(Cảm nghĩ của một người học trò của Linh Mục Nguyễn Văn Thích)
                                     
                                         Ngày 12 tháng 8 năm 2001, vào lúc 1 giờ 30 sáng ngày Chủ  Nhật, do lời mời của ban tổ chúc, tôi đến tham dự Lễ Kỷ Niệm 110 năm ngày sinh  nhật và ra mắt ra mắt tập thơ “Sảng Đình Thi Tập” của cố Linh Mục Nguyễn Văn  Thích. Hôm nay, tôi xin ghi lại đôi dòng cảm nghĩ về Cha Thích. 
                                         Trước hết, tưởng  cũng cần giới thiệu qua, tôi là một tín đồ Phật Giáo, nhưng lại là môn sinh của  Cha Thích, và những điều tôi sắp trình bày là tất cả sự chân thành ngưỡng phục  trước một tấm gương sáng ngời đạo hạnh, một nhân tài của Việt nam, mà ngoài  giới giáo sư sinh viên và học sinh ở Huế và Sài Gòn ra, người Việt Nam ít ai  biết đến.                                     
                                    
                                      Ta thường nghe bố câu  hát rất phổ biến:  
                                      
                                         Cái nhà là nhà cuả ta                           
                                           Công khó ông cha làm ra                           
                                           Cháu con ta gìn giử lấy                           
                                           Muôn năm với nước non nhà                            
                                                                      
                                       
                                     
                                         Ai đã sáng tác nên bài ca mộc mạc nhưng  đầy tình nghĩa đó? Xin thưa, đó là Linh Mục Nguyễn Văn Thích. Nhưng Linh Mục  Thích là ai? Tôi xin lướt qua vài nét về tiểu sử của ngài. Linh Mục Nguyễn Văn  Thích (còn có tên Nguyễn Hy Thích) sinh năm 1891, xuất thân từ một gia đình  khoa bảng ở Huế. Thủa thiếu thời, ngài đã từng đi thi hương, nhưng sau khi bị  thi hỏng trường 3, ngài chuyển qua Tây học và làm nhà giáo. Ngài đã chọn con  đường đi tu, làm linh mục. Suốt cuộc đời phục vụ xã hội trên sáu mươi năm, ngài  dạy học, làm báo, viết sách, hoạt động trong nghành hướng đạo, và cũng là giáo  sư tại các trường Quốc Học, Đồng Khánh, Viện Hán Học, Đại Học Sư Phạm, Đại Học  Văn Khoa Huế và Sài Gòn trước năm 1975. Ngài mất năm 19678, thọ 88 tuổi. 
                                         Xin cho tôi lui lại một chút về thời dĩ  vãng của mình tại Huế. Thủa ấy, trường Đại Học Văn Khoa và Viện Hán Học đã cho  tôi nhiều kỷ niệm về nghĩa tình thầy trò. Trong những môn học ở đây, môn chữ  Hán là môn khó nhất. Vì chữ viết thì có quá nhiều nét và khi viết phải mài mực  trên nghiêng, và viết bằng bút lông không phải đễ dàng như viết bằng bút máy.  Vậy rồi tôi được học với cha Thích. Nhìn nét chử cha viết trên bảng vừa nhanh  vừa đẹp, đúng là như “phượng múa rồng bay”, tôi rất khâm phục. 
                                         Có lẽ chsa cũng biết nổI khó khăn của sinh  viên lúc ban đầu khi học hán Văn, nên cha đã tìm mọi cách làm cho cả lớp chúng  tôi thấy ham thích mà học, và nhờ thế, môn học của cha không trở thành khô  khan, “nuốt khó” nữa. Cha vừa dạy bài học, vừa hát lên. Lúc ấy, cả mắt cha,  miệng cha cùng sáng lên một niềm vui! 
                                         Tôi còn nhớ lúc cha dạy bài thơ “xuân  hiểu” của Mạnh Hạo Nhiên (xin ghi lại bài thơ ấy dưới đây): 
                                    
                                      
                                         
                                           Xuân miên bất giác  hiểu 
                                          Xứ xứ văn đề điểu, 
                                          Dạ lai phong vũ thanh, 
                                          Hoa lạc tri đa thiểu. 
                                       
                                     
                                         Sau khi giảng xong bài thơ Đường đó, Cha  liền đọc bài “Say Xuân” do chính cha sáng tác. Cha vừa đọc với âm điệu như lời  ca, vừa dùng tay làm điệu bộ, tôi nghe như cha đang ôm đàn cử lên một nốt nhạc  xuân: 
                                                              Đầm ấm, xuân đầm ấm, 
                                                                  Lai láng, ánh láng  lai 
                                                                  Gió phưởng phất,  phưởng phất 
                                                                  Cành lung lay,  lung lay 
                                                                   Cu cù, cu cù gáy 
                                                                   Se sẽ, se sẽ bay 
                                                                   Riu ríu, riu ríu mắt 
                                                                   Sờ sững, sờ sững say. 
                                         Qua lối diễn đạt  của cha bằng những hình dung từ gợi cảm, chúng ta tưởng như nghe lòng người thi  sĩ đang bừng lên niềm hân hoan vô biên trong một buổi sáng mùa xuân với nắng  xuân ấm, gió xuân nhẹ đong đưa cành lá, và chim chóc đua nhau hót trên cành… 
                                         Trong lúc dạy lớp  chúng tôi, cha không bao giờ la rầy sinh viên, dù có khi sinh viên nghịch phá.  Lúc nào cha cũng giữ một thái độ điềm tỉnh. Cha rất yêu thương sinh viên học  sinh. Ngoài tình cảm yêu thương học trò, cha còn là con người giàu lòng nhân  ái, lúc nào cũng sẳn sàng dốc hết hầu bao để làm việc nghĩa, cứu tế các em cô  nhi, giúp đở học trò nghèo khó, giúp đở bệnh nhân nhà cửa neo đơn.  Hồi đó, cha dạy rất nhiều giờ ở Đại Học, tiền  lương giáo sư của cha rất cao. Vậy mà mỗi khi di chuyển, cha chỉ dùng một chiếc  xe đạp. Và khi cha nhắm mắt, trong tay cha không còn một tài sản nào cả. 
                                         Linh Mục Nguyễn  Văn Thích còn là một con người tài hoa. Trong năm 1960, nhân dịp đi Đài Loan  cùng Tổng Thống Ngô Đình Diệm và một số nhà trí thức uyên thâm, Cha đã làm cho  những người trong chính phủ Đài Loan (bấy giờ có Tổng Thống Tưởng Giới Thạch)  khâm phục tài năng của người Việt Nam. Hôm đó, trong bửa tiệc có một món ăn tên  là Giá Cô (tức chim Đa Đa con), Cha đã nhớ lại bài thơ “Qua Đèo Ngang”  của Bà Huyện Thanh Quang (xin ghi lại dưới đây): 
                                                               Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, 
                                                                    Cỏ cây chen lá, đá chen hoa. 
                                                                   Lom khomn dưới núi,  tiều vài chú, 
                                                                    Lác đác bên sông chợ mấy nhà. 
                                                                    Nhớ nước đau lòng con quốc quốc 
                                                                    Thươnh nhà mỏi miệng cái gia gia. 
                                                                   Dừng chân đứng lại: trời non nước 
                                        Một mãnh tình riêng ,  ta với ta. 
                                         Lúc ấy Cha đã chuyển ý bài thơ trên ra Hán  Văn như sau: 
                                                                 Bộ đáo Hoàng  qua nhật dĩ tà, 
                                                                     Yên ba gian  thạch, thạch gian hoa. 
                                        Tiều quy nham hạ, ta ta tiểu, 
                                                                     Thi tập giang  biên, cá cá đa. 
                                                                     Đỗ Vũ tâm thương,  thanh quốc quốc 
                                                                     Giá cô hồn đoạn,  tứ gia gia 
                                                                     Đình đình trữ  vọng: thiên sơn hải 
                                                                     Nhất phiến cô  hoài, ta ngã ta.  
                                         Bài thơ chử Hán này của Cha mang một vẻ  đẹp cổ kính. Cha đã viết ra một cách tài tình như một thi sĩ Trung Hoa chính  hiệu! 
                                         Tóm lại cuộc đời của cha Thích đã nói lên  những nét sau: 
                                    
                                      - Là  một người tài hoa: viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc
 
                                      - Một  người giàu long bác ái, vị tha
 
                                      - Một bâc chân tu
 
                                      - Một người thầy dạy học tận tâm.
 
                                     
                                         Tôi xin kết thúc  bài này với lòng tri ân và ngưỡn phục đối với một bậc tiền bối, một vị thầy cũ,  không những đã gây ấn tượng sâu sắc cho học trò về kiến thức mà còn về nhân  cách cao quý của ngài nữa.   
                                                                                                                                              Ngọc Khuê 
                                         |