Phùng Hữu Chí 
                                    Việc thành-lập Viện  Đại-Học Huế (3/1957) là do sáng-kiến của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm với lý-do  chính-trị và văn-hóa. Đến cuối năm 1958,Linh-mục Cao văn Luận,Viện-trửơng Viện  ĐH Huế, bắt đầu nghĩ đến việc mở ĐH Y-khoa Huế vì LM nhận thấy số bác-sĩ  phục-vụ cho bệnh-nhân còn quá ít (theo thống-kê vào lúc đó ở Việt-Nam cứ 30,000  ngừơi dân mới có một bác-sĩ) và một số lớn học-sinh Huế dậu Tú-tài ,vì lý-do  kinh-tế,muốn học Y-khoa không thể vào Saigon để học đựơc. 
                                    Sau bao nhiêu khó-khăn trở-ngại,sắc-lệnh thành-lập  ĐHYK Huế đựơc ban hành.Nắm đựơc sắc-lệnh trong tay,LM Cao văn Luận với tánh  kiên-nhẫn,tài ngọai-giao lại là ngừơi có tâm huyết, đã đi “gỏ cửa” các Tòa  Đại-sứ tại Saigon:Mỹ,Pháp,Tây Đức,rồi..Gia nã Đại để xin hổ trợ . 
                                      Đại-học Y-khoa Freiburg tại Tây Đức,sau khi cứu  xét phúc-trình của Giáo-sư Krainick (đã “điều-nghiên” 2 tháng thực-tế tại Huế),  đã đồng ý bảo trợ cho Y-khoa Huế.Từ nay giấc mơ của các em học-sinh nghèo ở cố  đô với lòng hiếu học,tánh cần-cù chịu đựng muốn khóac “áo trắng” đã thành sự  thực,khỏi vào Saigon với bao-nhiêu tốn kém. 
                                    Một vấn-đề lớn đặt ra: Ai sẽ là vị Khoa-trửơng đầu  tiên để lèo lái chiếc tàu ĐHYK  Huế ? Tại  cố đô có một vị bác-sĩ rất nổi tiếng đó là bác-sĩ Lê Khắc Quyến.Về chuyên-môn  tay nghề và lòng nhân ái,Bs Quyến rất đựơc dân chúng kính trọng và quý mến.Tuy  nhiên Bs Quyến không có tứơc-vị giảng dạy đại-học y-khoa.Do đó phải tìm một  giáo-sư Việt-nam khác.Các vị giáo-sư tại Saigon chắc hẳn không ai “muốn”,cũng không  ai “dám” đãm nhiệm chức-vụ khó-khăn nầy. 
                                      LM Cao văn Luận và Bs.Quyến xuất ngọai sang Tây  Đức để vận động thêm ở các Đại-học cùng các tiểu bang,sau đó sang Paris với  mục-tiêu tìm một vị giáo-sư Việt-nam nổi tiếng mời về làm Khoa-trửơng.Không  hiểu vì “cơ duyên” nào,LM và Bs. đã tiếp-xúc dựơc với Bs Lê Tấn Vĩnh,giáo-sư  thạc-sĩ y-khoa đang làm việc tại Phòng Nghiên-cứu của Giáo-sư Lelong tại ĐHYK 
                                      Paris.Gs Vĩnh không thể thừơng-trực ở Huế đựơc,vì  công-việc nghiên-cứu không bỏ dở dang đựơc. Cho nên Gs Vĩnh chỉ đãm trách  Khoa-trửơng YK Huế 6 tháng mỗi năm. 
                                    Gs Vĩnh về VN đãm nhiệm Khoa-Trưởng ĐHYK Huế…Nhưng  sau một thời-gian,Gs Vĩnh vì lý-do bệnh tật về Pháp và báo cho LM Luận xin từ  chức. Theo LM Cao Văn Luận, sự việc còn có nhiều uẩn-khúc (bạn đọc muốn tìm  hiểu thêm xin xem quyển Hồi-ký Bên Giòng Lịch-sử của  LM Cao văn Luận). 
                                    Về bệnh tật, tác-giả bài nầy có một kỷ-niệm nhỏ  với Gs Vĩnh: Vào cuối năm 1962,tôi đang làm Y-sĩ Trung úy tại Bệnh-viện 2 Dã  chiến (nói là bệnh-viện chớ thực ra chỉ là vài căn nhà lá trên một bãi đất  trống) ở trong một khu rừng ở ngọai ô Kontum thì nhận đựơc tin có Nghị-định của  Bộ Giáo-dục mở cuộc thi Tuyển Giảng-nghiệm-viên cho ĐHYK Huế.Nếu trúng  tuyển,các bác-sĩ hiện đang phục-vụ trong quân đội sẽ đựơc giải ngũ. Tôi vội làm  đơn xin dự thi,một mặt tìm cách cho thân-nhân ở Saigon  chuyển sách vở lên Kontum để “tụng” bài thi. 
                                      Cuộc thi tuyển chia làm 2 ngành: Nội-khoa và  Ngọai-khoa. 
                                      Về thi viết, thí-sinh thi Nội-khoa sẽ thi bài  Sinh-lý học, thí-sinh Ngọai-khoa sẽ thi bài Cơ-thể học.Thêm vào đó cả 2 lọai  thí-sinh sẽ thi viết cho một dề tài 
                                      Nội-Ngọai khoa (Bs Tự vừa đã nhắc cho tôi nhớ lại  đề thi lúc đó: Diagnostic et Traitement des Grandes Hematemeses  superieures/Chẩn-đóan và Điều-trị Xuất-huyết Tiêu-hóa trên, nặng).Các đề thi  đều bằng tiếng Pháp (thí-sinh có thể viết tiếng Pháp hay Anh). 
                                      Sau khi đậu thi viết, thí-sinh sẽ vào vấn-đáp:  thí-sinh sẽ bóc thăm chọn đề thi, đựơc đưa vào phòng cách ly để chuẩn-bị đề tài  trong 30 phút, sau đó ra trình bày trứơc Ban Giám-khảo và sẽ trả lòi các câu  hỏi. 
                                    Thành-phần Ban Giám-khảo, hiện tôi không nhớ rõ  hết đựơc ,lúc đó gồm có Gs Lê Tấn Vĩnh, Đại-Tá Quân-Y Bs Vương Quang  Trừơng,Cục-Trửơng Cục Quân Y, Bs Đinh vănTùng (Đà nẳng) làm Tổng thơ-ký, các GS  ngừơi Đức:Krainick,Discher…..,Khoa-trửơng ngừơi Pháp của ĐHYK Phnom Penh và một  Gs ngừơi Pháp thuộc Bệnh-viện Grall Saigon.(theo tôi đựơc biết kỳ thi tuyển nầy  là lần thú nhứt cũng là lần cuối cùng có Ban Giám-khảo Quốc-tế có vẽ “nặng ký”  như vậy, về sau các cuộc thi tuyển đều là “cây nhà lá vườn”). 
                                    Đến lựơt tôi vào phòng thi để bốc thăm, thì thình  lình trên dãy bàn ghế Ban Giám-khảo, Gs Vĩnh ngả ra xuống đất bất tỉnh các Gs  chạy loay quanh Gs Vĩnh, hồi sức nhân tạo, đo huyết-áp, nghe Tim Phổi, lấy  máu,v.v…Sau đó Gs Discher chích thuốc vào tĩnh mạch Gs Vĩnh. Đang chích thì Gs  Vĩnh từ từ tỉnh dậy, mặt mày còn xanh, áo thấm mồ hôi. Lúc nầy tôi nhìn nhận  thấy dáng ông trung-bình, có vẽ hơi nặng ký (overweight). Sau khoảng hơn nửa  giờ, trông thấy ông khỏe dần, sắc diện sáng hơn…Do đó Ban Giám Khảo do ông chủ  tọa cho tiếp-tục cuộc thi(!). 
                                      Tôi đứng lên bốc thăm ra đề tài: “Diagnostic des  comas”(chẩn-đóan dương tính, phân biệt, nguyên-nhân và điều-trị các hôn mê). 
                                    Thực là một sự trùng hợp kỳ lạ và lý-thú. 
                                    Khi trình bầy đến đọan nguyên-nhân do tiểu đường,  nếu không có phương-tiện để chẩn-đóan đường cao hay thấp (thời điểm 1963 chưa  có fingerstick) thì cứ chích tĩnh mạch đường nồng-độ cao, nếu bệnh-nhân bị hạ đường  huyết sẽ được cứu sống ngay. Các giám-khảo nghe đến đây đều mĩm cười… 
                                    Các Bs đựơc trúng tuyển kỳ đó gồm có: 
                                    Về Ngoại-khoa: 
                                      Bs Lê Bá Vận, hiện định cư ở Gia nã đại 
                                      Bs Nguyễn văn Tự, hiện hành nghề ở Boston. 
                                      Bs Vũ Công Thửơng, hiện định-cư ở Gia nã đại. 
                                      Bs Trần Trọng Hà, hiện định-cư ở Gia nã đại. 
                                    Về Nội-khoa:     
                                      Bs Phùng Hữu-Chí, hiện hành nghề ở Quận Cam 
                                      Bs Nguyễn Khoa Mân, hiện hành nghề ở Paris. 
                                      Bs Nguyễn Bá Khôi, hiện hành nghề ở Gia nã đại. 
                                    Về làm Giảng-nghiệm-viên tại ĐHYK Huế  đến năm 1964 tôi đi tu-nghiệp ở Tây Đức. Năm  1967 trên đường về nước tôi có ghé Paris cố tìm đến thăm Gs Vĩnh, nhưng rất  tiếc không được gặp. 
                                                                           |