Lê Bá Vận 
                                    Trăm năm trong cõi người ta 
                                        Chữ hòa, chữ Cọng khéo là ghét nhau 
                                        Trải qua một cuộc bể dâu 
                                        Những điều trông thấy làm đau đớn lòng. 
                                      Tân Đoạn Trường Tân Thanh 
                                  Sau năm 75, kẹt ở lại với Cọng Sản, ai chẳng đau lòng.  Song nếu tạo được một triết lý mới để sống còn, thì cũng có những mẫu chuyện  vui nhỏ. 
                                        ĐHYK Huế  xóa tên  
                                    Giữa tháng  5/75, nhân viên ban giảng huấn ĐHYK Huế còn kẹt lại ở Sàigòn sau khi hoàn tất  thủ tục trình diện ở Viện ĐH Sàigòn, được cấp giấy đi đường để trở về nhiệm sở  cũ. Tất cả nay thuộc diện Ngụy quân, Ngụy quyền và trong hồ sơ cách mạng có mã  số diện 01, 02 gì đó. Chúng tôi thuê xe đò cùng gia đình lếch thếch trở về Huế.  Một số ít vẫn ở lại Sàigòn. Về đến Huế là rã đám, sẩy đàn tan tác nghé. Từ nay  gặp nhau không hỏi han, chỉ mỉm cười gật đầu nhẹ. “Gặp thời thế thế thời phải  thế”.Có thân phải tự lo, đừng láng cháng gây nghi ngờ mà mắc họa. Về nhà, hôm  sau tự động đến trình diện ban Lãnh đạo mới tạm thời, được gọi là ban  điều hành trường Y Huế. Thế là danh xưng ĐHYK  Huế đã là dĩ vãng. Từ nay là ĐHY Huế, gọi tắt là Trường Y Huế. Gọi mãi cũng  quen miệng. Vì không còn danh xưng Trường Y Khoa, nên cũng không còn danh xưng  Khoa Trưởng, mà rồi đây khi Trường ổn định sẽ có một Hiệu Trưởng- Hiệu Trưởng  trường ĐH Y Huế. Toàn trường gồm các cán bộ công nhân viên, nhân viên ban giảng  huấn được gọi chung là cán bộ giảng. Phòng nhân viên được gọi là phòng tổ chức  cán bộ, quyền hành rất lớn; phòng tài chánh là giáo tài; phòng học vụ đổi tên  là giáo vụ. Khoa được đổi tên là bộ môn và các chủ nhiệm bộ môn: Nội,  Ngoại…tương đương với chủ nhiệm khoa nội, khoa ngoại…ở bệnh viện. Lâu dần cũng  quen với các danh xưng mới. Toàn trường nay đông người hơn với các bộ môn mới:  Mác Lê, Xã Hội, Sinh ngữ, ban Công An trường và Sinh viên 2 hệ Chính quy,  Chuyên tu tại chức. 
                                    Viện ĐH Huế  lại có một số phận hẩm hiu. Trong thời quá độ, có một ban điều hành viện. Sau  ít năm, viện giải thể; trường Y không còn thuộc bộ Giáo Dục mà trực thuộc bộ Y  Tế quản lý. Các trường ĐH khác thì trả về bộ sở quan của  mình để đảm bảo chỉ tiêu đào tạo cán bộ. 
                                       Thử thách  đầu tiên  
                                    Làm xong  thủ tục trình diện ở trường, như một đám hàng thần lơ láo, mọi người trở về  nhà, ngóng chờ giấy gọi lại đi làm, nếu có. Bằng không sẽ có tai họa lớn. Bản  thân có thể bị gọi học tập cải tạo, con cái khó học lên đến ĐH. Nhẹ hơn là đi lao  động sản xuất ở vùng đồi núi, kinh tế mới Nhưng mọi việc đều tốt lành. BS LVB  được giữ lại chức vụ cũ nay gọi là phó ban điều hành Trường Y, BS ĐVQ được cử  làm ủy viên ban Điều hành. Các  người  khác là cán bộ giảng. 
                                    Trong khi  mọi người đều đã nhận việc thì tôi vẫn ở nhà. Tôi đã từ chối không qua Khoa  Ngoại ở Bệnh Viện Huế với lý do không đúng chuyên môn- Tôi nguyên là Trưởng  khoa Mắt. Không phải là tôi khó khăn và không hiểu biết khoa Ngoại đang thiếu  BS, song về khía cạnh khoa học, giảng dạy, tôi muốn CS đánh giá cao ĐHYK Huế:  Một ông Khoa Trưởng trọng chuyên môn tất kèm theo một ĐHYK tốt, và ngược lại.  Hơn tuần sau có giấy gọi tôi đi làm lại ở Khoa Mắt.. 
                                    Một vấn đề  khác gây phiền phức cho tôi là chiếc xe hơi Mazda mới của Trường. Tôi cùng tài  xế đem xe di tản vào Đà Nẳng. Chỉ hôm sau đường bộ Huế- ĐN bị cắt đứt, dân  chúng phải chạy ra cửa Thuận An để di tản. Chết cũng nhiều. Chiếc Mazda được để  lại tại văn phòng đại diện Viện ĐH Huế. Tôi thì dùng xe hơi riêng. Lúc tôi ờ  Sàigòn trở lại Trường, ban điều hành Trường cứ phàn nàn về sự mất mát chiếc xe  Mazda và như hàm ý tôi chịu trách nhiệm đã không bảo quản tốt và có thể đền xe.  Song không lâu, Trường phát hiện xe đó đang được UB Nhân Dân ĐN xữ dụng ngon  lành. Huế, Đà Nẳng là hai giang sơn khác biệt. Có đòi mà không có trả. Luật lệ  CS là vậy. Đành xếp hồ sơ, coi như đưa xe vô nội. 
                                        Vỡ lòng  chính trị  
                                              Đầu tháng 6/75, địa phương tổ chức suốt mỗi tối trong  một tuần lễ, từ 8 giờ đến khuya cho nhân dân trong phường. Tôi đã dự học, cùng  đồng bào, ngồi xổm trong sân rộng ở nhà góc đường Hai Bà Trưng và Nguyễn Huệ,  sau nầy là nhà BS HTChâu. Đó là lần đầu tiên tôi được vỡ lòng chính trị CS. Cán  bộ địa phương lên lớp theo bài bản và hấp dẫn: nào là ở nước ta nhân dân tự do  đi lại, có nghĩa khi có nhu cầu chính đáng, thăm viếng, chữa bệnh, thì có quyền  nộp đơn xin đi lại lên ủy ban địa phương- Nào là quyền tự do bầu cử, ứng cử.  Người ứng cử có quyền nộp đơn. Địa phương gồm chính quyền, Mặt Trận Tổ Quốc,  đoàn Thanh Niên CS, đoàn phụ nữ…họp xét để loại các thành phần xấu, gây rối, lý  lịch không rõ ràng, rồi chuyển đơn lên ban bầu cử. Nào là ở nước ta, Nhân Dân  làm chủ, nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo. Qua các lớp chính trị ấy, nhân dân  giác ngộ và tỉnh ngộ nhiều cũng như quán triệt đường lối chủ trương của Đảng và  Bác và trách nhiệm làm chủ của mình một cách đúng đắn. 
                                    Sau khi học  xong các khoá hè chính trị về Duy Vật biện chứng và kinh tế Mác –Lê do viện ĐH  tổ chức cho cán bộ giảng ngụy, và giảng viên cao cấp từ Hà Nội vào, tôi cảm  thấy rất vững về lý luận chính trị Mác-Lê. Vấn đề khúc mắc Nhân Dân làm chủ  cũng dễ giải thích thôi, chẳng hạn: Nhân Dân làm chủ, phải hiểu là nhân dân lao  động mới làm chủ, lại phải là nhân dân lao động tập thể, lại phải là NDLĐ tập  thể XHCN, rồi phải là công nhân tập thể tiên tiến XHCN vì công nhân là giới  trực tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội, đương nhiên làm chủ. Chưa đủ,  phải là thành phần ưu tú nhất của CN tập thể XHCN, đã giác ngộ Cách mạng và qua  thử thách để được chọn kết nạp vào đảng CS để lãnh đạo. Đảng CS là đội tiền  phong của giai cấp công nhân, không do dân bầu ra (Tần Thủy Hoàng cũng thế  thôi!) song đại diện cho tất cả và là cái quyền thứ tư, tối thượng, trong một  nước CS để lãnh đạo 3 quyền kia: LP, HP và Tư Pháp, mà đảng viên CS nắm tất cả  các chức vụ đầu não. Có vẻ muốn nhân dân làm chủ thực sự, phải ban cho họ đầy  đủ 3 quyền: quyền bầu cử dù bầu một quốc hội vô quyền, quyền phát biểu là khắc  tinh của độc tài tham nhũng, quyền bất đồng ý kiến, là khắc tinh của độc tôn. 
                                       Các BS CS  thành thật  
                                             Năm đầu sau biến cố 75, Khoa Mắt và TMH sinh hoạt  chung. Một Y Sĩ gây mê, đảng viên CS, làm chủ nhiệm khoa (y sĩ miền Bắc tương  đương cán sự y tế miền Nam).  Còn có một BS lớn tuổi, rất chất phác, làm TMH. Họ đều rất lễ độ với tôi. Có  hôm tôi chỉ cho ông BS giấy xét nghiệm máu của bệnh nhân có b/cầu 12,000/mm3,  ông ta ngơ ngác thú thật không hiểu bạch cầu là gì, và 12,000/mm3 là gì. Năm  92, ở Sàigòn, một BS mắt, chức vụ và cấp đảng cao, có đi tu nghiệp về mắt ở  Pháp, mới về lại, đã thành thực nói với tôi “nghe anh nói võng mô (retina) có  10 lớp, tôi thật chẳng biết, không hiểu ở sách nào?”Các ông BS trên thành thực  đối với tôi, song chưa chắc đối vớí các đồng nghiệp khác. Tôi thông cảm: miền  Bắc chiến tranh kéo dài, nhu cầu đào tạo cán bộ y tế cao cho nhân dân và chiến  trường. Công nhân , nông dân (là đồng minh tự nhiên của công nhân) ít học nhưng  là đảng viên, hoặc đối tượng đảng được tuyển chọn làm hộ lý (tức là y công miền  Nam), rồi lên phụ y tá, bổ túc văn hóa đọc viết lên làm y tá, bổ túc thêm một  ít văn hóa và cứu thương lên y sĩ, một số y sĩ học chuyên tu tại chức ít năm  rồi thành BS theo nhu cầu thời cuộc; họ ít học, không đọc sách chỉ nghề dạy  nghề. Tất nhiên các sinh viên y hệ chính quy   nếu là từ học sinh xuất sắc ở Trung Học trúng tuyển trường Y thì giỏi  hơn nhiều. Song chỉ là thiểu số. Các con em Huế, hoặc bất kỳ ở đâu trong nước,  nếu trúng tuyển trường Y nhờ điểm cao chứ không phải gian lận thi cử hoặc được  nâng đỡ hạ nhiều mức thang điểm theo diện chính sách: thương binh, gia đình  liệt sĩ, có công với cách mạng…thì nhất định là xuất sắc, nhất là nếu trau dồi  thêm ngoại ngữ để tham khảo sách báo y. Nhân dân VN luôn thừa thông minh và  chịu khó. Vấn đề là phương pháp tuyển chọn và đào tạo. 
                                        Ban Đời  sống- Phiếu C  
                                    Tiêu  chuẩn lương thực. Mỗi buổi sáng ở khoa, trước khi bắt tay làm chuyên môn,  thường dành nửa giờ để giao ban, có khi kéo dài quá một tiếng, để báo cáo tình  hình bệnh nhân trong khoa, phổ biến chính sách, phát động hoặc tổng kết các  phong trào thi đua, bình bầu các danh hiệu “lao động tiên tiến”, “chiến sĩ thi  đua”. Nhưng náo nhiệt hơn cả là lúc ban đời sống báo cáo các mặt hàng đã được  phân phối kỳ nầy: 3 vỏ xe đạp, 3 sợi xích xe đạp, 4 bánh xà phòng răng, 4 bàn  chải răng, 10 bao thuốc lá, 4 mét vải sơmi…được chia công bằng từ hộ lý lên chủ  nhiệm khoa là tôi. Kẻ tranh món này, người giành món khác, xem ra ai cũng có  nhu cầu cao. Nhưng phải nhường nhịn nhau theo tinh thần XHCN, mọi người vì  mình, mình vì mọi người. Nếu rõ ràng xe đạp anh chị vỏ mòn nhiều sắp thủng thì  khoa dành cho anh chị mua vỏ xe lần này. Nếu anh ghiền nặng thì khoa dành thêm  tiêu chuẩn thuốc lá, mà ai cũng ưa dù không hút vì có thể đem bán ở chợ, để  nâng cao đời sống, khắc phục khó khăn. Tôi ngồi nghe cũng thấy vui tai và thấy  thương mến Khoa nhiều hơn. 
                                    Ở bộ  môn cũng vậy. Một hôm một công nhân viên đến gặp tôi và trình bày “Trường được  phân phối mặt hàng đặc biệt; cứ hai người được mua chung hơn một mét vải để may  một quần tây. Thôi BS đừng bắt thăm, em chưa có quần tây. BS nhường cho em kỳ  này lần sau đến phiên BS lấy vải”. Tôi vui vẻ đồng ý, tôi đã có vài ba quần  tây, và hiểu kỳ sau sẽ là mặt hàng khác và tôi và ông ấy sẽ không có dịp ghép chung  nữa. Một mặt khác có thể giúp ông ấy nâng cao đời sống: ra chợ bán hoặc 
                                    đổi bù thứ vải kém chất lượng để may quần. Quả đúng  như vậy. Thời gian qua thấm thoát, tôi được nâng lương, đủ mức để có tiêu chuẩn  được cấp 
                                    phiếu C về lương thực. Lúc ấy toàn trường Y chỉ có hai  (gồm cả tôi) hoặc ba người là có phiếu C về lương thực. Quá phấn khởi, có phiếu  C thì mua thêm hang ở cửa hàng C chỉ dành cho cán bộ có từ phiếu C trở lên (C,  B, và A). Có phiếu C thì có được mua thêm với giá cung cấp 2 chai bia, 1 lon  sửa đặc, nửa ký thịt, 5 gói thuốc lá và linh tinh khác mỗi tháng. Tuy phấn khởi  nhưng đến lúc đó mới biết chẳng lợi lộc gì mà còn mất thì giờ chờ chực, đến mà  hàng chưa về kịp. Có người bảo phải quen thân với cán bộ công nhân viên cửa  hàng mới thuận lợi. Nhà tôi không ai uống rượu, hút thuốc, lại neo người, nên  sau đó cũng không có dịp dùng phiếu C. Có nhu cầu ra chợ mua có liền, như nhân  dân bình thường hoặc như các cán bộ khác chưa có phiếu C. 
                                              Tôi  học thêm tiếng Nga 
                                                    Trường tổ chức nội bộ dạy tiếng Nga cho cán bộ giảng  ngụy. Tôi biết rỏ, không trau dồi cập nhật kiến thức chuyên môn thì làm sao  giảng dạy có chất lượng! Hiện nay ở thư viện trường các sách giáo khoa tạp chí  Pháp Anh đều cũ. Song về tiếng Nga thì hàng tháng về đầy đủ cập nhật sách giáo  khoa và tạp chí đủ bộ môn. Cho nên động lực học tiếng Nga của tôi rất mạnh và  tôi thành công nhanh chóng trong khi các anh em khác chỉ học lơ là chiếu lệ.  Điều bất ngờ là ban Lãnh đạo trường biết chuyện này rất hài lòng và suy diễn:  thì ra anh ấy đâu có tư tưởng chống Liên Xô, chống Cách Mạng! và liền đưa tôi  vào biên chế chính thức của trường, một điều mà tôi chẳng quan tâm đến quá mức.  Xem ra người ta cố tìm hiểu thái độ của tôi từ đầu. Ngay ngày đầu trở về Huế,  tôi đã tâm nguyện giữ uy tín cho ĐHYK Huế, phô bày tính vượt trội của trường.  Anh em trong ban giảng huấn cũ còn tùy tiện du di, riêng tôi là con chim đầu  đàn cũ “quan trên trông xuống, người ta trông vào” tôi rất tự trọng, nhã nhặn,  khiêm tốn nhưng  không hạ mình, tránh  phát biểu đề cao chế độ, hoan hô Cách Mạng, ca tụng cá nhân. Trong các bài thâu  hoạch viết nộp trường sau học tập chính trị, tôi không có những câu “Muôn vàn  cám ơn CM đã đổi đời cho tôi, đem tôi từ chổ tối ra sáng, làm cuộc sống của tôi  có tinh thần, có ý nghĩa..”Các câu sáo ngữ tương tự luôn có trong các bài thu  hoạch được giảng viên hoặc tự tác giả đem đọc nghe chung. Viết ra như thế, mỗi  người đều có lý do riêng, song phần lớn là muốn được yên thân, hoặc cố ý đánh  lạc hướng chú ý của CS để tìm cơ hội tẩu thoát sau này. Riêng tôi, tôi viết ca  tụng các thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại (không phải của Liên Xô theo  bài bản) chứng minh bằng những điều tai nghe mắt thấy trong thời gian tôi ra  nước ngoài du học (lúc biến cố Mậu Thân tôi đang học ở Mỹ) hoặc công du (thời  kỳ tôi làm khoa trưởng). Và tôi ước nguyện VN sớm đạt các thành quả tương tự,  bắt kịp thế giới. Năm 85 lúc tôi từ giả Huế vào Nam, BS VHT, người Quảng trong  Ban Lãnh Đạo trường, nói riêng với tôi “anh là người duy nhất tôi kính phục  trong bạn bè”. Lời nói đó là thực, song không hiểu BS VHT thành thật được mấy  phần. Cũng không có lý do gì để ông ta xả giao đưa đẩy. 
                                             Về phần khác, từ năm 80, các con tôi cũng tấp tểnh xin  thi vào ĐHY Huế. Nếu trượt thì thật bẻ mặt. Thí sinh rất đông, song chúng trúng  tuyển nhất nhì gì đó; được gọi đi Liên Sô học Y, song xin học tại Huế. Về sau,  từ Sàigòn chúng vượt biển qua được Thái Lan. 
                                        Dự họp  Tỉnh Ủy- 
                                              Một ngày nọ tôi nhận được công văn Tỉnh ủy (ủy ban  chấp hành đảng CS tỉnh Bình Trị Thiên) mời dự họp tại trụ sở tỉnh ủy ở Tam Tòa,  Thành Nội. Đến nơi:thấy tất cả ngồi xung quanh một bàn dài trong phòng họp.  Không thấy ai quen! Chương trình họp là các thế mạnh của BTT. Tuy là họp kinh  tế song các phát biểu đặc mùi chính trị. Nói chung BTT có sáu bảy thế mạnh gì  đó, đủ yếu tố thiên địa nhân, nhân dân cần cù sáng tạo, đã được rèn luyện trong  chiến tranh; địa hình thuận lợi, bờ biển dài, ngư nghiệp mạnh, núi rừng bao la  rồi rào gỗ quý, khoáng sản sắt kẻm đá vôi…tiềm năng khai thác rất lớn, kỷ nghệ  phát triển: nhà vôi, lò máy bia, nước đá…tiểu công nghệ đa dạng; mưa gió thuận  hòa cho nông nghiệp…thành phố Huế lại là một trung tâm du lịch có tầm cỡ quốc  tế; BTT nằm trên trục giao thông Bắc Nam, và từ Lào xuống. Tất cả đều rất thuận  lợi cho phát triển kinh tế. 
                                    Tôi  cũng phát biểu Huế không phải thành phố du lịch tuy có các địa điểm du lịch. Đà  Nẳng có thể là thành phố du lịch, mặc dù có ít thắng cảnh nhưng có hạ tầng cơ  sở và biết khai thác các địa điểm du lịch của Huế. Tôi lại nêu lên một thế mạnh  khác là BTT hợp tỉnh. Mấy ông Tỉnh ủy ngán quá. BTT hợp tỉnh đang được xem là  một thế yếu, bất lợi cho phát triển kinh tế. Ban đầu Trung Ương cho hợp tỉnh,  tưởng sẽ giàu thêm, không ngờ ba anh nghèo họp lại càng nghèo: quản lý phức  tạp, đường sá xa xôi, nội bộ lủng củng. Các ông đang hoàng chỉnh dự án rã tỉnh,  ai về nhà nấy. Song vì tôi phát biểu theo bài bản nên chẳng ai chống đối. Kể ra  thì tôi có lý “Ba cây họp lại nên hòn núi cao”. Không nên hòn núi cao vì lỗi  các ông quản lý chưa tốt, làm ăn chưa giỏi, hạch toán kinh tế chưa thông. Song  cũng không tiện tranh luận thêm. Mấy hôm sau khi tôi báo cáo cho trường thì  được cho biết Viện ĐH và Trường đã đề cử tôi đi họp buổi đó với tư cách đại  diện trí thức miền Nam.  Chỉ một lần dự họp đó thôi. Về sau chắc Tỉnh ủy mời người khác. 
                                      Tôi đi Hà  Nội họp nghành   
                                             Ban giám đốc Bệnh Viện Huế thường bảo tôi “anh nên  tranh thủ đi Hà Nội và Viện Mắt một chuyến”. Tôi chẳng ham vì đã ở Hà Nội nhiều  năm, học Y Khoa ngoài đó, nên biết Hà Nội nhiều. Tuy nhiên, khoảng năm 80-81  tôi và BS LVMẫn đáp xe lửa ra Hà Nội dự họp nghành Mắt. Đến ga Hà Nội đã 10 giờ  tối. Trời rét và gió. Hai thầy trò vào ngay một khách sạn ba tầng trước mặt ga  và được dẫn vào một phòng rộng cùng chung vơí ba bốn người khác đang nằm nghỉ. BS  Mẫn yêu cầu KS dành cho tôi một phòng riêng nếu có. Tôi được dắt lên một phòng  nhỏ ở lầu ba, có kê một giường, một bàn có ghế và một tủ nhỏ. Nhân viên KS dặn  bảo “phòng vệ sinh chung cho cả lầu ba, bước ra hiên đi dọc hành lang là đến. Tuy  nhiên đóng cửa, ống nước nghẹt chưa sửa, không có nước dội cầu nên còn rất bẩn.  Có nhu cầu thì xuống lầu trệt, tạm dùng phòng vệ sinh ở đấy, khá hơn. Riêng đi  tiểu thì ở bô đặt ở góc phòng, cạnh tủ”.Tôi đã thấy ngại, trả phòng, xuống lại  phòng lớn, dưới lầu. BS Mẫn nữa đêm điện thoại đến Viện Mắt và chúng tôi đi  xích lô đến đấy. Ở Viện có một phòng nhỏ nhà trệt cho hai thầy trò. Tạm sạch  sẽ, song cũng phải bước ra sân một quảng ngắn đến nhà vệ sinh. Rồi phải đi rón  rén tránh các chổ bẩn nếu muốn xử dụng cầu. Thiếu nước nên không thể dội cầu  thật sạch. Đành vậy. Các hình ảnh ấy tôi vẫn còn nhớ mãi và ngậm ngùi: nhân dân  VN ở miền Bắc còn nhiều khó khăn thật. Song tôi cũng không chê bai oán trách gì  về chính trị. Sau nhiều năm chiến tranh kéo dài, thiếu thốn là lẽ đương nhiên  không thể khắc phục một sớm một chiều. Song thêm vài chục năm nữa mà tình trạng  trên còn tồn tại thì không thể chấp nhận và quy được trách nhiệm. 
                                    Trở về  Huế, BS VHT đảng ủy viên ở trường hỏi tôi: anh ra Hà Nội có ghé thăm lăng Bác  chưa?”Tôi thành thật trả lời định đi song về sau không có thì giờ. BS VHT  nghiêm nét mặt “chổ anh em, tôi khuyên anh, ai hỏi đừng trả lời thế, không có  lợi. Cán bộ đi công tác Hà Nội, bổn phận trước tiên là đến thăm lăng Bác”. Đấy  là một trong năm lần tôi đụng độ bác Hồ. Về sau nầy, lúc công tác ở Sàigòn. Tôi  còn đi với cả phái đoàn Trung Tâm Mắt TP. HCM ra Hà Nội thêm vài lần, song  không hề nghe ai trong đoàn nhắc nhở đi thăm lăng Bác. Xem như đã đi rồi chăng! 
                                      Tôi đi  Sàigòn- BV Biên Hòa đóng cửa  
                                    Dần dà  nhiều người trong ban giảng huấn cũ bằng cách này cách khác đã rời Huế vào Nam. Cuối năm  83, tôi cũng vào Sàigòn để xem tình thế. Anh LNDưỡng, một nhân viên văn phòng  cũ BV Huế mách bảo “đến BV Biên Hòa, có nhiều BS YK Huế lắm, BS Tứ, BS Lộ…Sáng  hôm sau anh Dưỡng chở Honda tôi đi Biên Hòa, đi đột xuất không thông báo trước.  BS PXTứ cùng anh em khác quá mừng rỡ kêu nhau ra chào đón thầy, và nhờ nhân  viên đi tìm gọi các BS chưa có mặt lúc đó. BS Tứ hân hoan tuyên bố “bọn em nghỉ  khám nghỉ mổ, đóng cửa BV hôm nay, để ra nhà hàng liên hoan gặp mặt mừng  thầy”.Thấy tôi còn thắc mắc BS Tứ giải thích “ở đây BS toàn là tụi em, nay đi  với thầy ra ngoài tất nhiên là BV đớng cửa nghỉ”. Thầy trò ăn uống đến xế trưa,  nhiều người hiến kế nói chung chuyển công tác về các BV tỉnh thì dễ, BV Biên  Hòa thì lại gần Sàigòn, nhưng từ trước đến nay chưa BS nào ở Huế được chính  thức chuyển vào Sàigòn.  
                                    Sáng hôm sau tôi một mình cũng đột xuất đến BV Chợ  Quán là nơi có nhiều BSYK Huế công tác: BS B.Hàm, HĐ. Duy, ĐS. Thắng…Thầy trò  tụ họp đông đủ, vui vẻ, song không ra nhà hàng liên hoan, chỉ dùng thức giải  khát của căntin của BV. BS ĐS Thắng, có bộ râu mũi như Saddam Hussein, và trước  đó do tôi bảo trợ luận án tốt nghiệp, tuyên bố “nếu Thầy muốn vào Sàgòn mà gặp  em là coi như trúng tủ, mà không tốn kém gì cả”. BS Thắng nói tiếp “Chủ nhật em  và thầy Hùng (Tiến Sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, GS ĐH YK Huế) thường đi săn ở Thủ Đức  với ông MCT (chủ tịch UBND thành phồ HCM). Tôi còn ngờ vực thì BS Thắng giải  thích “Thầy Hùng rất được Thành ủy và UBND thành phồ HCM o bế vì là một trong 3  trí thức miền Nam đã giúp cho kinh tế sản xuất. Thầy Hùng bào chế các hóa chất  dùng cho kỹ nghệ thành phố”. BS Thắng nói thế mà đúng và có kết quả cụ thể. 
                                        Tôi bị  trụt quân hàm  
                                    Tôi chuyển  vào Sàgòn, đăng ký hộ khẩu mới, khai lý lịch ở địa phương. Công an phường ghi  lại vào lý lịch tôi: ông LBV, thiếu úy quân y, diện ngụy quân…Tôi ngạc nhiên.  Rõ ràng tôi đâu giám khai gian với CM. Về lý lịch,tôi khai tôi là BS trưng tập  với cấp bậc Y Sĩ Trung Úy, và giải ngũ năm 1959, qua BV Trung Ương Huế. Tôi cẩn  thận khai giải ngũ chứ không phải biệt phái. Qua năm 1960, Nha Quân Y đình chỉ  giải ngũ chỉ cho phép biệt phái. CS rất ghét và nghi ngờ chữ “biệt phái”, cho  rằng có mức độ công tác đặc biệt. Lúc tôi còn thắc mắc tìm hiểu thì có người  bảo “ở Bắc BS ra trường chỉ gắn lon Thiếu Úy Quân Y. Ông công an này rành hành  chánh trong quân đội nên tự động sửa sai cho anh, chứ không có gì quan trọng”. Cũng  được thôi. 
                                        Bác Sĩ  ĐHYK Huế được tăng học vị-  
                                    Trong đầu  năm 93, tôi nhận được văn thư sở Y Tế TP HCM mời họp đặc biệt. Số là BS NXA đã  treo bản hiệu và quảng cáo trên báo: BS NXA, Tiến Sĩ Y Khoa, Giải Phẩu Thẩm Mỹ.  Các chữ TSYK đã làm Sở YT nhột nhạt. Ở miền Bắc, sau khi học 6 năm  để thành BS, phải qua các nước CS học thêm 1, 2 năm để lấy bằng Phó TS, lại học  khoảng 2 năm nữa để lấy bằng TS. Lúc đó ở VN tuy có nhiều TS mọi nghành, và  nhiều TS hữu nghị, song hình như mới chỉ có Phó TS YK, rất nhiều. Nay đột nhiên  có một TS YK xuất hiện, vượt trên cả. 
                                    Tôi được  mời họp với tư cách Khoa Trưởng cũ ĐHYK Huế và đã ký vào văn bằng tốt nghiệp  của BS NXA. Sở Y Tế yêu cầu tôi xác nhận chữ ký cũng như muốn tìm hiểu về văn  bằng này. Cũng nhắc lại, trong tháng 4/75 di tản vào Sàigòn tôi có làm ba việc  đáng chú ý. Một là ký vào văn bằng tốt nghiệp BS. Rất nhiều BS nhiều khóa đã  gấp rút đến tìm tôi tại nhà để xin chữ ký vào văn bằng tốt nghiệp, đề phòng di  tản bất chừng. Hai là tôi đã họp với ĐHYK Sàigòn bàn chuyện sát nhập hoặc hổ  trợ. Ba là tôi đã hội kiến với BS Hưỡn, Tổng Trưởng Y Tế, và là một bạn học cũ.  BS Hưỡn đề nghị giao BV Vì Dân cho tôi hoàn toàn, tôi có thể cho SV Huế thực  tập. Song biến cố dồn dập rất nhanh đến ngày định mệnh 30/4. Trở lại Sở Y Tế,  tôi xác nhận văn bằng BS NXA là thứ thiệt. Chữ TSYK là dịch theo tiếng Pháp  hoặc Anh ra tiếng Việt. Sinh viên đã học bảy năm ĐH và tốt nghiệp có luận án. Buổi  họp kết thúc không nêu kết quả. Song nhiều tháng sau, tôi vẫn thấy bảng hiệu và  quảng cáo của BS NXA như cũ, không thay đổi. Nói cho đúng, Doctor Ph.D là tiến  sĩ, là văn bằng cao nhất mà trường ĐH cấp. Còn về nghành Y thì chữ Doctor chỉ  nên dịch ra việt là (văn bằng ) Bác Sĩ- Y Khoa, Nha Khoa, Thú Y…Trước 75 miền  Nam cũng thế, các BS YK có khá nhiều người ra ngoại quốc khối Âu Mỹ học lấy  thêm bằng Tiến Sĩ (Ph.D, Doctor) về khoa học cơ bản: Sinh Lý, Sinh Hóa…hoặc các  bằng chuyên khoa lâm sàng: Nội, Ngoại… 
                                        Hội Ái Hữu  ĐHYK Huế tại Sàigòn 
                                              Các sinh viên  YK Huế ra trường sau 75 chỉ được bổ dụng quanh quẩn ở miềnTrung cho nên hội Ái  Hữu ĐHYK Huế tại Sàigòn lúc đó, cũng kể như gồm các BS trước 75, tập trung ở BV  Chợ Quán số đông, lẻ tẻ một vài người ở BV Sùng Chính, BV Gia Định…Đó là các BS  không về lại Huế sau 30/4 năm 75. Một số khác làm BS tư, một số nữa đổi ra dịch  vụ buôn bán. Song tất cả đều sinh hoạt họp mặt nhiều lần trong năm, quan trọng  nhất là vào dịp Tết, có cả gia đình. Tuy là hội Ái Hữu, song không thấy có Chủ  tịch, phó chủ tịch hội rõ ràng. Cũng không có Bản tin hoặc lá thư chủ tịch. Dám  là một hội chui, lý lịch không rõ ràng. Lúc tôi chuyển công tác vào Sàigòn, các  BS ĐHYK Huế mừng lắm vì từ nay sinh hoạt có thêm Thầy. Lúc đó BS PT Thu thường  đứng ra mời họp, có vẻ là chủ tịch. Có lúc tại tư gia, có lúc tại nhà hàng,  liên hoan vui vẻ mặc dù ở trong hoàn cảnh: vui là vui gượng kẻo mà…Buổi họp lớn  nhất là tại nhà hàng … có đông đủ, thêm một số BS tỉnh và hình như có 1 hoặc 2  BS từ Huế vào. Đến lúc tan tiệc, mọi người đề nghị và BS ĐN Hồ đã hăng hái rút  ra tờ 100 đô mỹ chi phí buổi tiệc liên hoan giữa sự vỗ tay hoan nghênh ầm ỹ.  Trong buổi tiệc chỉ có tôi là thầy, song biết bao nhiêu là trò cũ. Thật vui và  cảm động trong tinh thần thân ái gia đình ĐHYK Huế sống xa trường. 
                                        Hình ảnh  xưa- 
                                    Nay qua  đây, cầm bút ghi lại những sự việc cũ, những hình ảnh xưa dồn dập hiện ra trong  tâm tư tôi. Vui có buồn có, song tất cả đều quý giá. Hình ảnh trong khoa gồm  Trường và Bệnh Viện, nghiêm túc nhưng thân ái, trong hội Ái Hữu vui cười ca hát  song có lúc “Cười lên tiếng khóc hát nên giọng sầu” khi cùng nhắc lại những  hình ảnh đau lòng xẩy ra cùng thời đó, đen tối tang tóc. Trong cơn hoạn nạn,  người ta cảm thông hơn, xích lại gần gủi nhau hơn, cùng chia sẻ ngọt bùi, tình  trường, bạn, thầy trò khắng khít. 
                                    Nhìn ra ngoài, hôm nay trời đẹp. Những tia  nắng đầu xuân còn rụt rè song cũng thừa ấm áp để rọi tan những đám tuyết mùa  đông còn bướng bỉnh sót lại đâu đó trên các bải cỏ đã dớm lấy lại màu xanh. Tôi  thấy trong lòng thư thái: những kỷ niệm, hình ảnh cũ, lông bông trong ký ức khá  lâu, nay đã được bảo quản để cùng chia sẻ trong Tập San Ái Hữu này. 
                                  North York 
                                    Đầu  Xuân 2006 
                                  
                                    
                                        
                                           | 
                                         
                                        
                                          Thầy Lê Bá Vân và ái nữ Lãm Thúy, YKH khoá 19. Hình chụp hôm kỹ niệm 20 năm ngày thành lập hội AHYKH HN tại Fountain Valley, California tháng 8 năm 2006.   | 
                                         
                                                                       
                                   
                                    
                                   |