Lê Bá Dũng  
                                    (phần II, tiếp theo “Mãi mãi… không quên, phần I) 
                                    Bài này tôi muốn viết lên để các bạn xem như một câu chuyện  kể của một người bạn lâu ngày gặp lại, kể về những gian nan lận đận, ít tiếng  cười mà nhiều nước mắt. Tôi muốn nói những sự thực mình đã trải qua trong chuỗi  ngày đã sống trong “Thiên đường Cộng Sản Việt Nam”. Dầu câu văn không được trau  chuốt, vì mình không phải là văn sĩ, nhưng tất cả là sự thật, có gì nói nấy. Hy  vọng “mua vui cũng được một vài trống canh” trong quãng đời tị nạn. 
                                    Lâu lâu cũng có một đoạn “bình lựng” ngắn của “Mao tôn Cương  dởm” như là thêm mắm thêm muối. Chữ “tôi” được dùng nhiều, nhưng là cái tôi bị  bầm dập, đá lên đá xuống, không phải cái tôi của câu “Le moi est haïsable”. 
                                    Ðược thả về 
                                    Sau hơn 2 năm rưỡi trong trại tù C.S, một buổi sáng Chủ  nhật, không phải là “một buổi sáng đầy sương thu và gió lạnh” như bài văn lúc  học tiểu học, tôi vẫn nghĩ là một sáng như mọi Chủ nhật, một số anh nhờ bạn bè  “gọt” tóc, người khác đem áo quần ra vá lại, đắp lên những chỗ đã rách bươm, kẻ  khác đem đường đậu ra nấu chè gọi là bồi dưỡng, vài anh xách lon “gô” nấu nước  chè hay café làm bằng cơm khô rang cháy uống cho đỡ nhớ. Phần tôi thì “lương  thực dự trữ” đã cạn từ lâu. Mấy hôm trước trong lúc đi sửa nhà bếp cho một tên  cán bộ C.S, thấy một bà vợ cán bộ mang một số thịt nai mà người chồng vừa săn  được lúc tối đem bán. Tôi đã mua 1 miếng, về làm kiểu beefsteak mời anh Ðại úy  Thạnh và 1 người bạn cùng ở tiểu khu Lâm Ðồng, vì họ đã mời tôi ăn chè trước  đó. Lâu quá, được ăn miếng thịt, quá đã. Tôi đang ngồi đánh cờ tướng với người  bạn dưới cái chái làm trước dãy nhà tranh mà tổ chúng tôi đang ở, thì một người  bạn ghé vào nói to: 
                                    - Ê, Dũng! Mày có tên được thả về đó. 
                                    Tôi vẫn ngồi yên và theo dõi nước cờ, tuy tai đã nghe. Nhưng  ở đây, đã nhiều lần một số người phao tin người này người nọ được thả về, sau  đó không có gì xảy ra cả! Ở tù, ai cũng mong có ngày được thả ra, nên có người  bày ra trò phao tin thất thiệt, vài người mắc bẫy, về sửa soạn nhưng sau đó vẫn  như cũ, thế là đám phao tin được một trận cười thú vị! 
                                    - Ê! Tau nói thiệt đó mà. 
                                    Tôi vẫn ngồi bình tĩnh và tiếp tục đánh cờ. Anh bạn đó bỏ đi  khi thấy tôi không tin. Nửa giờ sau, anh tổ trưởng ghé lại và nói với tôi, tay  anh cầm một tờ giấy: 
                                    - Anh Dũng! Anh sắp được thả về. Sửa soạn đồ đạc và ghé tổ  phó lãnh 3 ngày gạo để tập họp ra 1 trại khác trước khi về. 
                                    Bây giờ tôi mới tin là mình sắp được thả về. Tôi vội vào dãy  trại đang ở, thu dọn đồ dùng đem về và gặp vài bạn thân để họ cần nhắn gì vợ  con ở nhà; gặp Hường (Trần Ngọc Hường - Đại úy Trưởng phòng 4 Tiểu khu Bình  Thuận - đã chết ở San José) để lãnh gạo và lấy lại số tiền nhỏ mà trại đã giữ  rồi ra tập họp gần cổng trại để ra một trại khác gần đó. 
                                    Chúng tôi được dẫn đến một nơi cách trại cũ 500m. Trại này  chỉ là 2 dãy lều bằng cây lợp tranh, không có vách và rào sơ sài bằng một vòng  kẽm gai. Chúng tôi gồm khoảng 20 người bắt đầu tắm gội, cắt tóc cho nhau và  chung gạo nấu ăn qua ngày. 
                                    Hôm sau, 1 cán bộ đến và đem theo một ít đậu phụng da cá,  kẹo thèo lèo. Ngoài số kẹo và chè (do trại phát đường và đậu), chúng tôi còn  được “ăn” thêm bài học Chính trị mà chúng tôi đã nghe phát ngấy. Qua hôm sau,  khoảng trưa chúng tôi được phát “giấy ra trại”. Tôi nhìn qua tờ giấy và nhận  xét:  
                                                                          - Ngoài phần tên họ, đám C.S ghi 3 chữ “Tù tàn binh”. Lúc ở  trong tù thì họ nói: “Các anh không phải ở tù, chỉ là cải tạo viên”, và mỗi lần  ai nói chữ tù binh là bị kiểm điểm bở hơi tai. 
                                                                          - Họ dùng chữ “tạm tha”. Lạ lùng thật! Vậy là ra ngoài mà  còn mang cái thòng lọng quanh cổ.  
                                    Anh em túa ra đường, kẻ phương Nam, người phương Bắc. Đường từ trại  ra ngoài Quốc lộ 1 vắng vẻ, mặt đường đầy đá sỏi, hai bên gồm những bụi gai  thấp xác xơ. Quốc lộ 1 cũng vắng tanh. Khi bắt được xe đò chạy về Phan Thiết,  tôi bước lên xe, đám hành khách quay lại nhìn chúng tôi có vẻ dò xét rồi họ lại  cúi xuống chăm chăm nhìn giỏ đồ của họ. Không ai nói với ai một lời. Nhìn những  nét mặt u buồn, cam chịu, quần áo mặc cho có và nét ốm o xo bại, tôi nghĩ:  ngoài vòng rào ngục tù chúng tôi đã ở, là một ngục tù rộng lớn cho toàn dân. Đi  quãng 2-3 km tôi thấy nên vất cái lon “gô” xách theo để uống nước và làm ngay,  như muốn tống khứ 1 dĩ vãng đen tối như màu cái “gô” đã theo tôi lâu ngày. 
                                    Đường vào nhà tuy gần mà như thật là xa vì mong gặp lại  người thân. Hơn 2 năm rồi chớ ít gì! Bước vào tôi chỉ thấy bà nhạc đang may vá,  mặt xoay vào trong và 2 con nhỏ đang lẩn vẩn quanh đó. Các con có ốm đi nhưng  không đến nỗi nào. Tôi vội ôm 2 con vào lòng và hôn lên đầu chúng, lòng vui  không kể hết sau thời gian dài mong nhớ. Tôi cũng nôn nóng gặp lại vợ mình, nên  khi biết bà xã đang nghỉ hè mà phải học tập chính trị tại trường Việt Anh, tôi  vội đi đón, lòng lo lắng không biết trong thời gian tôi ở tù, bả đã bị nhồi  nhét mấy chuyện học tập bá láp, lòng có thay đổi không. 
                                    Đến nơi, tôi nhờ vài người quen nhắn lại, vợ tôi ra ngoài  gặp tôi. Khi nắm lấy tay tôi, ánh mắt vui mừng, vợ tôi kéo tôi ra khỏi hội  trường vừa đi vừa nói: “Ra ngoài này nói chuyện kẻo họ để ý”. Tôi tin chắc vợ  tôi đã không thay đổi, cũng vẫn là người mà tôi tin yêu như trước ngày tôi đi  tù. Vợ tôi có ốm đi, mặt hơi xanh nhưng không đến nỗi nào, ánh mắt cương quyết  như sẵn sàng đương đầu với mọi trở ngại, tuy phải bận bộ quần áo ngắn- áo bà  ba, quần đen như thời cuộc bắt buộc như vậy. Niềm tin yêu khiến lòng tôi ấm lại  và nhủ thầm: sẽ tựa lưng nhau cùng sống trong hoàn cảnh khó khăn lúc đó. 
                                    Tôi ra về trước, và chọn con đường vòng vèo để nhìn lại cảnh  cũ. Tôi đi qua “cầu Mỹ” – cây cầu xây bằng gỗ do quân đội Hoa Kỳ dựng trước năm  1975. Các ghe xuồng lơ thơ, nhà cửa dọc bờ sông lụp xụp, tuềnh toàng. Dòng nước  đục ngầu đầy rác rến. 
                                    Tôi đi ngang trường Nữ Tiểu Học, nơi tôi đã đón con tôi đi  học về. Nhớ lại, bờ sông lúc xưa sạch sẽ, có kè đá mà tôi đã ngồi câu cá khi  được nghỉ học lúc còn nhỏ. Giờ đây bờ sông đã lở lói, đường đầy rác rến và mùi  rác rến, mùi cứt đái xông lên rùng rợn. Tôi vội rảo bước mau để tránh cái không  khí ngạt thở này. Rồi đi ven bên đường vườn bông có lầu nước cao, nơi đây khi xưa,  lúc tôi còn nhỏ, ba tôi thường đưa tôi đến đây để chụp hình. Tôi là đối tượng  để ông nhắm chụp nên phải ngồi ở hốc cây này, bờ đá kia…Bây giờ khi nhìn lại  những hình xưa lúc nào mặt tôi cũng nhăn nó vì không được chạy nhảy, la hét hay  chơi các trò chơi khác cùng lũ trẻ trong vườn hoa. 
                                    Nơi này là nơi tôi và 2 người bạn thời Trung học là Thức và  Tiến thường đến lớp trong những buổi học chiều, để ngấu nghiến các truyện Đầu  Lâu Máu, Con Tàu Máu hay truyện Tình báo phiêu lưu của Lê Minh Hoàng Thái Sơn.  Vườn hoa thật tiêu điều, bụi bặm, đầy rác rến…không còn là một góc thần tiên  như xưa. Rồi đến con đường dẫn ra nhà ga xe lửa. Bên phải, lề đường đã lở lói, đầy  giấy vệ sinh, phân, nước tiểu…Tôi nghĩ đến nguyên nhân vì đâu? Người dân ở Sài  gòn sau 1975, khi bị đánh tư sản, bị đưa đi kinh tế mới, đàn ông thì bị lùa vào  các “Trại Cải tạo”, người còn lại phải kiếm sống bằng cách ra Phan Thiết mua cá  nục, cá chuồn, nướng hay hấp sơ và bỏ vào các giỏ xách mang lên Đà lạt hoặc về  Sài gòn bán lại kiếm sống qua ngày. Họ phải sống ở vỉa hè nên đêm đến chỗ nào  thấy thuận tiện là tiêu tiểu. Cả một đoạn đường từ nhà Bưu điện đến Trạm Hỏa xa  hôi thối nồng nặc. Tôi vội bước qua phía trái, quá đường xe lửa, xuyên qua khúc  chợ và về nhà. 
                                    Các ngày sau, tôi đi lang thang sau khi trình diện đồn Công  an, tìm gặp lại một số bạn bè, người quen để tìm cách kiếm sống. Lên Bệnh viện  Phan Thiết, tôi gặp một Bác sĩ tên Huệ lúc này là Trưởng khu giải phẫu. Họ cho  biết tôi phải được “xã chế” mới được nhận đi làm. Anh này về sau bị một cái án  mà mọi người ở Phan Thiết đều biết. 
                                    Bác sĩ Huệ giết vợ. 
                                    Nguyên trước 1975, Bệnh viện được tăng cường với  đoàn Bác sĩ Đài Loan, nên có một cô người Tàu  lai Việt làm thông dịch cho đoàn. Nhà cô ở phố có tiệm buôn bán nên sau 1975,  muốn có một chân gọi là, hòng che chở gia đình khỏi bị tra hỏi lôi thôi, nên  xin tiếp tục làm văn phòng. Bác sĩ Huệ nhà ta thấy cô ta có chút nhan sắc bèn  tán tỉnh và hứa hẹn. Cô này trong thế kẹt phải ậm ờ. Chàng ta hẹn mướn một nhà  ngoài phố, sửa soạn nhà cửa. Sau đó trong một chuyến về Bắc, chàng đã đón người  vợ Bắc vào và “thanh toán” vợ bằng cách truyền dịch chuyền thật mau. Kết quả là  sau 2 ngày “điều trị” cách đó, bà vợ người Bắc theo “Bác” vê bên kia thế giới.  Chàng đánh điện tín báo tin vợ đã chết vì bệnh. Không ngờ nhà bên vợ lại có  “gốc bự”, con gái họ trước lúc đi còn mạnh khỏe nên họ nghi ngờ. Một thời gian  ngắn sau, 1 “xe con” đưa đoàn khảo nghiệm vào để điều tra về cái chết của cô  ấy. Đoàn này đã bốc mộ lên, và cắt cái đầu đem về Bệnh viện, bắt 1 y công bỏ  cái đầu ấy vào thùng và nấu lên. Ông y công già sau một thời gian ngắn canh cái  đầu đang nấu ấy, cứ nổi lên rồi chìm xuống, quá sợ, nên xin nghỉ việc. Chàng  B.S Huệ ở khu giải phẫu gần đó, nghe vậy cũng bỏ trốn vào Sài gòn. Sau khi liên  lạc với “người yêu mới” không có kết quả, chàng về lại nhà cha mẹ nhưng gia  đình cũng không nuôi nổi một tên đang bị truy nã nên chàng phải về trình diện  nhà nước ở Phan Thiết và tự thú cách giết vợ (truyền Sérum nhanh). Tòa án được  lập ra ở Bệnh viện và tuyên án tử hình. Anh chàng này tôi có gặp khi ở tù lần  thứ II trong trại 1. Khi anh ta bị tuyên án tử hình thì được giải ngay vào khu  xà lim phòng 5 (khu biệt giam). Về sau khi tôi đã đi các trại khác thì nghe đâu  anh ta được giảm án xuống chung thân rồi 20 năm vì anh đã có công với Cách  mạng. Sau này thì tôi không biết. 
                                    Thợ đụng. 
                                    Những ngày đầu tôi mới về, vợ tôi thấy tôi hơi mập. Nhưng đó  là do chứng phù thũng. Được ăn uống đầy đủ vài hôm, người tôi ốm bớt lại. Sau  3-4 ngày, cảm thấy tương đối lại sức, tôi liên lạc với một số bạn bè để kiếm  sống. Gặp lại anh Cảnh và anh Nhơn - người anh của Cảnh, nguyên là một nhà thầu  xây cất nhỏ trước 1975, chúng tôi làm thành một toán sửa chữa nhà cửa. Vì đám  Việt cộng tịch thu nhà cửa của dân, của các cơ quan thuộc chính quyền cũ và cần  sửa lại, nên chúng tôi có việc làm lai rai.  
                                    Lúc sửa căn nhà trên đường Trần Hưng Đạo gần Cầu mới phải  quét vôi, xây thêm nhà bếp hay chuồng heo (?) ở tầng 2, đóng trần nhà… đang làm  việc, thì có 1 toán 3 tên V.C mang túi đeo vai vào và bình phẩm:  
                                    - Lúc trước có ván ép đo Mỹ làm, nó ép cây lấy nước và xác  thì làm ván ép. 
                                    Tôi không biết đám Mỹ ép lấy nước từ cây để làm gì. Bí mật  quốc phòng chăng? Suy nghĩ của bọn này thật là ngây ngô. 
                                    Những miếng ván họ cung cấp để đóng trần nhà rất dày (khoảng  2cm) và nặng, không thích hợp để đóng lên trần, nhưng đã là lệnh, thì phải tuân  theo. Khi chúng tôi sửa chữa nhà ở Vĩnh Thủy, thuộc Ty Xã Hội cũ, cũng là những  việc thường như tô chỗ vách lủng, sửa các cửa hư, quét vôi, đóng trần nhà…  Trước khi đóng trần, phải bào các miếng ván. Thời đó danh từ “bám” rất thường  dùng. Một ông bạn đang làm bỗng nói:  
                                    - Ai ở đây cũng 2 bám. Riêng anh Dũng phải 3 bám. 
                                    Rồi cắt nghĩa: 
                                    - Mình phải bám bào nầy, bám ván này. Còn anh D. phải thêm  một bám nữa, đó là bám dăm bào (vì tôi mỗi ngày kiếm dăm bào về cho vợ tôi nhúm  bếp). 
                                    Rồi một ngày lúc chúng tôi đang nghỉ xả hơi, bồi dưỡng bằng  1 nải chuối, phì phèo thuốc rê “bốc lăng xe”, có 3 con mụ V.C Bắc kỳ rặt ra chỉ  chỏ, khi thấy đám tôi cười đùa bèn nói: 
                                    - Các anh sung sướng nhỉ! Các anh lao động chân tay nên về  nhà tắm rửa ăn uống xong là ngủ nghỉ khỏe. Chúng tôi lao động trí óc mệt lắm,  không ngủ được, khổ thế! 
                                    Anh Nhơn đứng gần đó thấy trái tai gai mắt quá, vụt nói  ngang: 
                                    - Các cô không biết chớ! Anh kia (vừa chỉ tôi) là bác sĩ,  anh nọ (chỉ anh Châu) là Trung tá Không quân. Hai anh đứng gần là giáo sư Trung  học ở đây. Em tôi là sĩ quan. 
                                    Ba mụ kia nghe xong, ngó nhau và vội rút về phòng.  
                                    Tôi cũng ghi tên vào 1 Hợp tác xã kéo lưới rùng để làm vào  những ngày không có việc và cũng để mua lương thực hằng tháng. Chúng tôi là một  toán “thợ đụng”, tức là đụng gì làm nấy. Nghe báo cần xuống một xe xi măng, cả  toán lãnh ngay. Và ngày hôm đó ê ẩm cả người. Có lúc bốc dỡ xuống 1 xe gạch trên  đường phố tay sứt xể vì không có bao tay che chở (V.C gọi là bao tay bảo vệ)  thì bà xã tôi đạp xe đạp ngang qua và dừng lại, thấy chúng tôi đang khiêng vác  gạch nặng nhọc, bả đứng gần đó và khóc. Tôi vội khoát tay cho bả ra về, lòng  thầm nhớ câu: “Gặp thời thế, thế thì phải thế”. Hàng tháng cũng chia nhau mỗi  người được từ 90-120 tiền mới (1 đồng mới = 500 đồng cũ) 
                                    Tứ bề thọ địch 
                                    Tuy tôi cố gắng làm việc để giúp bà xã trong thời buổi quá  khó khăn nhưng lúc nào cũng thấy bị theo dõi, dò xét. Hàng tuần phải đến đồn  công an đem theo tập vở ghi việc làm hằng ngày. Hai ba tôi phải đến họp ở khóm,  trong ánh sáng lù mù do 1 ngọn đèn dầu để trên bàn từ đàng xa, phải nghe tên  khóm trưởng tên Xiêm, chuyên bán chiếu dạo đọc ba cái báo cáo đôi khi không  dính dáng gì đến khóm cả. Một bữa chiều đang đi làm về, tôi thấy mấy bà xúm  quanh 1 cái rổ thịt heo làm lậu, tôi vội mua khoảng 200gr cho gia đình. Đằng  sau lưng mình, tôi nghe tiếng mụ Tám Kiểu (mụ này là Tổ trưởng Tổ phụ nữ trong  khóm): 
                                    - Chà! Đi học tập về mà còn muốn ăn uống ngon quá há!  
                                       
                                      Giọng mụ lúc nào cũng the thé, lúc nào mụ cũng rình mò, dò  xét để báo cáo. Tôi nghe mà giận tràn hông, nhưng ráng nhịn.  
                                    Một buổi xế chiều, khi tôi bước về nhà, đứa con gái nhỏ của  tôi vội nói: 
                                    - Hồi nãy có ông công an khu phố hỏi con hồi hôm ba làm gì  mà thức khuya vậy. Con nói ba đọc sách. Rồi ổng hỏi: “Đọc sách gì?”. Con trả  lời: “Ba tôi coi cuốn sách dày ở trên bàn đó. Chú có muốn coi không, cứ đến  xem”. Sau đó ông bỏ đi.  
                                    “Được” đi lao động  nghĩa vụ Xã Hội Chủ Nghĩa 
                                    Quãng 2 tháng sau khi được thả về, trong một buổi tối họp  khóm, tôi thấy một đám người lố nhố ở bậc thềm cao sau cái bàn bắt đầu đọc danh  sách một số người trong khóm phải đi lao động nghĩa vụ 15 ngày. Khi đọc đến tên  tôi, tôi đứng lên và cho biết tôi còn bị quản chế và chưa lên ký. Hai ba thằng  gồm bọn 30-4, bọn xu nịnh lăng xăng kiếm điểm la to lên:  
                                    - Làm biên bản gấp! Làm biên bản gấp! Phải ký ngay! 
                                    Khi bọn đó gọi tôi lên ký biên bản, các người xung quanh  nhìn tôi có vẻ ái ngại: tôi đang mắc 1 cái tội quá nặng. Tôi bình tĩnh đi lên  ký và về chỗ ngồi xuống, tự nhủ: có gì mà phải sợ một đám lau nhau theo đóm ăn  tàn, lúc nào cũng hống hách ra vẻ oai quyền. Sáng hôm sau, đến đồn công an, họ  cho biết cứ đi lao động. Tôi về sửa soạn đồ ăn, quần áo đem theo để đi 15 ngày  lên vùng Đức Linh. Rồi ngày đi lao động XHCN cũng đến. Tất cả tập họp ở phường,  dồn lên xe và đến 1 cánh rừng ở Đức Linh, cách nhà dân cũng 5-6Km để phát quang,  đón dân sẽ lên kinh tế mới. Chiều hôm ấy, tôi đến nơi chỉ kịp giăng cái võng  giữa 2 cây, giăng mảnh nylon ở trên để qua đêm vì hôm sau đi làm ngay. Cả một  đoàn người ở 1 triền đồi, muốn có nước uống và nấu cơm phải xuống dưới dốc. Tôi  sống như vậy ngày lại ngày, nhưng về sau nghĩ cũng giật mình vì ở đây quá đông  người, vấn đề vệ sinh rất thiếu thốn, không có cầu tiêu, lúc cần là lấy cuốc  đào lỗ để đi. Rồi khi trời mưa, chất thải chảy xuống dốc chỗ lấy nước. Thật là  rùng rợn. Ngày đi làm là phải đốn cây, dọn rừng. Đêm về sau khi nấu nướng, ăn  uống qua loa, tôi lên chiếc võng nằm tòn ten giữa rừng lạnh giá. May mà không  bị bệnh gì suốt thời gian lao động XHCN. Thật là trời thương.  
                                    Ách giữa đàng… 
                                    Đến một hôm mà tôi cứ nhủ thầm là ngày định mệnh. Thấy vỏ xe  Honda đằng trước bị xẹp, tôi dắt đi vá. Đến 1 cái “quán” vá vỏ xe thì gặp một  bác là cha 1 nữ Quân nhân nguyên trước cùng làm ở Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch,  ông ta ở sau chòi đó. Ông ta mời tôi vào nhà uống nước. Đằng bàn bên kia có 4-5  người đang ngồi nói chuyện nho nhỏ, tôi nhận ra Thanh, Trung sĩ Y tá Quân y,  trước làm ở Trại ngoại thương Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch. Tôi giơ tay chào.  Khoảng 3-4 ngày sau, vào một buổi chiều trời đang mưa lâm thâm, anh Thanh này  đến nhà tôi, kéo tôi về phía sau bếp, móc ra một tờ giấy nhỏ, rồi nói với tôi:  
                                    - Em ở trong Tổ chức Phục quốc, mời B.S tham gia.  
                                    Nhìn tờ giấy có cờ vàng 3 sọc đỏ, tôi đã thấy lạnh người.  Tôi nói ngay: 
                                    - Tôi được thả về đây chỉ mong làm việc giúp đỡ gia đình.  Tôi mong muốn sống yên thân và không tham gia chính trị gì hết. Anh thông cảm. 
                                    Anh này nói: 
                                    - Bác sĩ không tham gia thì thôi cứ ở yên đó. Để tụi này  làm. 
                                    Chuyện này sau một thời gian ngắn rồi cũng mờ nhạt trong trí  tôi vì đang phải làm việc nặng nhọc hằng ngày. Mỗi lúc kiếm có tiền là tôi nói  vợ tôi mua gạo từng bịch nhỏ đem về bỏ vào cái lu. Cái đói cứ ám ảnh mỗi ngày,  tôi chỉ nghĩ làm sao có được lu gạo đầy, 2-3 chai nước mắm là bớt lo gia đình  đói ăn. Tôi cũng đã đóng 1 cái chuồng nuôi cặp thỏ. Hằng ngày các con sau giờ  học đi quanh xóm cắt rau muống biển để cho thỏ ăn. Mỗi chiều đi làm về thấy con  bé nhà tôi đi khấp khểnh trên đôi guốc gỗ nhỏ đằng xa, vừa xách một giỏ đầy rau  muống biển, tay kia cầm con dao nhỏ, thấy thật cảm thương! 
                                    Tổ chức “phản động”  hay CIA 
                                    Gần cuối tháng 4-1978, tôi được giấy triệu tập tại phường  Phú thủy. Đến nơi chỉ thấy 7 người, tôi là người có cấp bậc cao nhất (Đại úy).  Tên Chủ tịch phường, mập như con heo, mặt bành bành, vào và nói dông dài về  chuyện phải đi kinh tế mới để xây dựng XHCN. Mọi người phải ký “đồng ý tình  nguyện xung phong đi Kinh Tế Mới”. Đến phiên tôi, tôi từ chối. Tôi đã nói: 
                                    - Tôi được cho biết, lúc ở trại Cải tạo, trước khi thả về  các sĩ quan đã phải ký giấy đồng ý đi KTM. Còn tôi thì thuộc thành phần kỹ  thuật nên không cần ký. Tôi đã lên Bệnh viện và họ cho biết sẽ thu dụng khi nào  được trả quyền Công dân. 
                                    Tên Chủ tịch phường đạp bàn dọa nạt, nói rằng tôi ở đây đã  âm mưu vượt biên với 1 anh Trung úy tên X. Tôi cãi ngay: 
                                    - Tôi không biết anh ấy. Tôi cũng không biết nhà anh ấy. Tôi  muốn gặp ngay anh ấy để đối chất. 
                                    Tên Chủ tịch phường cứng họng, và tôi ra về. Hai hôm sau,  tôi nhận được giấy mời ra công an phường vào lúc 2g chiều. Tôi gặp tên công an  tên Kiệm, mặt còn non choẹt tuổi cỡ con tôi, vẻ nó xấc láo, kênh kênh. Nghe nói  lúc trước đi học, tên này thường xếp vở đút túi sau, học hành chả ra gì nên bị  đuổi và nhảy núi sau đó. Tên Kiệm chỉ tôi ngồi ghế chờ. Tôi ngồi chờ trong  phòng công an từ 2 giờ đến 6 giờ chiều. Tên này vẫn không ra “làm việc” và nằm  ở phòng kế đó. Tôi vào yêu cầu mấy lần để được “làm việc” ngay vì chưa ăn cơm  chiều. Nó vẫn không ra. Quãng nữa giờ sau tôi nói to: 
                                    - Anh không làm việc thì tôi về. 
                                    Tôi bỏ ra về ngay sau đó. Hôm sau, tên Kiệm này đi cùng 2  tên khác đến nhà tôi mời tôi lên phòng công an “làm việc”. Lúc đến nơi, nó dẫn  tôi ngay vào 1 phòng trống và giam tôi vào đó. Khoảng chiều, nghe tiếng mở cửa,  tôi ngồi dậy và thấy 1 công an dẫn con tôi vào để đưa cơm. Nhìn mặt đứa con gái  lớn của tôi đang xanh lại vì lo lắng, tôi thật chạnh lòng. Tôi chỉ nói được: 
                                    - Nhắn mạ đừng lo lắng, ba vẫn bình yên. 
                                    Tôi ăn một ít vì còn lòng dạ đâu mà ăn, rồi viết vài hàng  với 1 tờ giấy nhỏ nhét dưới miếng cơm còn lại. Cửa mở ra để con tôi đem “cà  mèn” ra về. Tối hôm đó, tôi không ngủ được, trằn trọc lo cho gia đình tức giận  vì thấy cả 1 đám vô học muốn chứng tỏ uy quyền, áp bức người dân. Sáng hôm sau,  tên Kiệm dẫn tôi ra “làm việc”. Nó ngồi và bắt đầu nắn nót viết 1 biên bản dài  với đại ý: Tôi đã vi phạm pháp luật nhà nước vì đã bỏ ra về. Nó bắt tôi ký. Tôi  cầm lên xem và viết ngay bên cạnh sự việc bắt tôi chờ mà không làm việc từ trưa  đến chiều, tôi chưa ăn cơm chiều, nên tôi phải về và không vi phạm điều gì cả.  Rồi tôi ký tên. Tên Kiệm cầm lên xem và xé bỏ. Sau đó nó nhốt tôi lại. Quãng 1  giờ sau, tôi được kêu lên với sự hiện diện của tên trưởng phòng công an và tên  Kiệm. Tên trưởng phòng công an nói: 
                                    - Anh nói anh không vi phạm điều luật gì à? Chính anh đã vi  phạm điều luật số…ngày…về việc thành lập đồn công an.  
                                    Rồi tôi bị tống giam. Sáng hôm sau, chúng thả tôi ra. Ngay  tối hôm đó, khoảng 12 giờ, tôi đang ngủ thì nghe tiếng đập cửa và tiếng nói: 
                                    - Mở cửa để công an xét hộ khẩu. 
                                    Cả nhà đều thức dậy, tôi ra mở cửa thì thấy lố nhố cả 6-7  tên công an. Chúng bảo tôi lên đồn công an có việc. Tôi thay áo quần, lấy thêm  một miếng vải dày làm mền và đi theo chúng. Vợ tôi vẻ lo lắng ra mặt, các con  tôi thì hoảng sợ. Tôi chỉ nói: “Đừng lo” và ra đi với chúng. 
                                    Chúng dẫn tôi đến phòng đợi đồn công an và bỏ tôi ngồi một  mình ở đó, rồi kéo lên cả tầng trên. Trong khi đó 1 con nữ công an tên Sáu cầm  cái ghế đẩu ra ngoài hiên trước ngồi làm bộ ngó lên trời mà thật ra để canh  phòng lỡ tôi có chạy thoát thân. Quãng nửa giờ sau, tên Trưởng đồn công an và 1  tên nữa quần áo chỉnh tề với đủ cả quân hàm và nón, đi xuống, bắt tôi đứng dậy  và đọc lệnh bắt khẩn cấp vì: “Tham gia trong Tổ chức phản động, âm mưu lật đổ  Chính quyền Cách mạng”. Tôi nghe mà giận run người. Vừa được ra tù một thời  gian, tôi chỉ mong kiếm việc làm để giúp vợ nuôi bầy con còn nhỏ. Bây giờ lại  bị xô vào hoàn cảnh này! Thật là “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”. Tên Trưởng  đồn bắt tôi quay lưng lại và cột 2 ngón tay cái lại với nhau, xong giao cho 1  toán 2 người với súng ống “tận răng”, đưa qua trại giam số I gần đó. Khi đến  nơi, tôi ngồi xệp xuống bậc thềm chờ đợi vì đã quá sức mệt mỏi và mất ngủ. Sau  khi ghi tên tôi vào 1 cuốn sổ, đám công an trại giam dẫn tôi đi vòng vèo đến 1  dãy cuối trại, rồi mở cửa ra: đây là nhà 5 biệt giam. Trong ánh sáng lờ mờ với  1 ngọn đèn điện cho toàn dãy, mùi mồ hôi, mùi xú uế nồng nặc xông ra cùng hơi  nóng. Chúng mở dây cột tay tôi và đẩy tôi vào. Sau một hồi “điều tiết” đôi mắt  trong tối tăm, tôi nhận ra một người đã có sẵn trong phòng. Ông này sau khi  biết về tôi chút ít, lịch sự giúp tôi trải tấm vải ở phần dưới bục để nằm nghỉ.  Tôi cố gắng để chân xa cái “bô” nhựa đựng tiêu tiểu. 
                                    Sáng hôm sau, tôi thấy phòng giam này rộng khoảng 2m x 2m có  một cái cửa gỗ dày để ra vào với 1 lỗ nhỏ ở giữa để đưa thức ăn. Tường đằng sau  có 1 khoảng nhỏ ở trên cao, khoảng 20 x 20cm với song sắt to. Khu giam này gồm  2 dãy phòng giam đâu mặt nhau với hành lang ở giữa. Cuối dãy giam bên trái của  phòng tôi là các phòng biệt giam mà tù nhân bị còng, tiếng loảng xoảng kéo  thanh sắt ra cho tù làm vệ sinh hằng ngày. Tôi thì không bị còng. 
                                    Mỗi buổi sáng, 1 anh tù gánh phần ăn sáng và dừng lại trước  các phòng mở ngăn nhỏ và đưa vào đồ ăn gồm cơm độn khoai, sắn và 1 ít muối. Sau  đó, 1 tên công an tuần tự mở phòng để các tù nhân ra làm vệ sinh (tức là việc  đổ phân và nước tiểu) rồi tắm, giặt nhanh và vào lại phòng. Buổi trưa và chiều,  họ phát đồ ăn nhiều hơn một ít so với buổi sáng. Trời nóng, bên trong rất khó  thở, tôi ngồi sát cửa để đưa mũi hít không khí hơi thoáng một chút nơi hành  lang. Tôi bắt đâu vạch 1 gạch trên tường để biết mình bị giam bao nhiêu ngày từ  đây. Tôi cũng cố gắng để cử động tay chân trong khoảng không gian chật hẹp, cầu  nguyện và suy nghĩ, nhưng lòng rất buồn, nghĩ đến vợ con ở nhà gần chỗ mình bị  giam quãng nửa cây số, lắng nghe tiếng sinh hoạt ở ngoài, tiếng gà gáy buổi  sáng, tiếng xe cộ lao xao… 
                                    Nhiều lúc tôi đã khóc vì buồn cho thân phận. Sao lại ra nông  nỗi này? Trước đó đã có 2 người quen đến gặp tôi và rủ tôi, cho tôi đi vượt  biên cùng họ, và chỉ mình tôi thôi, vì họ cần 1 người nói được tiếng Anh và săn  sóc về y tế ở trên ghe. Tôi nửa muốn ra đi nửa muốn ở lại. Sau cùng tôi không  nhận lời vì họ chỉ cho một mình tôi đi và cũng vì lòng tôi e ngại lúc bấy giờ  có nhiều cuộc gài bẫy của đám Việt cộng để bắt người, mình phải không tin ai  hết trong một xã hội đấy bất trắc, đe dọa. Và tôi cũng nghĩ là nếu đi được, thì  vợ con mình sẽ ra sao, làm sao sống nổi trong 1 xã hội đầy bất công, phân  biệt…Tôi và vợ tôi làm việc mà còn thiếu thốn mọi bề, nếu còn lại 1 mình bả  phải nuôi 4 đứa con, thì làm sao mà sống nỗi! 
                                    Chuyện bùa chú 
                                    Tôi ở cùng phòng giam với 1 ông - tạm gọi tên X. - bị giam  vì làm tài xế cho 1 chuyến vượt biên của Nha sĩ Phan Ngọc Cát (tôi sẽ kể sau).  Ông cho tôi biết rằng trước năm 1975, ông là Cảnh sát trong toán cấp thẻ căn  cước của Đô thành Sài gòn, rồi bị ra tòa trong 1 vụ làm căn cước giả nên đã ở  tù (trước 1975). Khi Sài gòn đã mất, trong khi đi về thăm 1 bà vợ nhỏ ở tỉnh  Vĩnh Long, ông thấy 1 xe Jeep đậu trước nhà với mấy lính V.C ra vào. Lúc đến  nhà – căn nhà này ông đã mua cho bà vợ nhỏ - một sự việc mà ông ta không thể ngờ  tới: “bà vợ” xuống xe cùng một tên V.C mà bà ta giới thiệu là chồng vừa từ vùng  “giải phóng” về. Rồi bà ta gom tất cả quần áo của ông X. bỏ vào cái bao đưa cho  ông ta, dặn đừng trở lại nữa. Bả cũng nói với ông chồng V.C: ông X. là người  quen ở trọ trong nhà trước 1975. Sau đó ông X. sống 3-4 ngày ngoài đường, cứ  mong ước gặp mặt bà vợ cũ để thỏa lòng mong nhớ. Một bữa kia ông X. gặp 1 ông  già, vừa nhìn qua vẻ mặt của ông X., ông ta nói ngay: 
                                    - Anh bị mắc bùa rồi! Nặng lắm. Tôi sẽ giải cho anh nếu anh  muốn và theo tôi về nhà. 
                                    Ông X. theo ông già ấy về nhà. Sống tại đó 2 ngày. Đến ngày  thứ 3, trước khi ông X. trở dậy, ông già nói: 
                                    - Sáng nay tôi sẽ giải bùa cho anh, anh không được bước  xuống đất. Khi nào tôi nói làm gì, anh hãy làm theo.  
                                    Ông già ra ngoài sân sau giết 1 con dê con và lấy ít máu  trộn với ít rượu trong 1 cái ly nhỏ. Rồi sau khi đọc bùa chú gì đó, ông già  bưng vào cho ông X. uống ngay. Khi ông X. ngồi vào bàn, bất thình lình ông ta  đấm 1 cái vào sau lưng ông X. Một lát sau ông X. cảm thấy ngứa họng và khạc ra  một cục máu đen. Ông già cho biết ông X. đã được giải bùa nhưng không nhận tiền  thù lao. Kể từ đó ông X. không còn cảm thấy vấn vương gì “người tình cũ” ở Vĩnh  Long. Ông trở về Sài gòn. 
                                    Biệt giam 
                                    Trong thời gian bị biệt giam ở nhà 5, họ đã bắt tôi viết  kiểm điểm 4 lần. Mấy lần đầu, họ dẫn tôi ra 1 phòng bên trong để viết. Trong  lần thứ 3, tôi thấy lạ là họ đưa tôi ra 1 phòng ngoài cùng gần đường đi, để tôi  ngồi viết một mình. Chỗ tôi ngồi chỉ ngăn với đường cái bằng 1 sợi dây concertina.Tôi  nghĩ đây là 1 cái bẫy, nếu tôi muốn trốn họ sẽ bắt ngay, vì đã có người chờ sẵn  2 đầu, lúc đó tôi sẽ bị khép tội trốn trại trong khi bị bắt. Tôi vẫn khai việc  tôi đã làm trong thời gian được thả về trừ việc gặp tên Trung sĩ y tá Thanh.  Lần thứ 4, họ mới nói đến câu: Anh đã gặp ai? Có gặp tên Thanh không? Tôi khai  có gặp nhưng không nhận lời vào tổ chức của tên Thanh.  
                                    Sau 2 tháng ở trong trại biệt giam, tôi được chuyển ra nhà  7, là một nhà giam dài, 2 bên có 2 bục được xây cao lên để các tù nhân nằm,  ngăn cách bằng một khoảng thấp, rộng khoảng 1m. Cửa là một cái khung bằng sắt  đâm thẳng vào giữa phòng. Do đó đám cai tù tuy có vẻ đứng ngoài, nhưng họ đã ở  giữa phòng và có thể quan sát suốt cả phòng. Cuối phòng có một cầu tiêu tiểu.  Lúc tôi vào thì có một thanh niên người Chàm nghe nói bị bắt vì liên quan với  tổ chức Fulro (Front unifié de liberation des races opprimées). Em này được  giao nhiệm vụ phân chia chỗ nằm bằng 1 viên phấn vạch làm “ranh giới” cho các  tù nhân mới đến. Tôi nằm sát với 1 ông tên Thông San, gốc người Sông Mao, can  tội “đưa người vượt biên” (dẫn người đi vượt biên đi từ chỗ trốn này qua 1 chỗ  khác). Vì chỗ quá chật, nên tôi phải nằm quay đầu lại với ông Thông trên 1 cái  chiếu nhỏ rộng 80cm do vợ tôi gởi vào. Và tại đây tôi đã gặp nha sĩ Phan Ngọc  Cát. 
                                    Chuyện vượt biên dài  dài 
                                    Lần đầu tiên mới gặp anh Cát, đó là một ngạc nhiên cho tôi.  Anh rất cao lớn, râu rậm rạp, với một đám lông ở ngực, thêm 1 cái sẹo dài do lằn  mổ ở bụng. Sau nhiều dịp nói chuyện tôi được biết anh Cát thuộc gia đình giàu  có ở Sài gòn. Anh du học ở Pháp. Trong thời gian này, anh biết nhiều về hòa đàm  Paris năm 1972, có đôi lần anh gặp phái đoàn Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và  Nguyễn thị Bình, theo như anh kể lại. Ở Sài gòn, khi về lại Miền Nam, anh là cố  vấn cho Nguyễn Cao Kỳ và rất rành về “đá gà”. Anh đã gặp tai nạn do mìn nổ dưới  xe khi đi từ Vũng tàu về Sài gòn và đã được giáo sư Moulin mổ ở Bệnh viện  Grall. Anh bị bắt vào trại tù số I Thuận Hải do 1 vụ vượt biên bị bể. Nguyên  trước năm 1975, anh có 1 du thuyền bằng sắt và kẹt trong Club Nautique  Saigonais. Sau khi lo tiền bạc để lấy ra, cho sửa chữa sau mấy năm nằm ụ, anh  định đưa ra bờ biển Cà Ná để bốc người vượt biên. Đám người đi có nhiều nhân  vật tai to mặt lớn ở Sài gòn, ra chỗ hẹn bằng 1 xe hơi 50 chỗ do ông tài xế X.  lái (đang nằm ở phòng 5 biệt giam – đã kể trên) và 1 xe nhỏ đi dò đường. 
                                    Trước đó anh ta phái một đàn em, nguyên tốt nghiệp Quốc Gia  Hành Chánh, ra đón ở vùng đó. Anh này đi trước, ra đến bờ biển thì giả bộ đi  tắm và trải khăn nằm nghe Radio để chờ tàu. Toán công an biên phòng đi tuần và  bắt gặp. Sau khi tra hỏi, anh này khai hết nên cả 2 xe lớn, nhỏ chở người vượt  biên bị tóm toàn bộ. Nghe nói số vàng họ đem theo rất nhiều và về sau đám cầm  quyền ở Sài gòn ra, dẫn họ về Sài gòn, có lẽ tiếp tục “moi” tiền vàng để thả họ  ra. Cả 3-4 anh khi được đưa từ trại I lên trại giam Huy Khiêm cùng với tôi về  sau cũng được đám V.C ở Sài gòn ra đón về để “moi” tiếp. Trong lúc ở phòng 7  trại giam I, vào buổi trưa, tôi được thấy lại B.S Việt Cộng tên Huệ (đã kể ở  trên) sau khi ra tòa với án tử hình, được cho tắm rửa bên cái giếng trước phòng  7 tôi bị giam, sau đó bị còng và dẫn vào phòng biệt giam.  
                                    Rồi một đêm, trong lúc tôi đang ở phòng 7, cả phòng thức dậy  do cửa sắt mở để họ dẫn 1 đoàn 5-6 người vào. Trong ánh sáng mờ mờ, tôi thấy  như dáng người Thượng, nhưng nói tiếng Việt. Sáng ra mới biết họ là toán vượt  biên đi từ Long Xuyên. Qua câu chuyện kể, tôi biết được sự tình như sau: Lúc ra  đi họ đem theo đồ ăn, nước uống đầy đủ. Nhưng trong 1 tuần, ghe bị chết máy, họ  bị lạc và trôi dạt vào Hòn Khám (vì hình thù giống như 1 cái khám thờ, trên to,  dưới nhỏ do bị sóng nước bào mòn) gần đảo Phú Quý (đảo Hòn) thuộc Bình Thuận  cũ. Họ lên bờ ở đảo, đem theo nước và thức ăn. Nhưng những ngày đầu, không được  tiên liệu trước, các cô các bà đã lấy nước ngọt rửa mặt. Sau một đêm mưa bão,  tàu sát bờ bị đánh nát và chìm. Số nước và thức ăn hết dần. Tìm quanh không có  nguồn nước, một toán người lần mò tìm ra con đường leo lên nóc của đảo Khám rất  gian nan và nguy hiểm. Tại đây họ thấy rất nhiều chim và trứng. Họ giết được  một số chim để ăn sống, lấy trứng và xé áo nối thành sợi dây đưa xuống cho các  người ở dưới. Họ cũng tìm được 1 nơi có mạch nước nhỏ, phải đút 1 cây tăm vào  và nằm ở đó mút từng giọt nước. Họ ở đó hơn 10 ngày, 1 số chết được quăng xác  ra biển. Mọi người rất đói khát. May mà 1 chiếc ghe đánh cá đi ngang đó tấp lại  và đưa họ về đảo Phú Quý và họ được chuyển vào trại giam I Thuận Hải. Trong  toán này có 1 em nhỏ cỡ 12 tuổi, em này còn giữ được cặp mắt kiếng của ông cậu  là 1 thầy giáo đã chết và quăng xác ở biển. Quãng nửa tháng sau, người nhà ở  Long Xuyên xin cho về, và em ra về, đem theo cặp mắt kiếng ấy để thờ. Toán vượt  biên này, sau bao nhiêu ngày đói khát, ở ngoài trời trên đảo Khám đã thành  những người gần như dã nhân, đen thui, ốm nhom, da khô nhám, tiếng nói khào  khào, trong đêm họ nhập trại. Sau 1 tháng họ cũng lấy lại sức phần nào, tuy với  khẩu phần ít ỏi. Thời gian này, ông Thông Sang là người Tàu Sông Mao, vì quen  ăn cháo nên 1 bữa xin ghi tên được ăn cháo. Quãng 3-4 ngày sau, 1 con mụ cán bộ  y tế tên Tư khi thấy nhà bếp múc cháo cho ông Thông, bèn la lên: “Bệnh sao mà  phát cháo nhiều vậy?”. Từ đó, mỗi ngày ông Sang chỉ được phát mỗi ngày 2 lần  mỗi lần 2 chén cháo. Chịu không nổi cái đói nên ông Sang xin được ăn cơm lại,  dẫu là cơm độn khoai lang, khoai mì. 
                                    Rồi một hôm trong giờ tắm rửa, tôi lại thấy anh Cảnh lững thững  đi vào, “hành trang” là 1 gói nhỏ. Anh nhìn tôi cười buồn: Té ra, các sĩ quan  sau khi được thả ra, họ bị bắt lại gần hết trừ 1 người lái xe đường Phan Thiết  – Sài gòn. Nguyên do là ngay cái đêm V.C “hốt” Sĩ quan vào trở lại, vợ anh ấy  tức tốc nhảy xe vào Sài gòn và biểu anh ấy trốn luôn trong ấy. Đây là giai đoạn  khủng bố trắng khi V.C xua quân qua Cao Miên. Và “thành tích” bắt giam người ở  Thuận Hải cao hơn mọi nơi, được cờ luân lưu của Bộ Nội Vụ mấy năm liền. Từ đây,  “Thuận Hải” là tên gọi do 5 tỉnh sát nhập lại: Lâm Đồng, Tuyên Đức, Minh Thuận,  Bình Thuận, Bình Tuy, nhưng dân chúng đặt cho 1 tên mới là: Tỉnh Kinh Hải. Sợ  quá nên người ta tìm cách trốn chạy. Cả một làng Vĩnh Thủy, phần đông do người  Bắc di cư năm 1954 đến ở, phần lớn đã đi vượt biên, 1 phần bị đưa đi Kinh Tế  mới, số ít còn lại, họ bị đuổi đi chỗ khác. Rồi làng này trở thành 1 Trung tâm  do công an sinh sống để huấn luyện về ngành công an. Ở trong phòng 7 này, ngày  nào cũng có đám người vượt biên bị bắt đưa vào. Nhưng có 1 câu chuyện vượt biên  khá ly kỳ: Nguyên vùng Phú Thủy tôi ở có 1 ông tên “Năm Xe Ngựa”, khoảng 60  tuổi, sinh sống bằng cách chuyên chở người đi chợ bằng xe ngựa. Ông này gặp ai  cũng dùng roi quất ngựa, chỉ mặt và la to: “Âm mưu vượt biên phải không? Tôi  báo công an bắt bây giờ”. Ai cũng bực mình và một số người lo sợ vì thời gian  này ai cũng muốn ra đi. Cây cột đèn có chân cũng muốn đi nữa mà! Rồi một buổi  xế chiều, bà vợ ông này gánh 1 gánh đồ ăn, có cả rượu, bia… đem vào đồn công an  gần đó, nói nhà có giỗ, nhà chật mà muốn anh em vui vẻ thoải mái ở đồn, muốn  gia đình đền ơn các anh em công an lúc nào cũng giúp đỡ gia đình bà, nên chồng  bà biểu đem đến để chung vui với họ. Cả đám công an nhậu suốt đêm, đến sáng  khoảng 10 giờ, xóm đó mới đến báo cáo đồn công an: nhà “Năm Xe Ngựa” đã vượt  biên, bỏ lại căn nhà trống hoác. 
                                    Một vụ vượt biên khác xảy ra trước mắt đủ “văn võ bá quan”,  nhân ngày ra quân của Phường đánh cá, với cờ xí rợp trời, khẩu hiệu giăng đầy  để mở màn cho 1 mùa đánh cá sau mùa giông bão! Các ghe với bàn thờ, cờ xí giăng  từ đầu đến cuối, con nít, người lớn lên ghe đi 1 vòng gần bờ, bỗng một chiếc  ghe, ngay lúc đó tống hết gas chạy thẳng ra khơi, xịt khói đen mịt mù. Họ đã  đem theo vợ con, đồ ăn, thức uống dự trữ và dông tuốt. Hai ba ngày sau cờ xí,  bàn thờ với hình “Bác Hồ” trôi tấp vào bờ.  
                                    Tiếp đến là chuyện vượt biên ở Mũi Né. Một số người tổ chức  làm đám cưới, có 2 xe đưa rước từ Sài gòn ra, có cả giấy phép của Nhà Nước.  “Hành trang” của họ là mấy valise của cô dâu với quần áo mùng mền và những hộp quà.  Quần áo đoàn đám cưới lượt là, đẹp đẽ. Họ giết bò, giết lợn ăn uống suốt đêm,  có cả sự tham dự của đám quan chức nhỏ lớn của Mũi Né. Rồi ăn uống và say sưa  “dô” tới tấp và gần như gục tại chỗ. Sáng ra, cả nhà vắng hoe. Đám quan chức,  công an lục xét thì thấy ở các lều làm nước mắm, các lỗ lù đã được rút ra, nước  mắm chảy lênh láng. 
                                    Thật là tình cờ, ở trong trại I này, tôi được “tái ngộ” với  Linh mục Đỗ Bá Ái. Nguyên trước năm 1975, khi còn làm việc ở Quảng trị, có vài  dịp tôi dịp tôi đã gặp và quen với Linh mục Ái. Sau đó, khi đổi về Nam,  tôi không hề gặp nữa. Bây giờ, lúc đi ra vệ sinh và đứng thở hít khí trời, tôi  thấy 1 ông già mặt còn phương phi, nhưng tóc đã bạc hết, nói với tôi qua hàng  rào sắt: 
                                    - Bác sĩ, nhớ tôi là ai không? 
                                    Tôi không thể nhớ ra và đã trả lời: 
                                    - Dạ không. 
                                    Linh mục Ái nói: 
                                    - Tôi là Linh mục Đỗ Bá Ái đây. 
                                    Tôi thực mừng. Sau đó ông quăng qua hàng rào cho tôi 1 đồng  (1 đồng mới = 500 đồng cũ). Tôi nói tôi đã có rồi, nhưng ông bảo gởi tôi để mua  rau ăn thêm. 
                                    Âm thanh rùng rợn ban  đêm: 
                                    Sống trong trại I, vì đã quá quen nên hễ nghe có tiếng động  lạ là người tù biết có 1 cái gì đó đang xảy ra. Một hôm, quãng 3 giờ khuya, có  tiếng động ồn ào từ khu nhà bếp đưa đến. Người tù nằm gần bên tôi thức giấc cho  tôi hay: Họ sắp đưa đi bắn một người. Thật vậy, đám nhà bếp đã chuẩn bị nấu đồ  ăn sáng từ giữa khuya. Sau đó, có tiếng kéo thanh sắt còng chân vang lên. Tù  nhân bị còng tay lại và được dẫn đi. Họ được cho một phần ăn sáng (mà thực ra  ai còn lòng dạ nào để ăn!) và một ly nước chè, đôi lúc được hút 1 điếu thuốc.  Người tù bị tử hình được dẫn ra xe, ngồi giữa 1 đám công an đầy súng ống. Phía  sau chiếc xe chở tù là 1 cái xe kéo (remorque) chở cái hòm, để đựng… sau khi  mang ra trường bắn. Từ đây, hễ mỗi khi nghe tiếng động do nhà bếp nấu cơm khuya  và tiếng thanh sắt kéo qua cái còng trong đêm vắng là những tiếng động kinh  khủng đối với tôi: một ai đó sắp bị tử thần lôi đi! 
                                    Sống trong nhà 7 
                                    Thời gian này tôi rất khó chịu vì những cơn ngứa ngáy khắp  người: đầu thì đầy chí, thân mình đầy ghẻ do bị lây người nằm gần. May mà vợ  tôi đã tìm thuốc ghẻ và gởi vào cùng 1 cái lược dày, ngay khi tôi nhắn tin ra  ngoài, nhờ vậy mới đỡ. Một buổi sáng, vào tháng thứ 3 trong tù, khi đánh răng,  tôi thấy chảy máu răng. Biết là lượng Vit. C dự trữ trong người đã xuống thấp,  tôi gởi tiền cho toán nhà bếp để mua 1 trái chanh. Khi đã có trái chanh trong  tay, tôi xé và hít đến những tép nhỏ cuối cùng. Ngày hôm sau, chuyện chảy máu  răng hết hẳn. Có những em tù hình sự đói quá vì khẩu phần quá ít so với tuổi  đang lớn, phải lượm các vỏ chuối và nhai rau ráu. Có đứa được người nhà “thăm  nuôi”, vừa mới đem vào ban sáng một giỏ lát nào xôi, bánh mì, bánh ú, đường,  kẹo…đến tối là đớp nhẵn hết, trừ gói thuốc rê. Bụng căng phình, ngồi, nằm gì  cũng không được. Về sau nghe lời người khác chỉ bảo, nó phải vào cầu tiêu móc  họng để ói ra bớt. Có những thanh niên rất chai lì, không rõ bị tội gì thuộc  hình sự, ban sáng vừa ra tòa, chiều về mặt bầm tím. Hỏi ra nó nói:  
                                    - Lúc ông tòa tuyên án 17 năm tù và cho nói lời chót, tôi  nói: “xin tòa cho thêm 3 năm nữa cho đủ 20 năm”! 
                                    Sau đó nó bị đám công an lôi vô dần cho một trận. Tôi hỏi: 
                                    - Sao em gan vậy? 
                                    Nó nói: 
                                    -  Họ kêu bao nhiêu  thì mặc họ. Còn tui khi nào thấy thuận tiện là dọt. 
                                    Trong phòng giam này, gần như 4/5 là tù vượt biên. Ai lớ ngớ  ra Phan thiết mà không có giấy tờ cũng bị tống vào tù để xác minh giấy tờ lại.  Ngoài ra, có một số ít thuộc tù hình sự. Lại có 1 tên cán bộ Cộng sản, thuộc  ngành Lâm nghiệp bị tù vì “cố ý làm sai nguyên tắc, gây thất thoát tài sản nhà  nước” làm phòng trưởng phòng 7. 
                                    Chuyển trại 
                                    Ở trại giam này hơn 3 tháng thì tôi và một số người tù khác  được kêu tên ngồi ra ngoài hiên giữa và sửa soạn đi trại khác. Lòng tôi thật  buồn: nếu ở tù gần nhà, thỉnh thoảng vợ tôi còn vào thăm, cho biết tin nhà. Còn  một khi bị chuyển đi xa rồi, thì việc thăm nuôi là một gánh nặng cho vợ tôi,  chắc gì được vào thăm. Hơn 3 tháng xa nhà, tôi thấy trước mắt tương lai mù mịt,  sau lưng là kỷ niệm sống ngắn ngủi với gia đình, tuy có vất vả nhưng cũng tạm  ổn vì tôi và vợ đã lo cho các con không ngày nào phải bị đói, áo quần không đẹp  nhưng không đến nỗi rách rưới. Bây giờ, chắc hẳn những ngày về sau sẽ là đầy  những chuỗi ảm đạm, u buồn cho tôi và gia đình. 
                                    Cả đám tù nhân được dẫn ra xe, khoảng 40 người, bị chất lên  1 xe poid-lourd, loại xe để chở hàng hay trâu bò. Xung quanh xe bịt bùng, tấm  bửng sau làm bằng song sắt kéo xuống, phủ ngoài bằng 1 tấm bạt. Một số người  dòm xuyên qua mấy lỗ nhỏ, nói to lên: qua cầu Trần Hưng Đạo, qua rạp hát, đến  ngã ba Chữ Y…Chiếc xe chạy thẳng tiến đến đường đi Bình Tuy; khi qua Căn cứ 6  rẽ trái, đường rất xấu, dằn xóc liên tục, và đến 4 giờ chiều thì ngừng lại  trước cổng trại giam Huy Khiêm thuộc quận Đức Linh. Trời hơi mưa lắc rắc. Tôi  nhìn bên kia đường, thấy một toán người tù chỉ mặc quần đùi, da đen mốc, thân  thể ốm nhom, đang từ một con đường nhỏ tiến ra. Mấy người đi đầu vác 1 bó cuốc,  các người sau tay xách lon “gô”, tay xách áo quần. Trời đang mưa nên họ được về  sớm. Chúng tôi được dẫn vào lều dùng làm chỗ ngồi ăn. Đồ đạc mang theo được xếp  lên các bàn (tức là những miếng gỗ kê lên 4 chân chôn xuống đất). Rồi cả chục  tên công an áo vàng bắt đầu khám xét. Đám này là đám chuyên nghiệp nên mọi đồ  ăn đều bị thọc, quậy xem có gì lạ, quần áo thì măn mo từng cái lai, cái cổ…Sau  đó, chúng tôi được đưa vào 1 căn nhà dài, xây cao lên, mái ngói (mà về sau  chúng tôi được biết toàn bộ gạch bloc, ngói, cây…đều do tù làm). Cửa sắt bên  ngoài có 1 thanh gài kéo ngang và khóa lại bằng 1 ổ khóa. Trong phòng là 2 dãy  sàn 2 bên, có 2 tầng. Từ tầng dưới, có 2 cái thang nhỏ để leo lên tầng trên.  Tại đây tôi gặp lại một số anh em ở trong nhóm vượt biên của Nha sĩ Phan Ngọc  Cát. Những căn nhà được xây chắc chắn như vậy lúc tôi mới lên lần lần được tăng  thêm hơn 10 cái. 
                                    Các ngày sau, xong tiếng kẻng báo thức, các cửa sắt được mở  và cơm nước được phát, sau khi tù nhân rửa mặt, làm vệ sinh cá nhân. Cầu tiêu  là một dãy nhà dài có thùng phân ở dưới. Một tù nhân có nhiệm vụ gánh phân này  đổ xuống ao rau muống và sau này rau được cắt đem vào trại nấu cho tù ăn mỗi  ngày. Toàn trại chỉ có 1 cái giếng nước thật rộng, cỡ 8m đường kính với hằng  chục cái gàu đủ loại với sợi dây lòng thòng. Nước thì ri rỉ một ít dưới đáy. Ăn  sáng xong thì tù nhân sắp hàng ngồi chờ, điểm số nhận công tác và ra cổng đi  làm. Đi ngang cổng, có 1 vọng gác phải dở mũ ra chào, lúc về, ngang cổng, cũng  phải làm như vậy. Hễ đi làm xa thì được phát phần cơm trưa, để ăn tại chỗ, ngồi  đâu đó gần nơi là việc, đến chiều lại tiếp tục. Mỗi toán có 2 tên công an, súng  ống sẵn sàng đi kèm. 
                                    Gặp người quen 
                                    Hai ba ngày sau, tôi gặp lại anh Giáo, một người ở gần xóm  tôi. Anh chị ấy cùng đi dạy tiểu học, vì nhà ở gần đường đi nên có làm 1 cái  chái bán ít tạp hóa. Mỗi chiều anh hay chạy chiếc xe lam đưa khách. Các con anh  lúc rảnh thì chằm nón, chằm lá lợp nhà. Tôi hỏi anh sao lại bị bắt vào đây. Anh  cho biết: 
                                    - Anh nghĩ coi, mấy hôm trước thằng Hoàng “dẹo” (vì chân có  tật đi cà dẹo, làm phó ban an ninh phường) đến nhà tôi và nói tôi: “Anh nên  tình nguyện xung phong đi Kinh Tế Mới đi. Tôi đến đây để động viên anh. Trên đó  có đủ hết cả mọi thứ, nhà nước cấp nhà cho anh nè, rồi 6 tháng lương thực, lại  còn có sẵn trường cho con cái anh, bệnh viện nữa…” Tôi tức quá, giữ miệng không  được nên đáp ngay: “Anh nên xem lại thân anh. Anh ở đây có công việc gì đâu,  làm không đủ sống. Đi KTM tốt đẹp như vậy sao anh không tình nguyện xung phong  đi đi?!” Ba ngày sau thì tôi bị đưa vào tù và chuyển đến đây.  
                                    Tôi cũng gặp ông Hợi. Ông đã già, khoảng 60 tuổi, tóc muối  nhiều hơn tiêu. Nguyên là người ở Phú Quý và trước 1975 làm xã trưởng 1 trong 3  xã ở đảo này. Ông có 1 giọng nói đặc biệt nên mỗi khi đi làm cùng đám hình sự  trẻ, tụi nhỏ chọc ông cho ông chửi bằng giọng Phú Quý để cả bọn cùng cười thoải  mái. 
                                    Ngoài ra, tôi cũng gặp 1 ông tàu, nguyên là Bang trưởng 1  trong 5 bang người Hoa Kiều ở Phan Thiết. Hồi đó, Bang trưởng có làm gì đâu  ngoài mấy việc quan, hôn, tang, tế, nhưng cũng bị V.C bắt nhốt vào. Vê sau, tôi  nghe nói khi ông được thả ra, đám V.C lại đến nhà biểu ông làm lại Bang trưởng.  Ông đáp: “Hồi trước tôi làm Bang trưởng mấy ông nhốt tôi, bây giờ lại bắt tôi  làm chức đó, tôi không làm đâu, dẫu cho vàng tôi cũng không làm. Nếu mấy ông có  muốn thì bắn tôi ngay ở nhà này.” Đám V.C nghe xong vội rút lui. 
                                    Tôi còn nhớ trong trại có 2 em người Long Xuyên, tên Tr và M  (2 em hiện ở VN, tôi không viết rõ tên, vì sợ bất tiện cho các em). Hai người  này đã vượt biên và kẹt ở Đảo Hòn Khóm. Thỉnh thoảng họ nấu chè. Họ dùng 1 loại  đường tên là Thốt lốt, cục đường tròn và dày màu vàng khác với loại đường tôi  thường thấy có hình thuẫn. M mời tôi một miếng ăn thử: thật là ngon, ngọt, béo  và thơm như Chocolat. 
                                    Ở trại này, trong lúc đi lao động, công việc của tôi là: làm  cỏ mì, cỏ bắp, cấy lúa, về sau tôi được chuyển qua toán làm ngói.  
                                    Con chim lạ 
                                    Có một thời gian mưa bão liên tiếp 3 ngày, sau đó toán làm  cây bắt về một con bìm bịp nhỏ. Mới đầu, nó bị cột bằng một sợi dây, khi đã  quen, mấy anh thả nó ra cho đi quanh quẩn. Nó đi cà nhắc. Một bên chân có dấu  vết như 1 khúc “băng bột” màu đỏ. Con chim này đã bị bão thổi bay cùng cái tổ  xuống dưới gốc cây và chim mẹ đã biết băng bột cho chim con. Trong dân gian có  nói đến lại chim này biết chữa lành xương cho đồng loại, như trường hợp con  chim mẹ này, khi chim con bị gãy chân. 
                                    Chuyển phòng 
                                    Chúng tôi được cấp thức ăn sơ sài, nhất là sau khi chuyển  qua 1 cái nhà khác xây thấp hơn, gồm số đông anh em quân nhân. Có lúc họ phát  bo bo, 1 thức ăn của súc vật. Bo bo phải được ngâm nhiều giờ trước khi nấu. Khi  ăn, phải nhai kỹ vì vỏ rất dày. Đêm đến, khi nằm xuống, tôi thấy bụng từ từ  căng lên, chịu không nổi, tôi phải ngồi dậy, ợ ra 1 cái cho hơi ra bớt họa may  bụng mới xẹp bớt. Cả phòng, ai cũng bị như vậy nên nồng nặc mùi ợ chua lòm của  bo bo. Tôi để ý quan sát và nhận thấy 1 chuyện cười… ra nước mắt: Buổi sáng,  nhìn theo các thùng phân xuyên qua lớp vĩ sắt, hễ thấy phân xanh là biết người  đó đã ăn rất nhiều rau; còn thấy phân trắng bóc là biết người đó hôm trước đi  nhổ đậu phụng và ăn sống. Tôi cũng gặp lại anh Đỗ văn Minh, nguyên Bác sĩ  trưởng Ty Y Tế Bình Tuy, đã cùng học khóa với tôi và đương phụ trách về Y tế  của trại. Tôi thường gặp anh Nha sĩ Trung (Nha sĩ Thiếu tá), anh Cảnh. Cảm động  và nhớ nhất là ngày anh Trung mời tôi với anh Cảnh đến ăn sáng: anh nấu 1 nồi  cơm nhỏ, bới ra 3 chén, sau đó chan nước mắm có đường, chanh, tỏi và ít mỡ.  Ngon quá xá, nhớ cả đời! 
                                    Dự án dẫn nước  
                                    Trại tù nằm cách con sông khoảng 1Km. Cứ vài ngày thì các  toán được dẫn ra sông tắm. Mỗi khi như vậy thì người tù lội ra hơi sâu, cởi xà  lỏn và vò giặt luôn cho sạch. Có 1 hôm một anh tù bị cá đớp “chim”, may không  sứt, chỉ bị chảy máu vì các vết răng cắn! 
                                    Tổ “cấp dưỡng” (lo việc nấu ăn) ngoài 1 toán chỉ lo việc bếp  núc, còn 1 toán khác gồm 10 người , mỗi ngày cứ mỗi người phụ trách gánh 20 đôi  nước từ sông vào nhà bếp. Một hôm tôi thấy 1 hàng cây gỗ được chôn xuống, từ  chỗ thấp ở trại cao dần, dẫn ra ngoài bờ sông. Mọi người xì xầm: nay mai sẽ có  guồng nước dẫn từ sông vào trại! Hai hàng cây này dẫn đi khoảng 2/3 đường mà  chiều cao đã quá cao, hơn 6m. Nếu ra đến được sông, sẽ cao hơn nữa và guồng  nước sẽ là 1 cái guồng với bánh xe có đường kính gấp 2 lần như vậy. Về sau cả  dãy cây gỗ được gỡ đi, và không ai nghe nói gì về dự án “vĩ đại” đó cả! 
                                    Qua Tổ Y tế 
                                    Một buổi chiều, khi toán tôi đi làm ngoài đồng về, tôi được  ông Hồng (nghe nói nguyên Phó Tỉnh trưởng Bình Tuy 3-4 đời) đại diện tù nhân do  Trại đặt ra, báo: tôi được chuyển qua tổ phục vụ. Cả tổ này ở một dãy nhà gần  nhà bếp gồm các toán làm gỗ, làm vườn rau, nấu ăn và gánh nước, y tế, lò  đường…Tôi mới biết anh B.S Đỗ văn Minh đã được thả ra chiều hôm trước, và tôi  phụ trách về Y tế. Toán Y tế này gồm 5 người: 3 người lo việc thuốc Nam, trong  đó 2 người ra ngoài trại kiếm những cây thuốc Nam đem về, người ở lại lo chặt,  phơi, sao, và mỗi ngày nấu ra 5 bình thuốc Nam, đựng trong 5 cái ấm bằng thiếc  để tại nhà ăn, có dán “tên thuốc” ở mỗi bình để tự các người tù rót lấy uống  tùy theo chứng bệnh. Toán này do anh Minh (can tội vượt biên, người Bắc) lo.  Tôi có 1 phụ tá, gốc Quân y, xem bệnh và cho thuốc hay săn sóc vết thương.  Thuốc men cũng chả có gì, toàn mấy thứ tầm bậy tầm bạ như Xuyên tâm liên, viên  trị tả, vài thứ Vitamin với liều lượng quá thấp do các nhà bào chế XHCN sản  xuất. Mỗi ngày, từ sáng tôi phải xem các người bệnh. Hai giờ sau tôi cũng phải  vác cuốc ra đồng làm với anh em. Thời gian làm việc ở đây cũng có nhiều việc  buồn cười hoặc thê thảm. Trại thấy mùa lạnh sắp đến nên để ngừa cúm, họ đã phát  cho đám thuốc Nam 1 số tỏi, các anh ấy lấy giã ra, lọc lấy nước và buổi chiều  trại viên khi đi làm về, tập họp lại để được nhỏ vào mũi vài giọt. Giống như gà  gặp mùa toi. Rồi có lúc họ phát thuốc chích dịch tả. Tôi được lệnh chích dưới  da cho mỗi người 0.1ml thuốc giống như hột bắp, không biết có tác dụng gì. 
                                    Một buổi chiều, nghe vang lên ngoài xa có nhiều tiếng súng  nổ, sau đó khoảng nửa giờ các toán được dẫn về. Tôi nghe được một chuyện: có 3  thanh niên còn trẻ, gốc Tàu Chợ lớn chạy trốn và bị bắn! Nguyên khi họ đến làm  cỏ nơi vạt bắp chỉ cao quá đầu gối (bắp mới lớn, từ xa nhìn quá rõ), đã tìm  cách trốn chạy, bọn công an canh tù nhắm bắn như bắn bia. Một em chạy thoát.  Một em chết và chôn gần đó. Em còn lại được khiêng về và họ bảo tôi: “Đến băng  rồi để đó cho nó chết”. Khi tôi đến chỗ em nằm ngoài vòng rào trại, gần nơi ở  của đám công an, thấy một thanh niên mặt đã xanh tái, bị một vết thương xuyên  phổi, máu ra rất nhiều, ướt đẫm cả cán khiêng, miệng thều thào: “má ơi, em ơi!”  Thật là quá tội nghiệp. Ở 1 bệnh viên với những dụng cụ cần thiết tối thiểu,  tôi nghĩ là tôi có thể cứu em: chỉ cần may vết thương, đặt 1 ống thông phổi,  truyền máu là hi vọng hồi sinh…Nhưng khi tôi vừa băng bó xong, tên cán bộ V.C  biểu tôi về, “để đó cho nó chết”. Thật là tàn nhẫn. 
                                    Qua tổ Y tế này, thằng Minh em vợ 1 y tá quân y nơi tôi làm  việc thời trước, rủ tôi ăn cơm chung với cậu nó tên là Tất. Ông Tất này làm ở  tổ rau nên thỉnh thoảng đem về một ít rau tươi kiếm được, gọi là “cải thiện”,  bởi vì thức ăn ở trại không có gì ngoài chút ít cơm độn khoai, sắn và rau luộc  được cắt như bằm cho heo ăn. Ông Tất này trước năm 1975 là Trung sĩ an ninh  quân đội. Một ngày nọ được kêu lên làm việc. Chiều về tôi hỏi chuyện và biết sự  tình. 
                                    Trung úy V.C Thiết  mộc Nhĩ 
                                    Trong thời kỳ Tết Mậu Thân (1968) khi thanh toán bọn đặc  công còn lại sau đợt phản công của quân lực VNCH, ta có bắt được 1 Trung úy tên  Thiết mộc Nhĩ. Sau khi khai thác, ta đã phá được nhiều tổ còn lại ở tỉnh Bình  Thuận. Rồi tên Nhĩ này được trao trả cho phía Bắc Việt sau Hiệp ước Paris 1972. Sau 1975, tên  này có lẽ bò lên một chức vụ lớn, đámV.C muốn biết tên này đã khai gì, vì các  tổ đặc công của V.C nằm vùng đã bị tận diệt sau trận Mậu Thân. Một đoàn điều  tra với máy ghi âm đến gặp ông Tất và lấy lời khai. Ông nói năm 1968 ông chỉ là  Hạ sĩ, không giữ phòng khai thác mà Trưởng phòng là Trung úy Bính. Họ ghi âm  lời khai của ông Tất và nhắn với ông Bính; ông này trước 1975 là Thiếu tá Tiểu  đoàn Trưởng 1 Tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu Bình Thuận. Quãng 1 tháng  sau, đoàn này trở lại, cho biết ông Bính khai không biết, không nhớ gì (ông này  không thiệt!) rồi biểu ông này nhắc ông Bính chuyện cũ để ông Bính khai. Rồi cứ  như thế, câu chuyện chưa biết ngã ngũ ra sao, cho đến khi tôi được thả ra mà  ông Tất với cấp bậc Trung sĩ vẫn còn bị nhốt trong tù. 
                                    Bác sĩ đa tình 
                                    Nhà giam của chúng tôi ở phần sau trại gần với nhà giam của  tù nhân nữ. Đó là một nhà gỗ lợp tôn sơ sài. Tất cả quãng 20 người. Tôi nhớ có  1 chị quãng tuổi 30, bị tù vì tội vượt biên, án 6 năm tù do làm chủ mưu. Đặc  biệt chị ấy có một cái mông và bụng rất to lớn. Nguyên trước chị ta là chủ một  gian bán cá ở chợ. Sau gần 1 năm giam cầm với thức ăn “điều độ”, người chị trở  nên teo tóp, mông và bụng biến mất! Ở trại giam nữ này có nhiều thành phần: phản  động, vượt biên, hình sự. Ngổ ngáo nhất trong đám hình sự là con Út Chôm. Tôi  biết nó, vì cả gia đình nó từng “hành sự” vùng Bệnh viện Phan Thiết. Trước biến  cố 1975, 1 thằng anh nó lấy 1 xe Jeep, treo cờ Mặt Trận Giải phóng Miền Nam,  cùng vài tên trong xóm lượm súng và lái vòng vòng phố cướp bóc nên đã bị Thiếu  tá Hải, Xã trưởng xã đô thành bắn chết khi tái lập trật tự Thị xã. Ba nó phải  mượn 1 cái xe kéo, bỏ nó lên và kéo về nhà chôn. Trong đám vượt biên, có 1 cô  người Thanh Hải (1 xóm di cư của người Bắc di cư năm 1954, ở phường Phú Thủy)  nước da trắng trẻo, nên 1 anh Bác sĩ - tạm gọi là B.S Y. - để ý (B.S Y. và B.S  T. là hai anh em, tù vì tội vượt biên). Không biết có “làm ăn” gì được không,  nhưng 2 bên thơ qua thơ lại và đám cán bộ bắt được 1 cái thư của “chàng” viết  cho “nàng”, lời văn nồng nàn tha thiết. Kể từ đó, lá thư được đọc lên 2-3 lần  vào buổi chiều. Ít ngày sau, trại nữ báo cho tôi biết cô “người trong mộng” của  “chàng” nằm mê man, do uống thuốc độc (?) tự tử. Tôi không biết làm gì hơn (vì  không thấy bị hôn mê nặng) là kêu mấy chị trong phòng bóp mũi, đổ nước bắt  uống, sau đó móc họng cho mửa ra, và làm như vậy nhiều lần. Cô ấy về sau không  chết, nhưng 2 mắt sưng húp không biết tại tôi móc họng hay do cô ta “ốt dột”,  buồn và khóc.  
                                    Yêu nữ 
                                    Một buổi tối, tôi được lệnh đi xem bệnh cũng ở nhà nữ. Một  người bị đau bụng. Sau khi xem và không thấy gì nghiêm trọng, tôi chích 1 mũi  Atropine. Con Út Chôm đứng gần đó nói, như để chọc tôi: 
                                    - Bác sĩ ở lại với tụi em đêm nay nghe! 
                                    Thiệt là hết chỗ nói. Tôi lửng lửng làm thinh đi coi như  không nghe. Có lúc đám hình sự nam bên kia hàng rào, vì cách xa, nói cũng khó  nghe nên bọn đó cầm 1 trái ớt giơ lên và kêu: 
                                    - Út Chôm, ăn c… không? 
                                    Con Út Chôm bên này, có lẽ không nghe gì, chỉ thấy gật gật đầu.  Cả bọn trẻ hình sự được 1 tràng cười thú vị.  
                                    Ở trại tù lâu ngày, rệp sinh sôi nẩy nở, ai cũng bứt rứt khó  chịu, kêu ca với “ở trên”. Họ có cho xịt thuốc nhưng cũng không hết. Sau đó, có  đề nghị gỡ các miếng ván làm dàn ngủ để xối nước sôi, từng đàn rệp đen thui  chết, trôi tuột xuống. Thật là ghê rợn! 
                                    Thăm nuôi 
                                    Trong gần 3 năm ở trại tù này, tôi đã được thăm nuôi 3 lần.  Qua những thư gởi về, tôi chưa bao giờ nói về việc vợ tôi phải mang lên gì  nhiều cho tôi, chỉ xin một ít đường đậu vì quá thèm ngọt, do phải lao động  nhiều và một ít thuốc rê để hút cho đỡ buồn. Tôi vẫn biết vợ tôi với việc được  lưu dụng trong trường, lương tiền không bao nhiêu khi 4 con đang lớn phải đi  học, nhiều nhu cầu là 1 gánh nặng ghê gớm. Những ngày tôi ở ngoài còn gánh bớt  1 phần, nay chỉ mình vợ tôi lo toan tất cả. Thật là tội nghiệp cho vợ tôi cũng  như cho các bà vợ có chồng bị tù tội dưới chế độ nghiệt ngã XHCN, đầy căm thù  và phân biệt. 
                                    Thế rồi một buổi sáng, thật là bất ngờ, tôi được kêu tên ra  thăm nuôi. Nhà thăm nuôi ở ngoài ngõ, bên kia đường trại tù. Tôi đi ra thì thấy  vợ tôi cùng đứa con trai lớn đang đón tôi. Vợ con tôi đều xanh, ốm, vẻ mặt buồn  thiu. Con tôi có cao lên một chút, nó bận một cái áo trắng cũ đã chật, ở túi có  bảng tên trường học. Cái quần xanh đã cũ, rách và được vá ở gối, lai quần cao  quá mắt cá. Tôi nhìn mà thấy lòng buồn thảm. Chúng tôi đứng đối diện nhau, giỏ  đồ thăm nuôi ở giữa, đầu hàng là 3-4 tên công an chăm chăm quan sát. Tôi không  nói chi nhiều, chỉ nhắn vợ tôi gắng lo cho các con. Vợ tôi thì cho biết nhà vẫn  bình thường (?) và nói tôi nhớ giữ gìn sức khỏe. 
                                      
                                    Năm sáu tháng sau, tôi được kêu ra nhận 1 giỏ lát thăm nuôi  do vợ tôi gởi lên. Khoảng 6-7 tháng trước khi được thả về, tôi được đứa em  trai, đi xe Honda lên thăm với 1 giỏ lát thăm nuôi. Tôi và nó không nói chi  nhiều. Chỉ nhìn ánh mắt nó, tôi nghĩ nó rất buồn vì có lẽ nghe tin đồn rằng sở  dĩ tôi bị tù trở lại vì tham gia tổ chức phục quốc. Tôi chỉ nói tôi vẫn mạnh  khỏe cho nó yên lòng, sau đó cám ơn rồi vào lại trại. 
                                    Thật lắm tội 
                                    Lúc tôi bị bắt, đám V.C loan tin tôi bị bắt vì đủ thứ tội:  Thứ nhất là vì tôi ở trong tổ chức phục quốc, âm mưu lật đổ chính quyền Cách  mạng. Thời gian sau đó, trong 1 buổi họp ở Bệnh viện Phan Thiết, tên Trưởng  Bệnh viện còn nói tôi muốn lật đổ để làm Bệnh viện Trưởng. Sau khi tôi bị bắt 1  ngày - về sau vợ tôi cho biết – 1 đám công an đến nhà đọc “lệnh xét nhà” và lục  tung tất cả đồ đạc, lấy đi các ảnh tôi chụp với các Bác sĩ Hoa Kỳ lúc làm ở  Bệnh viện Quảng Trị, lấy luôn các giấy vợ tôi vẽ đường dẫn đến nhà các em học  sinh trong lớp chủ nhiệm, rồi phao lên tôi bị giam vì là 1 nhân viên CIA. Thật  là buồn vì hơn 15 năm ở Hoa Kỳ, không một ai ở cơ quan CIA đến hỏi thăm! Rồi  khi được thả ra về Long Xuyên (lúc ấy vợ tôi đã về L.X rồi để sống gần với cha  mẹ) có một ông nhà giáo hỏi tôi có phải ở trong tổ chức FULRO không. Tôi phải  giải nghĩa chữ ấy do viết tắt của những chữ “Front unifié de libération des  races opprimées”, tổ chức này do người Thượng dẫn đầu, phần tôi hoàn toàn không  biết gì. 
                                    Thật là lắm tội! 
                                    Gần ngày Tết thì tù nhân được cho thêm một ít thịt và xôi.  Tết năm cuối (trước khi tôi được thả) trại hạ 1 con trâu để cho toàn trại mấy  ngàn người ăn. Mỗi phần ăn buổi chiều đó có 2 miếng thịt vừa bằng 2 ngón tay  út. 
                                    Phục vụ y tế cho cán  bộ: một mới lạ! 
                                    Cũng trong thời gian này, có 2 chuyện làm tôi luôn canh cánh  bên lòng. Một buổi chiều khi toán lao động bên ngoài về trại, tôi được 1 tên vệ  binh (?) đến kêu đỡ đẻ cho vợ y. Tôi vội vơ lấy những gì có được: chai Alcool,  cây kéo, cái kẹp (pince), vài cuộn băng và cùng 1 anh y tá phụ theo y đến 1 cái  nhà bên ngoài trại. Nhà tranh vách đất lụp xụp. Tôi vội nói anh ta múc nước cho  tôi rửa tay. Sau khi thoa Alcool 2 bàn tay, và nói vọng cho y nấu giùm 1 ấm  nước, tôi khám và đỡ đẻ cho vợ y. Chưa bao giờ tôi xem xét cái nhau kỹ như lần  này vì nếu mà sót nhau, thế nào cái mạng của tôi cũng bị lâm nguy. Tôi dùng  nước ấm tắm em bé, cột và cắt rốn, mặc quần áo cho em bé. Trong khi ấy, trên  bàn phía bên kia, cán bộ V.C đã dọn cơm cho chúng tôi ăn. Lần đầu tiên, 2 thầy  trò trong 3 năm được ăn 1 bữa cơm không độn, với 1 dĩa thịt gà kho. Rồi 3-4  ngày sau tôi phải tìm tên V.C đó hỏi thăm vợ y có sốt không. Gần một tuần tôi  mới hết lo.  
                                    Chiều về chầm chậm trong một ngày, tôi đang bước ra để về  phòng thì anh y tá phụ đến nói tôi đi xem bệnh 1 sĩ quan công an. Tôi đến nơi  thì anh ta không có mặt, định hỏi thăm thì thấy anh đang đi vào, cho biết vừa  tắm dưới sông lên. Tôi khám và thấy bình thường, không có sốt (vì đã đi tắm  được) còn răng anh ta chỉ hơi rớm máu. Tôi cho là thiếu Vit. C, mà trại không  có Vit. C nên tôi nói anh y tá chích 1 mũi Vit. K và hẹn hôm sau đến xem lại.  Sáng hôm sau, tôi và anh y tá ra đến cổng, báo cáo đi gặp Đại úy Dũng (tức tên  “người bệnh” vừa kể) để xem bệnh, tên gác cổng nạt: “Đi vào!” Chúng tôi phải  “chấp hành”. Ngày hôm sau, nghe nói là anh ta đã đi về Phan Thiết để khám bệnh.  Rồi họ cho biết đang nằm ở Bệnh viện, tình trạng cũng bình thường. Khoảng chục  ngày sau, tôi thấy 1 xe GMC với bà vợ anh ta ngồi đằng sau khóc lóc thảm thiết.  Ai đó cho biết Đại úy Dũng đã chết ở Bệnh viện. Tự nhiên, tôi hơi lo lo, nhưng  sau tôi nghĩ mình không làm gì sai trái trong thời gian qua nên cũng tạm yên  tâm. 
                                    Những ngày trước khi  được thả về 
                                    Hôm sau thì tôi được lệnh trở về lại toán lao động, và anh  B.S Y qua thay tôi phụ trách Y tế của trại. Tại đây tôi đã bị 1 cơn đau bụng  kinh khủng. Tôi phải ngồi gập như 1 tín đồ Hồi giáo và được chích 1 mũi  Atropine. Sau đó, tôi đi tiểu ra máu. May mà trong túi xách tôi còn 1 ít Ampicilline-uống  đã cứu tôi! Sự tiểu ra máu kéo dài vài ngày rồi bỗng 1 đêm, sau 1 cơn đau dữ  đội, tôi đi tiểu văng ra 1 hột sạn nhỏ. Chỉ ít ngày sau, tôi bình phục, nhưng  vẫn còn yếu. Họ chuyển tôi qua toán đan đát. Toán này chuyên làm những cái giỏ  bằng tre để đem ra ngoài bán (?). Trong thời gian 10 phút nghỉ nửa buổi, các  anh khác vẫn “tranh thủ” làm để thi đua, còn tôi đánh ván cờ với 1 người khác  thì 1 tên công an đến và phán:  
                                    - Ai cũng đang làm mà sao anh lại đánh cờ? 
                                       
                                      Tôi đáp: 
                                    - Bây giờ là giờ nghỉ. 
                                    Sau đó tiếng kẻng vang lên báo giờ làm lại. Tôi nói ngay: 
                                    - Tiếng kẻng đó báo giờ làm trở lại. Còn mấy anh ấy không  muốn nghỉ là để thi đua. 
                                    Xung quanh ai nấy lặng im, không ai dám nói lên một lời vì  quá sợ. Kết quả của sự đối đáp này là tôi “được” tống vô xà lim với 2 chân bị  còng. Nằm trong xà lim, thật là uất ức, vì bọn chúng muốn hành hạ tù nhân cách  nào cũng tùy thích. Quãng đêm xuống thì chúng mở còng và bảo tôi về phòng. 
                                    Độ một tháng sau thì tôi được thả về. Trời đã quá chiều,  đường từ trại tù đến bến xe cũng trên 3Km, tôi không thể đáp xe về Phan Thiết  hay ra Quốc lộ 1 nên tôi phải ngủ lại ở phòng dành cho thăm nuôi. Hôm sau, khi  nhìn lại tấm bảng với hàng chữ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trước cổng  trại giam, tôi thầm nghĩ: mình đang rời khỏi 1 nhà tù nhỏ và đang đi đến 1 nhà  tù bao la với 1 tương lai bất định. 
                                    B.S Lê Bá Dũng 
                                    1/2008                                      |