Nguyễn Văn Thuận
Nếu tự do thôi thúc con người đấu tranh cho quyền sống, thì đấu tranh cho quyền sống, trong một giới hạn, cũng bao gồm quyền được chết.
Một hai tuần nay, câu chuyện thương tâm của Terri Schiavo lại xuất hiện trên trang nhất báo chí, trên truyền hình giờ cao điểm, và đè nặng trên tâm tư của dư luận quần chúng. Cho đến lúc này, tối chủ nhật 27 tháng 3 năm 2005, Terri Schiavo đã bị bỏ đói 9 ngày, 9 ngày không một giọt nước. Mọi vận dụng nối lại đường dẫn thức ăn vào cơ thể cho Terri Schiavo đã cạn kiệt, mọi nỗ lực xem như không còn cần thiết, vì Terri Schiavo đang thở những hơi cuối cùng, đang tiêu dùng chút dự trữ cuối cùng của thân xác, phấn đấu để tồn tại như một bản năng trước khi xuôi tay, nhắm mắt đầu hàng một số phận tàn nhẫn của kiếp người.
15 năm trước, một người đàn bà có chồng, tên Terri Schiavo, 26 tuổi, sống ở vùng Tampa, Florida, mang chứng nhiễu loạn dinh dưỡng, bị tim ngừng đập khá lâu vì lượng Potassium trong máu xuống quá thấp. Terri được cứu sống. Bà không chết, nhưng não bộ của bà đã chết, và từ đó, từ năm 1990, Terry sống cuộc sống cỏ cây, sống mà như đã chết, sống mà không biết rằng mình đang sống, không nhận biết ngoại cảnh, không nói, không suy nghĩ, không hiểu, không phản ứng. Terry vẫn thở, tim Terry vẫn đập, vẫn có lúc mở mắt, có lúc khóc, lúc cười, lúc nhăn mặt, lúc quờ quạng tay chân, lại có lúc như ngũ say. Terry không nhai, không nuốt được, không kiểm soát được các hoạt động bài tiết tiêu, tiểu,... Ðó là hình thức sống vô thức, mà danh từ y học gọi là tình trạng thực sinh dai dẵng (persistent vegetative state, PVS) do bởi não bộ đã chết, nhưng phần cuống não vẫn còn hoạt động đủ để duy trì các tác động cơ bản của sự sống. Trong trường hợp này, tim Terry vẫn đập, phổi vẫn thở được mà không cần đến các dụng cụ trợ sinh. Cuộc sống của bà chỉ trông nhờ vào vài lít nước biển và các chất dinh dưỡng được bơm vào cơ thể hàng ngày. Chồng bà, với tư cách giám hộ theo luật định, qua nhiều năm đã không ngừng xin án tòa cho phép được ngưng chuyền nước và thức ăn vào cơ thể của Terry, để chấm dứt tình trạng sống dở, chết dở của vợ. Nhưng cha mẹ bà không chịu. Cuối cùng, môt ông tòa ra phán quyết cho phép chấm dứt cuộc sống của Terry. Thức ăn được ngừng bơm vào cơ thể của Terry trong 6 ngày. Cha mẹ của Terry kiện lên quốc hội, và các nhà làm luật tiểu bang đã cấp tốc thông qua một dự luật khẩn cấp, bất thường chống lại phán quyết cùa tòa án. Ngày 21 tháng 10, 2003, thống đốc Jeff Bush của Florida ký ban hành luật. Ống chuyền thức ăn được nối trở lại, kéo dài kiếp sống thực sinh của Terri. Tổng thống George W. Bush ủng hộ quan điểm của ông Bush em.
Từ đó đến nay, Michael Schiavo, người chồng của người đàn bà bất hạnh đó vẫn không ngừng tìm xin một án lệnh tòa án để chấm dứt tình trạng sống thê thãm của người vợ. Về phương diện pháp lý, cũng như về phương diện tình cảm, Michael Schiavo là người độc nhất trách nhiệm về cuộc sống của người vợ, và trong trường hợp bình thường, một yêu cầu như thế dễ được thỏa mãn nếu được bác sĩ điều trị và luật y xác nhận chính đáng. Nhưng trong trường hợp này, suốt 7 năm qua, 19 ông tòa tiểu bang Florida đã xét qua hồ sơ nội vụ, đã đồng ý với quyết định chấm dứt mọi nỗ lực trợ sinh nhằm kéo dài cuộc sống của Terri Schiavo, nhưng lần nào cũng vậy, các phán quyết đều bị chống đối, và bị chống án tại các tòa trên..
Phải có một cái gì đó bất ổn trong trường hợp Terri Schiavo. Tiền, tình, hay luật lệ thiếu rõ ràng? Có thể là cả ba.
Năm 1992, tòa xử hai bác sĩ có liên hệ trong nỗ lực hồi sinh Terri Schiavo phải bồi thường một số tiền cho Terri với tội danh thiếu cẩn trọng. Michael được chia $300,000. Số còn lại được dùng cho mọi nhu cầu bình thường và y tế của Terri, (số tiền này nay cũng đã gần cạn). Trong ngày lễ tình yêu năm 1993, Michael, ngày đó còn sống chung với cha mẹ vợ, bị áp lực phải chia tiền . Michael từ chối. Mọi liên hệ giữa Michael và gia đình Schindler từ đó chấm dứt. Và cũng từ đó, Terri trở thành nạn nhân cho mọi tranh chấp giữa chồng và cha mẹ. Cả hai phía đều nhân danh tình thương cho một người đang nằm đó để hành hạ lẫn nhau, không ai chịu nhường ai. Mười lăm năm qua rồi, tình thương cũng đã chịu nhiều thử thách, đã mõi mệt, nhưng hận thù thì cứ mãi còn đó, mãi chen lấn vào đời sống của mọi người. Ngày nay, Michael đã chung sống với một người đàn bà khác, đã có hai con, nhưng vẫn chưa thể làm giá thú với người này, vì những ràng buộc luật pháp chưa giải quyết được. Michael càng muốn dứt khoát với người vợ cũ, thì càng bị chống đối bởi gia đình vợ.
Mặt khác, tình trạng y lý của Terri Schiavo cũng đang là một tranh cãi. Terri vẫn còn sống, đó là một điều chắc chắn. Sống trong tình trạng thực sinh, hay trong một tình trạng ý thức tối thiểu (minimally conscious state), thì lại là một điều khác. Những ai theo dõi truyền hình đều có cảm giác Terri vẫn còn là một sinh vật có ý thức, có một chút biểu lộ tình cảm: bà mở mắt nhìn theo người thân, cố vận dụng bắp thịt trên mặt để nở một nụ cười, dầu cho những cố gắng đó chỉ thoáng qua. Nhìn Terri, mọi người vẫn có cảm giác nhìn một người sống. (Phúc trình của bác sĩ William Cheshire, chuyên viên thần kinh học tại y viện Mayo:...yet the visitor has the distinct sense of the presence of a living human being who seems at some level to be aware of some things around her). Và nếu Terri Schiavo vẫn sống, vẫn còn chút ý thức, thì mọi hành vi trợ tử, hay mọi việc làm có chủ ý chấm dứt cuộc sống của bà, dầu được pháp luật cho phép, là hành vi sát nhân, vì quyền được tìm cái chết không thể là quyền được ủy thác. Michael Schiavo không thể viện dẫn ý nguyện của Terri ngày còn trẻ, mong được chết không đau đớn, để ngày hôm nay bức tử người vợ. 15 năm trước, ở tuổi 26, đang độ thanh xuân, có ai nghĩ đến cái chết, có ai nghĩ đến viết một living will. Ðiều bi thảm là ở chỗ đó. Không phải chỉ bi thảm riêng cho trường hợp của Terri Schiavo, mà cho bất cứ một ai khi phải đối diện với cái tàn nhẫn của định mệnh. Cầu mong cho Terri chết đi, là một thôi thúc sâu xa của lòng nhân ái, nhưng bỏ đói Terri cho đến chết là một hành vi độc ác, chắc chắn còn vô nhân hơn chích độc dược cho người tử tù.
Chính vì lý do đó, sau khi Terri Schiavo bị ngưng chuyền nước và thức ăn vào ngày thứ sáu 18 tháng 3 vừa qua, quốc hội đã nhân danh hiến pháp, nhân danh quyền sống của con người, cấp thời can thiệp. Ðó là một nỗ lực song đảng, bipartisan, đệ trình dự luật cho phép cha mẹ của bà Terri yêu cầu tòa liên bang xét lại quyết định của tòa dưới để mở ra một cơ hội sống cho Terri. Tác giả dự luật, dân biểu Texas Tom Delay, gọi tên dự luật là Thỏa hiệp chủ nhật lễ lá, Palm Sunday Compromise, vì được hình thành trong ngày chủ nhật lễ lá. Tất cả dân biểu và nghị sĩ được gọi về DC trong ngày thứ sáu. Thứ bảy, thượng viện thông qua dự án luật. Tổng thống Bush ngưng ngang cuộc nghỉ lễ tại nông trại Crawford, trở lại Hoa thịnh đốn ngày chủ nhật. Ðồng hồ vừa nhích qua ngày thứ hai, hạ viện thông qua dự luật với đa số tuyệt đối, và luật được tổng thống ký ban hành ngay sau đó. Trong trường hợp này, sự can thiệp của lập pháp và hành pháp vào các quyết định tư pháp không phải là một vi phạm nguyên tác phân quyền, cũng không phải là một sự dẫm chân vào nguyên tắc thượng tôn địa phương. Cũng không phải là một quyết định chính trị, dẫu hậu quả sẽ nặng tính chính trị về sau. Bỏ qua mọi tranh cải và kết buộc, những thôi thúc đằng sau phải được xem như là một phản ứng của lương tâm khi người có trách nhiệm phải đối diện với một hành vi giết người. Chỉ tiếc mọi nỗ lực của hành pháp và lập pháp đã không thay đổi được cuộc diện, chánh án tòa liên bang James Whittemore, ngay ngày thứ hai 22 tháng 3 đã bác bỏ lời yêu cầu của ông bà Schindler. Những nỗ lực kế tiếp sau đó cũng thất bại. Xin đừng tranh cải, vì mỗi người có cái lý riêng. Và ngay cả người trong cuộc, cũng có những lý do hành động riêng, những biến thái tình cảm riêng.
Bây giờ thì đôi mắt của Terri Schiavo đã thất thần, lõm sâu hơn, môi khô cằn lại, da dẻ nhăn nhúm hơn, hơi thở mệt nhọc hơn vì thiếu nước và cạn dinh dưỡng. Rồi bà sẽ lịm dần, rồi tim sẽ ngưng đập vĩnh viễn, bà sẽ từ bỏ cuộc đời ra đi, yên phận nghỉ ngơi, bỏ lại đàng sau mọi hận thù, bỏ cả nụ cười và tiếng khóc lại cho nhân thế. Nhưng bà chết yên phận bà, mà chuyện của bà chưa hết, vì người sống vẫn chưa học được thói quen sống trong phẩm giá, chưa bỏ được thói quen chia phần trên xác chết, nên vì vậy, vẫn chưa giành được cái quyền được chết trong phẩm giá, a death with Dignity.
Cái câu chuyện sống, và chuyện chết đó không có chi mới lạ. Vấn đề ở đây là quyền được chết, right-to-die, của con người. Cái quyền đó, cho đến nay vẫn chưa được giải quyết thõa đáng.
Một thi sĩ, tôi không còn nhớ tên, viết bài thơ, trong đó có câu "Ði với về cùng một nghĩa như nhau". Tôi không nhớ trọn bài thơ, cũng không rõ tác giả muốn nói gì qua câu đó. Chỉ biết cái chuyện đi, về có lúc lẩn vẩn trong tôi như chuyện đến rồi đi trong cỏi tạm. Lẩn vẩn như một vấn đề nhân sinh lớn, một ám ảnh dằn vặt kiếp người. Chuyện sống chết, thật sự, khác nhau nhiều lắm. Chỉ đến một lúc nào đó, con người phải gượng ép chấp nhận cái lý vô thường để lý giải sự việc, vấn đề lúc đó sẽ trở nên một thái độ triết lý, để tự tìm cho mình một chấp nhận bình thản trước cái chết. Muốn hay không cũng vậy mà thôi.
Nếu cuộc sống con người là một mặc khải của thượng đế. Thì những gì con người có được là đều do thượng đế ban cho. Vào lúc cuối đời, là lúc trả lại tất cả: trả lại tuổi thanh xuân, sự hăng say, tình yêu, hạnh phúc, sự tinh anh, sắc bén, lòng nhạy cảm, và ý sống. Tóc sẽ bạc trắng, rụng dần, mắt mờ, tai nghểnh ngãng, mũi không còn biết mùi vị, răng không còn mạnh để nhai, phổi không còn trong để lọc khí trời, tim không còn mạnh để rung động, chân không còn vững để cất bước,...Cuối cùng, cái còn lại chỉ là những bất khả, bất lực. Một nỗi bi thương. Ðến lúc đó, chấp nhận cái chết như một điều tự nhiên là hành vi can đảm độc nhất, là cơ hội còn sót lại trong đời sống để mỗi người chứng tỏ cái xứng đáng của mỗi cá nhân trong cỏi nhân sinh. Nhưng cái chết không chỉ đến với tuổi già, và quả thật mơ hồ khi không được sửa soạn.
Còn chi một khi nhắm mắt, xuôi tay. Trong thực tế, từ chỗ chấp nhận cái chết như một đương nhiên, cho đến lúc phải đối diện với cái chết, và biết rằng mình sắp chết là hai chuyện khác nhau nhiều lắm. Ðến lúc đó mới thấy được sự sống quý giá đến chừng nào, và cái chết chỉ là những thê lương tột cùng của cỏi ý thức mà thôi.
Bỏ qua, không nói đến những luận thuyết, những suy tư nặng tính siêu hình, triết lý hay tôn giáo, nhân sinh về cái chết, thì chết (death) và cái chết, hay con đường dẫn đến (dying) , thực tế tự nó, trong ý nghĩa thuần thực nghiệm, cũng đã quá phức tạp.
Từ ngàn xưa, chết là hậu quả của tim ngừng đập, phổi ngưng thở. Xác định đó đầy đủ và chính xác nhất, dầu định nghĩa của chữ chết có thể không đơn giản như vậy, vì tính thực nghiệm không thể tồn tại nếu không có những liên đới và hổ trợ của các ngành khoa học tâm linh. Nhưng từ những năm '60 của thế kỷ 20, những tiến bộ y học, với phát minh các máy trợ sinh ( life-support technology ), và các nguyên tắc cấp cứu được hệ thống hóa và phổ biến ( CPR, cardiorespiratory resuscitation ), các bác sĩ đã có thể giữ cho tim vẫn đập, phổi vẫn làm việc để đưa dưỡng khí đến nuôi dưỡng của các mô, bào, thì cái định nghĩa rất rõ ràng và đầy đủ này đã được xét lại vì không còn hoàn toàn đúng để có thể áp dụng cho mọi trường hợp tử vong. Vì tim đập, phổi làm việc không làm con người tỉnh lại, và có ý thức. Do vậy, từ đầu thập niên '80, sự sống được định nghĩa bằng hai yếu tố: tim, phổi còn làm việc, và não bộ còn sống. Và định nghĩa về cáiï chết được xác định lại như sự ngừng đập của tim, phổi ngừng thở hay não bộ ngưng hoạt động ( loss of all independent lung and heart functions, or irreversible cessation of all functions of the entire brain ). Sở dĩ có sự phân biệt rõ ràng như vậy vì có nhiều trường hợp não bộ đã chết, nhưng tim, phổi vẫn làm việc, hoặc nhờ máy trợ sinh, hoặc do sự hoạt động dai dẵng của hệ thần kinh tự trị (* dinh dưỡng). Như vậy, sống là mọi hoạt động của cơ thể nhằm giữ cho con người có ý thức, và chết chỉ là một sự chuyển thái sinh lý tâm thức từ cỏi ý thức qua vô thức. Tình trạng sống vô thức được xem là tình trạng sống như thực vật, mà tôi tạm dịch là tình trạng thực sinh từ danh từ y học permanent vegetative state.
Ðiều bi thảm trong triết học, cũng như sinh học, không phải là sống hay chết, nhưng là tình trạng chết trong khi còn đang sống. Ðó là tình trạng living death.
Năm 1975, một cô gái 21 tuổi, có tên là Karen Ann Quinlan bị kích ngất đến độ hôn mê vì uống rượu trộn chung với thuốc an thần. Cô được cứu sống nhờ các máy trợ sinh, nhưng não cô đã chết. Từ đó cô sống trong một tình trạng thực sinh dai dẵng. Cha mẹ cô cho rằng thật sự cô đã chết, và trong nhiều năm, không ngừng xin án lệnh tòa để ngưng các phương tiện trợ sinh. Nhưng các bác sĩ trong bệnh viện, dẫu rất thông cảm với gia đình, vẫn cho rằng cô chưa chết.Vụ tranh chấp quanh cái chết hay cái sống của cô kéo dài nhiều năm. Cuối cùng, một tòa án tại New Jersey ra phán quyết cho phép ngưng máy trợ sinh. Máy được ngưng, nhưng khốn khổ thay, tim, phổi cô vẫn hoạt động. Mười năm sau, Ann Quinlan mới thực sự được chết trong một nhà dưỡng lão vì bệnh sưng phổi. Tại Mỹ, hiện tại có khoảng từ 14,000 cho đến 35,000 người đang sống trong tình trạng thực sinh dai dẵng này. Vụ án Ann Quinlan đã khơi dậy vấn đềø quyền được chết, right-to-die. Người sống có được quyền có tiếng nói trong cái chết của mình, có quyền chấp nhận hay từ chối các trị liệu y khoa, đặc biệt trong giai đoạn cuối đời đau ốm, bệnh hoạn triền miên (?). Nhờ vụ án Ann Quinlan, người sống ngày nay có quyền lựa chọn cho mình một cái chết êm đẹp, có thể viết lại ước muốn của mình (living will), hay cũng có thể từ chối mọi nỗ lực cứu sống, bằng cách ký vào văn kiên DNR (Do Not Resuscitate). Trong trường hợp người bệnh không còn đủ tỉnh táo để quyết định, gia đình, thân nhân của người bệnh cũng có quyền yêu cầu điều này trong giờ lâm tử của người thân yêu. Luật pháp của nhiều quốc gia cho đến nay vẫn chỉ đi xa đến độ đó, và vẫn từ chối hay né tránh đưa ra những tiêu chuẩn cho phép chấm dứt đời sống thực sinh, và còn khó khăn, bất nhất và phức tạp hơn trong trường hợp bình thường, như một lựa chọn dựa trên ý niệm tự do. Ví dụ, tự tử vẫn được xem là một trường hợp bệnh lý tâm thần.
Ðiều cần phải hiểu cho rõ là living will ( những dặn dò trị liệu trong cảnh tử sinh ), chỉ cho phép một sự lựa chọn giới hạn trong phương cách trị liệu hay cứu tử người bệnh, hoặc dùng tất cả những phương tiện sẵn có để cứu sống người bệnh, hoặc ngưng hết mọi phương tiện trợ sinh để người bệnh được yên ổn ra đi:
( If, in the judgement of my physician, I am suffering with a terminal condition from which I am expected to die within six months, even with available life-sustaining treatment provides in accordance with prevailing standards of medical care:
- I request that all treatments other than those needed to keep me comfortable be discontinued or withheld and my physician allow me to die as gently as possible, OR
- I request that I be kept alive in this terminal condition using available life-sustaining treatment ( THIS SELECTION DOES NOT APPLY TO HOSPICE CARE.)
Cũng vậy, khi ký giấy DNR, Do Not Resuscitate, mọi nỗ lực hồi sinh (ví dụ hô hấp nhân tạo, xoa bóp cơ tim, dùng điện kích thích cơ tim, thông ống phổi, đặt máy hô hấp, dùng thuốc trợ tim...) sẽ không được sử dụng trong mục đích cứu sống lại người bệnh. Trong cả hai trường hợp, người bác sĩ trị liệu, theo suy xét chuyên môn, vẫn có nhiệm vụ cho người bệnh thuốc giảm đau, chuyền nước cho người bệnh, cho người bệnh ăn, chích thuốc trụ sinh để ngăn chận nhiễm trùng, hay cho thêm chất khoáng để sửa chữa mọi nhiễu loạn hóa chất trong cơ thể. Người bác sĩ không có quyền để mặc cho người bệnh chết, không có quyền giết người bệnh vì bất cứ một lý do nào. Người bệnh, trong lúc tỉnh táo, có thể từ chối thức ăn, từ chối mọi trị liệu, có thể ký giấy AMA ( against Medical Advise ), và xuất viện, nhưng người bác sĩ không thể toa rập với người bệnh hay gia đình người bệnh, để giúp người bệnh chết sớm hơn. Cái chết, do vậy vẫn là quyền tối hậu của thượng đế, dẫu thượng đế có hay không có.
Từ 20 năm qua, đã có những hoạt động trợ tử ( assisted suicide), hay giúp người muốn chết được chết đẹp, euthanasia. Assisted suicide, và euthanasia không giống nhau hoàn toàn, nhưng cũng đều nhằm giúp con người được chết khi cuộc sống không còn đáng sống. Vấn đề đặt ra là người bác sĩ có được cho quyền giúp người bệnh tìm cái chết êm đẹp, hay chấm dứt đời sống của những đứa trẻ tật nguyền, mang tật nặng bẩm sinh, hay sống như câïy cỏ hay không? Không cần viện dẫn các lý do siêu hình hay tôn giáo, câu trả lời vẫn rõ ràng là không một biện minh nào đứng vững trước hành vi giết người, hay giúp người khác tự giết mình. Y hoc, nói chung, và người y sĩ nói riêng, nhằm cứu người khỏi cái chết, và đưa lại cho con người một cuộc sống có giá trị (quality of life). Y học, trong bất cứ một tình trạng nào, cũng không thể nhằm đến mục đích ï chấm dứt đời sống của con người. Ðó là một vấn đềø đạo tắc, và đạo lý (medical ethics, hay bio ethics) bất biến.
Jack Kevorkian là một trường hợp đặc biệt, đáng kinh sợ. Ông là một bác sĩ chuyên khoa về bệnh lý ở Michigan. Năm 1986, ông được biết một số bác sĩ tại Nethetlands đã giúp đở một số bệnh nhân không còn thể cứu chữa được, hay đang bị hành hạ bởi những cơn đau khủng khiếp, được chết. Từ đó, ông vận động để giành quyền cho các bác sĩ được phép giúp bệnh nhân tìm cái chết, và ông đề ra ý niệm cái chết có sắp xếp, planned death. Năm 1989, ông giúp người bệnh đầu tiên tìm cái chết bằng cách sáng chế ra máy bơm thuốc potassium chloride, thứ thuốc được dùng chấm dứt đời sống của những người bị kết án tử hình trong các nhà tù tại Mỹ, vào máu làm ngưng nhịp đập của tim. Máy đó được ông gọi là máy chết, thanatron. Cùng năm đó, người đầu tiên, có tên Janet Adkins, 54 tuổi, bị bệnh Alzheimer đã sử dụng thanatron để tự kết liễu đời mình.. Kevorkian bị đưa ra tòa, bị kết án sát nhân (second degree murder). Nhưng ông được tòa trên tha bổng. Ông mất bằng hành nghề y khoa, không còn có thể mua thuốc KCl theo toa, nên lại sáng chế một loại máy trợ tử khác, gọi tên Mercitron, sử dụng chất thán khí, carbon monoxide, để giúp người bệnh tự tử. Ðã có trên 130 người tìm cái chết bằng máy mercitron. Năm 1998, Kevorkian bị kết án tù 10 đến 25 năm.
Trợ tử, như trong quan niệm Jack Kevorkian, hay chấm dứt cuộc sống của người bệnh ở thời cuối cùng, là những việc làm nhắm vào người sống, có nghĩa là con người còn ý thức. Ngược lại , những người trong tình trạng thực sinh dai dẵng không còn ý thức để quyết định đời họ, và cũng không ai còn có năng quyền pháp lý được ủy nhiệm (power of attorney) để đưa ra một quyết định được pháp luật công nhận. Tình trạng thực sinh dai dẵng do vậy đặt ra những vấn đề không thể giải quyết được cho những người thân, về phương diện pháp lý, hôn phối, bảo hiểm, tài sản,.vv..., nếu luật lệ hiện hành không được thay đổi.
Nếu luân lý và đạo lý không cho phép có những quyết định chấm dứt đời sống của bất cứ một ai, thì những người làm ra luật pháp có bổn phận tìm giải pháp cho những người liên hệ, để họ có thể tìm lại cuộc sống bình thường sau những đau thương xẩy ra cho người thân của họ.Một số đề nghị đã được chấp nhận trong các cuộc hội nghị y học, xã hội và luật y có vẽ hợp lý, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành luật. Những đề nghị đó là: Về phương diện y lý, tình trạng thực sinh dai dẵng được xem là vĩnh viễn 12 tháng sau khi bị tai nạn, hay 3 tháng sau khi não bộ chết vì nguyên nhân không do tai nạn. Cũng vậy, phải có một án lệ rõ ràng được ban hành như một đạo luật để, sau một thời gian luật định, chấm dứt tình trạng hôn phối, thanh thõa tiền bảo hiểm nhân thọ, thi hành di chúc, giải trừ trách nhiệm dân sự cho những người trực tiếp liên hệ với người bệnh. Thời hạn đó có thể là 12 tháng. Cũng sau 12 tháng, trách nhiệm săn sóc, chi phí y tế cho những người được xem là thực sinh phải do chương trình Medicare gánh chịu. Một giải pháp như thế có thể được xem là hợp tình, và hợp lý. Nhưng tiếc thay cho đến nay, vì những lý do tôn giáo, chính trị, các nhà làm luật vẫn chưa tiến xa hơn chút nào trong lãnh vực tạo án lệ cho quyền được chết.
Phần viết thêm: Năm 1977, tối cao pháp viện phủ quyết quyền hiến định, constitutional right, cho phép các bệnh nhân vào thời kỳ cuối cùng được chấm dứt sự sống; nhưng đồng thời, với một tỷ số 5-4, lại giành cho tiểu bang quyền quyết định cho phép, hay ngăn cấm, bác sĩ viết phái thuốc cho các bệnh nhân này được mua độc dược, lethal doses of drugs, để tự hũy mình. Vấn đề, do vậy, được đặt ra là giới chức nào có thẩm quyền điều hợp các luật lệ hành nghề y khoa, tổng trưởng tư pháp, hay tiểu bang? Cho đến nay, văn phòng DEA liên bang có trách nhiệm kiểm soát các luật lệ phân phối thuốc, còn tiểu bang có toàn quyền quy định các luật liên quan đến bác sĩ. Sau phán quyết của Tối cao pháp viện, Oregon là tiểu bang độc nhất có luật cho phép trợ tử, Death and Dignity Act. Từ 1977 cho đến nay, 208 bệnh nhân ở thời cuối cùng được chích thuốc để kết liễu sự sống, trong đó 79% vì mắc bệnh ung thư, 8%, bệnh Lou Gehrig's, 5% bệnh kinh niên về đường phổi, 2%, bệnh liệt kháng, và 6% các bệnh khác. Nguyên nhân được viện dẫn: mất khả năng tự kiểm, loss of autonomy: 87%, đời không còn gì vui: 84%, mất phẩm giá, loss of dignity: 80%.
Từ Nguyên Nguyễn văn Thuận
|