnh  Viện Đà Nẵng cũng là nơi mà 2 người bạn học cùng lớp đã nằm bệnh chỉ trong một  thời gian rất ngắn rồi ra đi vĩnh viễn vào năm cuối y khoa, chưa kịp thi ra  trường: Cô bạn K.L và bạn TR. đã qua đời rất nhanh và bất ngờ. 
                                      Trong  lần đến thăm TR., Ông Bác Sĩ Giám Đốc T.K Đà Nẵng đã nói đến bệnh viêm phổi cấp  tính gây nên do Virus với hội chứng hô hấp cấp tính trầm trọng. Ông bày tỏ mối  lo ngại , sẽ có thể có khả năng các nhân-viên y-tế trong Bệnh Viện gặp nguy cơ  lây nhiễm và có thể, 1 trận dịch do virus bộc phát do lây truyền qua tiếp-xúc  với bệnh nhân hay với chất thải ra từ đường hô-hấp của bệnh nhân . Đặc -biệt là  số tử vong sẽ cao nơi nhân viên y tế !!. 
                                      Ông  Giám Đốc đã nói đến SARS từ năm 1973. May mắn đã không xảy ra 1 trận dịch lúc  ấy ở Đà Nẵng , mà mãi đến cuối năm 2002 và về sau, thế giới mới trãi qua cơn lo  sợ với SARS và hiện tại với dịch cúm gà, cúm gia cầm... 
                                      Cho tới  năm 1973, phòng giải phẫu của Toàn Khoa Đà Nẳng đã làm được 6 trường hợp cột  Động mạch Hạ vị (Cột ĐMHV, Ligation of Hypogastric Artery). Với 5 truờng hợp  thành công và 1 thất bại do bệnh nhân quá yếu kém và mất nhiều máu trước đó . 
                                      Ông Bác  Sĩ Giám Đốc đã cho chúng tôi xem 1 tập tài liệu mỏng viết về phương-pháp mổ  này, tiếng Pháp đối chiếu với tiếng Ý, với phần lịch-sử, cơ-chế , chỉ-định ...v..v... 
                                      Henry  Gray (1821-1865) viết sách " Anatomy of the human body " (1918) đã  mô-tả chi-tiết về Collateral circulation ( vận hành máu phụ ) sau khi cột Động  Mạch Hạ Vị (Ligation of Hypogastric artery). Có thể tìm xem tài liệu này trên  Internet. 
                                      Hypogastric  artery ( Động Mạch Hạ Vị ) cung cấp máu cho các vách che phủ và nội tạng  (Viscera) của vùng chậu (Pelvis), vùng mông, cơ quan sinh dục ... 
                                      Nếu  muốn tìm tài liệu về phẫu thuật này, có thể tìm trên Internet, dùng Computer : 
                                      ***   Đánh máy với chữ Anh vào khung tìm kiếm (Search) của  Computer : 
  " Ligation of the Hypogastric  Artery", hay 1 tên khác của động mạch hạ vị  : " Ligation of the Internal Iliac  artery " . 
                                      Bấm:  Tìm (Click : Search),  sẽ thấy nhiều bài  viết bằng chữ tiếng Anh về đề tài trên. 
                                     ***  Nếu đánh máy chữ Pháp :" Ligature de  l'artere  Hypogastrique " vào khung  "Tìm" , sẽ có nhiều tài liệu chữ tiếng Pháp . 
                                      Năm  1894, Howard Kelly viết :" Ligation of the internal iliac artery for  hemorrhage in hysterectomy for carcinoma uterus in John Hopkins Hospital "  (Cột Động Mạch Hạ vị ngăn xuất huyết khi mổ cắt tử cung bị ung thư trong Bệnh  Viện John Hopkins). 
                                      Bệnh  Viện John Hopkins là nơi Ông B.S. Giám Đốc đã   tu nghiệp chuyên khoa 2 năm (1960). 
                                      Phẫu  thuật cột Động Mạch Hạ Vị dùng cấp cứu, làm ngưng xuất huyết trong trường hợp  khẩn cấp, khi các cố gắng cứu giúp khác đã thất bại . 
                                      Sau khi  cột ĐMHV chừng 45 tới 60 phút, sẽ có Collateral circulation ( Vận hành máu phụ  ) 
                                      BURCHELL (1968) đã chứng minh được điều này  bằng cách chích chất cản quang vào mạch máu của bệnh nhân rồi chụp nhiều hình  hệ thống động mạch tương ứng cùng đo áp suất động mạch, trước và sau khi mổ cột  Động Mạch Hạ Vị , và kết luận : Không thấy có hiện tượng thiếu máu hay hoại tử  (Ischemy, gangrene) sau khi cột ĐMHV. 
                                      Việc  lập bản tường-trình phân tích và quan-sát sẽ dựa theo: tuổi của bệnh nhân, chỉ  định: sản hay phụ khoa , kết quả ...v.v... 
                                      *** Chỉ  định cột Động Mạch Hạ Vị trong sản khoa: thường là xuất huyết sau khi sinh (  PPH ), vỡ tử cung. Hiếm thấy hơn: Placenta previa ( Nhau bám chắn đuờng truớc),  Morbidly adherent placenta (nhau bám cứng không lóc) ... 
                                      *** Chỉ  định cột ĐMHV trong phụ khoa : Ung-thư cổ tử cung (Carcinoma cervis) ngăn ngừa  xuất huyết trong khi mổ cắt tử cung. Hiếm thấy hơn : Ovarian tumor(buớu buồng  trứng), Choriocarcinoma (Ung thư tế bào nuôi).... 
                                      Ngày  ấy, chỉ ở các trung-tâm chuyên-khoa, các Bác Sĩ   được huấn luyện để cứu sống bệnh-nhân bằng phẩu thuật Cột Động Mạch Hạ  Vị, làm cầm sự xuất huyết vùng chậu quá nặng nề gây tử vong, khi các cố gắng  cứu giúp khác đã thất bại hay không thể làm được. 
                                      Nguyên  nhân xuất huyết có nhiều, nhưng thông-thường là xuất huyết sau khi sinh hay do  vỡ tử cung. Cắt tử cung có thể làm cầm sự xuất huyết,  nhưng khiến người đàn bà không sinh được nữa,  nên không tiện cho người đàn bà còn trẻ và ít con. 
                                      Cột  ĐMHV tuỳ trường hợp có thể 1 bên hay 2 bên, trong phúc mạc hay sau phúc mạc. 
                                      Ông B.S  Giám Đốc đã vui lòng cho chúng tôi tìm hiểu về đề tài này từ năm 1973. 
                                      Ông  bảo: 
                                      - "Đề tài này đặc biệt lắm, nhưng trước  khi làm nên cẩn thận đi xin ý kiến ". 
                                      Ông  viết ra trên giấy, thuộc lòng, 1 dàn bài bằng tiếng Pháp. 
                                      Nhưng  vào thời điểm ấy (1973), phẩu thuật Cột ĐMHV chưa phổ biến rộng rãi như về sau  này . Việc dùng Computer để kiểm chứng hay tìm kiếm thông tin và tài liệu cũng  chưa thông dụng. Ai nghe nói đến cột Động-Mạch cũng nghĩ ngay đến hậu quả tai  hại như Ischemy,  Gangrene ...thiếu máu  và hoại tử bộ phận cơ thể tương-ứng . 
                                      Chúng  tôi về trình lại với Ông Giám Đốc  việc  không thuận lợi, và tìm kiếm 1 đề tài khác, thông thường hơn . 
                                      Bệnh viện  Huế ngày ấy còn rất mới, phòng chứa hồ sơ với 4 vách tủ giấy tờ cao lên tận  trần nhà . Việc tìm tài liệu hay hồ sơ bệnh nhân ở Bệnh Viện hay ở Thư Viện mất  nhiều thì giờ , phải dùng thang leo lên cao, lục trong đống giấy tờ vàng úa đầy  bụi bặm nhiều năm . 
                                      Mãi đến  tháng 3 năm 1975, chúng tôi mới có thể quay về Toàn Khoa Đà Nẵng  xin ông Giám Đốc cho làm đề tài cũ : Cột Động  Mạch Hạ Vị, vì cũng đã cảm thấy ngay từ đầu là nó đặc biệt, và cũng bởi vì  trong thời điểm ấy các chuyên viên y-tế trong các trung tâm chuyên khoa đuợc tu  nghiệp và đuợc huấn luyện để cấp cứu bệnh nhân với nhiều phuơng 
                                      pháp mới , do đó mà cách mổ cột Động Mạch Hạ  Vị  đuợc biết nhiều hơn truớc. 
                                      Ông BS  Giám Đốc, tử tế giúp đỡ ngay cho công việc của chúng tôi . 
                                      Năm ấy,  1975, chiến tranh leo thang, nhất là sau vụ Watergate, cuộc tiến chiếm các  thành phố vùng Cao-Nguyên xảy  ra nhanh chóng. Nguời dân các vùng cao  nguyên  về đồng bằng tị nạn như suối trào  thác đổ . Sau đó đến luợt nguời dân vùng đất đầu giới tuyến Quãng Trị và Huế  vào Đà Nẵng lánh nạn đi suốt ngày đêm trên đuờng đèo Ải Vân như 1 giòng sông  cuồn cuộn chảy....  Và số bệnh nhân ở  Bệnh Viện TK Đà Nẵng cũng tăng lên rất nhiều, thiếu giuờng cho nguời bị thuơng  bị bệnh nằm. Nhưng bệnh viện TKĐN vẫn hoạt động tốt. 
                                      Rồi một  ngày cuối tháng 3, 1975, bước vào Bệnh Viện TK Đà Nẵng, chúng tôi lạnh cả người  : Bệnh Viện vắng hoe !!. Bệnh nhân và nhân-viên Bệnh Viện ...không thấy ai cả,  vắng lặng đến phát sợ !. 
                                      Buớc  sang bên phía trái, nhìn vào Phòng Cấp Cứu, trái tim của Bệnh Viện : chỉ thấy  có bàn, ghế, tủ . 
                                      Đi sâu  về bên phải tới truớc  Phòng Mổ, mọi ngày  đèn điện sáng rực, nay tối đen . Cả bệnh viện nằm trong bóng tối và im lặng  hoàn toàn. 
                                      Không  dám đi sâu vào bên trong, chúng tôi vội vàng ra phố. Đường sá không người  !!  Nhà nào cũng cửa đóng then cài, nhiều  cái bảng vội vàng treo lên trước nhiều nhà: " Bán nhà gấp. Giá rẻ.”  
                                      Cướp có  vũ trang hoành hành. Chợ Cồn trống trải, không ai đến. 
                                      Một  chiếc xe phóng thanh chạy khắp các nẻo đường, loan bản tin lạc quan rằng tình  hình Đà Nẵng rất an-ninh, ổn định. Đồng bào không nên hoang mang, giao động.  Đài phát thanh địa phương cũng loan tin tương tự và cho phát những chuơng trình  thuờng ngày . 
                                      Nhà nào  cũng có những nhóm nguời tụ họp lại quanh cái Radio để nghe nhiều nguồn tin-tức  khác nhau mỗi ngày , mong nắm bắt đuợc tình hình chung với những tin mới gần  với sự thật nhất . Nhiều nhà vội vàng đi khỏi   Đà Nẵng bằng mọi cách: theo đuờng không, đuờng bộ, đuờng biển ...truớc  khi mọi ngã đuờng đều bị vây chặt . 
                                      Sau mấy  ngày căng thẳng và lo âu cùng cực, cuộc sống lại dần trở về nhịp cũ. Mọi người  lần lượt trở về, cũng nhanh chóng vội   vàng như khi ra đi . 
                                      Bệnh  viện chật cứng thương nhân bệnh nhân, họ nằm ra giữa lối đi, hay bất cứ chổ nào  có bóng mát. Đồ đạc áo xống để ngổn ngang. 
                                      Người  ta cũng vào Bệnh Viện để tìm người thân mất tích, hay vào nhà xác kiếm người  gặp nạn không thấy về . Những con đường trước B.V kinh niên ổ gà và bùn lầy  được sửa chữa gấp gáp, trong thời gian kỷ lục, để đón thương nhân và bệnh nhân. 
                                      Một  buổi sáng đầu tháng 4 năm 1975, chúng tôi đứng ở hành lang truớc Phòng Sinh,  phía đối diện là Phòng Nhi Khoa, nhìn tới truớc là căn nhà dành cho các nội  trú, 1 bên là Chùa, 1 bên là Nhà Thờ, kế Nhà Thờ là nhà xác. Như trong 1 cơn ác  mộng, chúng tôi thấy 1 dòng nguời từ các phía đổ về nhà xác, rồi 1 dòng nguời  từ đó đi ra, trên mũi ai cũng che bằng 1 cái khăn, rồi tiện tay chùi luôn nuớc  mắt nuớc mũi đang tuôn trào..., tiếng khóc, tiếng nấc, tiếng than van .... mùi  tử khí xông ra thật xa . 
                                      Trong  những ngày đó nhiều nguời đã chết với nhiều cách khác nhau mà bình thuờng không  thể tuởng tuợng ra đuợc, và trong cơn hoãng loạn, lo thoát thân là trên hết,  không ai để ý cứu giúp ai . 
                                      Chúng  tôi chọn 1 con đuờng vắng cạnh Bệnh Viện đi xa, để dằn xuống những cảm xúc, và  chính ngay lúc ấy đã cảm nhận rằng: dù Bệnh Viện, nhà nội trú, Đà Nẵng ....,  tất cả vẫn còn đó, nhưng những ngày sắp tới, cuộc sống trong tuơng lai và ngay  cả chính lòng mình nữa, tất cả  rồi sẽ  không bao giờ trở lại giống như những ngày truớc đây nữa ...! 
                                      Thời  gian sau đó trên bầu trời thành phố Đà Nẵng vần vũ phi đoàn F5E đang tập trận,  gây tiếng động ầm ầm vang trời trong nhiều ngày ...Những nguời chủ mới của  phi-truờng Đà Nẵng đã âm thầm, bảo mật, sửa chữa gấp mấy chiếc F5E bị hư bỏ lại  trên phi trường Đà Nẵng. 
                                      Trước  đó đã có tin là phi trường Đà Nẵng và phi cơ sẽ bị phá huỷ khi bỏ Đà Nẵng, để  phía bên kia không dùng được nữa, nhưng rồi những nguời ra đi đã không làm như  dự tính. 
                                      Viên  phi công đã thả bom Dinh Độc Lập, lái phi cơ ra Đà Nẵng, ở trong đoàn F5E đang  tập trận này . 
                                      Thuở  nhỏ, vì có thù nhà, viên phi công đã thay tên đổi họ, lên Sài Gòn học và được  tuyển đi học lái máy bay ở Mỹ. Về nước, đi thả bom những vùng ven, đã thả bom  xuống Dinh Độc Lập rồi bay ra Đà Nẵng, và đã dẫn đầu đoàn F5E vào ném bom phi  trường Tân Sơn Nhất. Các đội phòng không miền Nam ở dọc đuờng không phản ứng vì  thấy rõ là phi đoàn F5E và từ trên không vọng xuống tiếng Mỹ đúng giọng của  người đã học lái từ Mỹ về : 
                                      - "Đây là phi-đoàn của Không-Lực Mỹ  " . 
                                      Mãi đến  khi mấy chiếc F5E đã thả hết bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất và bay 
                                      về hướng Đà Nẵng , mới có những phát đạn phòng  không muộn màng bắn lên . 
                                     Cuộc  chiến sau đó nhanh chóng chấm dứt, người ta cảm nhận rất rõ ràng mọi việc khi  nghe Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn cuối cùng từ chức . 
                                      Có rất  nhiều người đã khóc hết nước mắt vì những mất mát quá lớn. Rất nhiều nhà có  thân nhân đi xa mấy chục năm trước, về thăm, nên cũng có những giọt nước mắt  mừng vui . Có những bà Mẹ đã xuống tóc ăn chay trường vì đã khấn nguyện xin  Trời cho Con về nhà bình an . 
                                      Nhưng  tất cả mọi người đều lo âu vì đã linh cảm trước 1 thời hậu chiến sẽ có rất  nhiều khó khăn .. 
                                      Con  đường về nhà , về quê ... những nẻo đường Việt-Nam dẫn đến các miền đất nước đã  thông suốt để người đi xa trở về với mái ấm thân yêu và người thân đang ngóng  đợi . 
                                      Lịch sử  tự nó tái diễn ....Đệ nhất thế chiến, đệ nhị thế chiến , bài học chiến tranh  Việt Nam ...còn quá mới mẻ. Nhưng người ta thường vô tình hay cố ý quên đi bài  học đau thương ấy. Vì quyền lợi, vì tham vọng, vì nhiều lý do ...Và cứ rơi vào  cái vòng lẩn quẩn hết sức nguy hiểm của chiến tranh và chạy đua võ khí nguyên  tử. 
                                       Những  dòng sông bất tận nguời lánh nạn chảy dài cuồn cuộn trên triền dốc  núi rừng Ải Vân từ Huế vào Đà Nẵng hay trên  khắp các nẻo đuờng Việt Nam suốt 30 năm đã đi vào dĩ vãng , nhưng những dòng  sông nguời lánh nạn ấy vẫn liên tiếp tuôn chảy trên những đất nuớc khác, với  những dân tộc khác, nhắc nhở rằng hành tinh nhỏ bé của chúng ta chưa có một  ngày nào thật sự bình yên . 
                                      Nhân  loại đang ở trên đỉnh cao của văn-minh nhưng cũng, hơn bao giờ hết, đang ở sát  bên vực thẳm của thảm họa chiến tranh bấm nút, chiến tranh nguyên tử .... 
                                      Thiên-tai, bệnh dịch, khủng bố, tội ác, chiến  tranh ...hơn bao giờ hết, đang kết hợp , hoà quyện lại, đe doạ nhân loại trên  quy mô lớn toàn cầu . 
                                      Bản  hoà-tấu kinh-hoàng của ma-quỷ đã lên đến âm-bậc rất cao !. 
                                                              ****************** 
                                     Chúng  tôi tìm thăm Ông và Bà B.S Cựu Giám Đốc Toàn Khoa Đà Nẵng trong 1 buổi họp mặt  ở nước ngoài, gần 30 năm sau. Chúng tôi, vài người trong nhóm nội trú ở Đà  Nẵng, đã chân thành cảm ơn Ông tử tế với đám người trẻ ngày ấy và đã cho tìm  hiểu đề tài " Cột Động Mạch Hạ Vị " đặc biệt, đúng như Ông đã nói . 
                                      Chúng  tôi đã trình với Ông là cái đề tài ấy, theo như chúng tôi biết, đã giúp cứu  sống ít nhất vài mạng người , ở các Bệnh viện rất xa các trung tâm chuyên khoa  có chuyên viên . 
                                      Đã có  những Bác Sĩ khi về bệnh viện xa xôi, hẻo lánh, trong lúc nguy cấp, bệnh nhân  bị xuất huyết trầm trọng nằm chờ chết, không còn cách nào nữa, với các phương  tiện thời hậu chiến : chuyền máu, nước biển, thuốc men, dụng cụ ...tất cả đều  thiếu thốn, đã đánh liều cột Động mạch Hạ vị vì có nghe Ông BS Giám Đốc nói,  gián tiếp hay trực tiếp . Và rất lo lắng sau đó vì chưa từng được học, chưa  từng được trông thấy làm lần nào, chỉ cột ĐMHV vì cùng đường, không còn cách  nào nữa, và cũng vì tin vào lời Ông B.S Giám Đốc. 
                                      Một  cuộc chạy đua với cây kim đồng hồ thời gian và thần chết trong hố bụng đầy máu  với những dây thần kinh, động mạch , tĩnh mạch ...lẫn lộn , nhạt nhoà . 
                                      Bệnh  nhân sống ...đem lại cho người giải phẫu niềm vui thầm lặng. 
                                      Ông B.S  Giám Đốc BV cũng đã cười vui khi nghe mẩu chuyện nhỏ trên. Ông đã nói rất đúng,  cách đây 30 năm, vẫn luôn có những điều mới lạ xảy ra mỗi ngày trong cuộc đời  thuờng , dù rằng mọi sự trên đời đều lập đi lập lại ...tái diễn duới ánh sáng  mặt trời . 
                                     Rồi  không lâu sau đó, được tin Ông bệnh nặng và qua đời, để lại cho mọi người quen  biết, xa ...gần, thương tiếc và đau buồn . 
                                      Cuộc đời, y nghiệp, y đức của Ông vẫn mãi là  tấm gương sáng cho đám hậu sinh chúng tôi . 
                                                         *********************** 
                                     Thời  gian qua ....rồi cũng có lúc, như những đàn chim thiên-di quay về chốn cũ trong  1 ngày nắng ấm mùa Xuân, những người của mấy chục năm trước về thăm lại chốn cũ  , người thân . 
                                      Đà  Nẵng, Huế , trường Y, Bệnh-viện ...lần lượt hiện ra trước mắt những người đi  tìm lại một thuở đã qua mất. Những kỷ niệm vui buồn thời trẻ như còn mới nguyên  trong lòng mà cảnh cũ đã có quá nhiều thay đổi !!...Những thành phố lớn rộng ra  và hầu như không còn đất trống trong suốt chiều dài và chiều ngang của đất  nước, người ta tận dụng hết đất đai để sản xuất, trồng trọt , xây dựng...Nguời  ta đang hối hả theo kịp đà tiến của toàn vùng , toàn cầu để mong bắt lại thời  gian đã để mất và những cơ hội đã lỡ ... Muộn còn hơn không ... 
                                      Bao  nhiêu nước đã trôi qua sông Hàn , sông Hương ??. Nhìn những người trẻ nhanh  nhẹn ra vào Trường Y, Bệnh Viện ... như thấy lại chính mình ngày xưa, đã lo  lắng học hành, thi cữ , trực gác và lòng đã hy vọng vào tương lai . 
                                     Tận trong  đáy lòng, ai cũng hy-vọng vào 1 tương-lai tươi sáng của quê nhà. Cho dù hiện  tại có quá nhiều khó khăn chồng chất, thiên-tai dồn dập, bệnh dịch hoành  hành... Rất nhiều khó khăn trong bối cảnh chung của toàn cầu... 
                                      Những  gì đã xảy ra ở Việt Nam trong thời chiến tranh thì vẫn đã , đang và sẽ  diễn  ra ở những nơi khác trên thế giới ,  trên những đất nuớc khác, với những dân tộc khác,  với  màu  da khác ...bởi vì vẫn có những nguời  cầm  quyền không hề học bài học nào của lịch sử .. 
                                      Nhưng,  còn sống là còn hy-vọng, bởi vì quê-hương Việt Nam có 1 quá trình lịch sử lâu  dài phấn đấu, đã vượt qua những thời kỳ lịch sử đen tối nhất , bởi vì quê hương  có đông đảo những người con vẫn thầm lặng làm việc cần cù để đưa cuộc sống đi  lên, để cho những mơ-ước trở thành hiện thực ... 
                                     Lời Vua  Salomon ( Thành Jerusalem, Israel ) gần   3.000 năm truớc  vọng về : 
                                      - " Tất cả mọi sự trên đời đều có một  thời tiền-định . Một thời sinh ra, sống, và 1 thời để chết . Một  thời gieo  trồng, 1 thời gặt hái. Một thời phá tán, một thời xây dựng. Một thời hủy diệt,  một thời hàn gắn. Một thời khóc, một thời cuời . Một thời yêu, một thời ghét .  Một thời lặng thinh, một thời lên tiếng. Một thời tìm kiếm, 1 thời buông trôi .  Một thời góp nhặt, 1 thời buông bỏ . Một thời chiến tranh, một thời hoà bình  ... 
                                      Tất cả  đều quy về 1 nơi ...Tất cả đều từ đất bụi mà ra, và sẽ trở về với đất bụi  ..." 
                                     Có phải  chúng ta, đã qua đuợc thời chiến tranh huỷ diệt tàn phá, may mắn đang sống  trong thời hoà bình hàn gắn xây dựng , truớc khi đi về cõi tiền định ....?? 
                                    LÊ T.L.                                    |