Người viết: Từ Nguyên Nguyễn Văn Thuận 
                                    Bài viết  dưới đây đã được anh NV Thuận gởi cho Ban Biên TậpYKH cách đây trên ba năm nhưng chưa được đưa vào vì khuôn khổ của. Tập San  không cho phép. Chúng tôi  quyết  
  định đưa bài lên website vì tính chất lịch sử của bài vẫn tồn tại  theo thời gian. 
                                                                                                                                                         Ban Biên Tập  
                                           
                                    Thế kỷ 20, thế giới chúng ta đang sống đã kinh qua hai cuộc  đại chiến, được gọi là thế chiến. 
                                    Thế chiến thứ nhất, kéo dài 4 năm, từ tháng 8, 1914 đến  tháng 11, 1918, cuộc chiến đầu tiên tàn khốc nhất trong lịch sử Âu châu,  đẩy 65 triệu người vào lửa đạn, 10 triệu  người chết, 20 triệu người bị thương. Và đó cũng là cuộc chiến toàn diện đầu  tiên trong lịch sử loài người. Các quốc gia tham chiến huy động toàn bộ nhân  lực và tài nguyên  trực tiếp từ  32 nước vào   guồng máy chiến tranh để mưu tìm chiến thắng. Chiến trận khởi đầu từ  vùng trung tâm của tranh chấp, quanh biên giới Pháp-Ðức, Ðức-Nga-Ba lan,  mau chóng lan ra toàn lục địa Âu châu, và các  vùng thuộc địa thực dân ở Phi châu như Togo, Cameron, tây và nam Phi, Á châu,  xa mãi đến Trung hoa, cùng các vùng đảo Thái bình dương, và các nước thuộc đế  quốc Ottoman mà nay được gọi là Trung đông. 
                                    Thế chiến thứ hai, kéo dài lâu hơn - 6 năm, khởi đầu từ lúc  Hitler xé hiệp ước Versailles vào tháng 9, 1939, cho đến lúc Nhật ký hàng ước ngày  2 tháng 9, 1945 tại vịnh Tokyo, trên chiến hạm Missouri. Cuộc chiến này mới  thật sự là một cuộc thế chiến, với 61 quốc gia bị lôi kéo vào cuộc lửa đạn, 3/4  dân số thế giới ( 1,7 tỷ người) là nạn nhân, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp.  110 triệu người bị động viên vào quân ngũ. Cuối cùng của những giao tranh, 25  triệu người lính đã hy sinh, 19 triệu trên chiến trường Âu châu chống Ðức, Ý, 6  triệu trên chiến trường Á châu chống Nhật. Tổng số thiệt hại nhân mạng lên đến  55 triệu, 44 triệu bên phía đồng minh, 11 triệu bên phe Trục. Tổn thất nhân  mạng nặng nhất là Xô Viết Nga, với 13 triệu quân nhân, 7 triệu dân sự, kế đến  là Trung hoa, 3 triệu quân, 10 triệu dân. Ba lan, một nước nhỏ, hy sinh 120  ngàn quân, nhưng số thường dân bị giết lên đến 5,3 triệu. Kế đến là Nhật bản,  với 1,7 triệu quân nhân hy sinh trên các chiến trường Á châu, và 200 ngàn người  dân chết vì hai quả bom nguyên tử dội xuống Trường kỳ và Quang đảo. Mỹ, một  nước xa xôi, tách biệt khỏi vùng chiến trận, cũng hy sinh 290 ngàn quân trên  chiến trường, và 115 ngàn vì các nguyên nhân khác. 
                                    Bên cạnh đó, chủ trương diệt chủng của Hitler cũng tàn sát 6  triệu người Do thái trong cuộc Holocaust, được xem như là những nạn nhân gián  tiếp của chiến tranh. 
                                    Không kể đến những tàn phá do chiến tranh, những thiệt hại  kinh tế, những hủy phá xã hội và các giá trị lịch sử, chiến phí trong cuộc thế  chiến thứ hai lên đến mức phỏng định 1 tỷ tỷ mỹ kim. Hoa kỳ tiêu tốn 340 tỷ, kể  cả 11 tỷ viện trợ cho Nga, 5 tỷ cho Trung hoa, và 3 tỷ cho 35 nước đồng minh.  Ðức đổ 272 tỷ vào cuộc chiến. Nga, 192 tỷ. Anh, 120 tỷ. Ý 94 tỷ. Và Nhật 56 tỷ. 
                                    Nguyên nhân của chiến tranh, dù ở mức cục bộ, hay ở mức đại  chiến cũng không khác nhau: dùng lửa đạn, lấy giết chóc, sử dụng sức mạnh để  thôn tính hay giải quyết tranh chấp. Những tranh chấp có khi xẩy ra từ những lý  cớ rất nhỏ, nhỏ đến độ vô nghĩa. Chiến tranh là phương tiện phục vụ bá quyền,  đế quyền, hay những trò chơi nhân danh của giai tầng thống trị, chính trị hay  tôn giáo, và gần đây hơn, trong các cuộc chiến nổi dậy, giải phóng, cách mạng,  nhân danh một ý thức hệ, nhân danh người dân, nhân danh lý tưởng tự do, dân  chủ. Nhưng nguyên nhân của chiến tranh cũng thường được bắt nguồn từ những phi  lý trong nỗ lực tái tạo hòa bình từ cuộc chiến tranh trước đó, dẫu thời gian  giữa hai cuộc chiến có thể cách nhau cả trăm năm, hay vài chục năm. 
                                    Sau khi Liên quân đập tan mưu đồ bá vương và thống trị của  Napoléon trong cuộc chiến kéo dài từ 1799 đến 1815, Âu châu đã có được 100 năm  hòa bình nhờ vào hiệp ước Vienna, nhằm tái lập một cân bằng quyền lực giữa các  cường quốc, đồng thời cũng cố  chế độ  vương quyền trong hệ thống cai trị tại lục địa, vào lúc đó đã bắt đầu lung lay  bởi cuộc cách mạng Pháp với sự khai sinh các nguyên tắc dân chủ và chủ thuyết  quốc gia. 
                                    Cuộc thế chiến thứ nhất không hẵn được bắt nguồn chỉ vì  những tranh chấp quân sự. Thế kỷ thứ 19, bước qua đầu thế kỷ 20 là giai đoạn  của những ý niệm tự do, dân chủ, công bằng và công lý. Các đế quốc Âu châu do  vậy phải dồn nỗ lực củng cố  sức mạnh chuyên  chế nhằm chống lạisự manh nha của các trào lưu   cộng hòa trong. Khuynh hướng đế quyền đã thắng trong hội nghị Vienna, để từ đó đưa đến  nỗ lực tài binh và việc hình thành các liên minh quyền lực. Khi Ðức quốc thống  nhất thành hình năm 1871, và liên hiệp Áo-Hung ra đời, kéo theo Bảo gia lợi và  đế quốc Ottoman, thế quân bình lực lượng không còn tồn tại, và những tranh chấp  âm ỉ trong suốt cả thế kỷ bùng nổ. Hoa kỳ nhảy vào cuộc chiến rất chậm, phần vì  chủ trương đứng ngoài ( isolationism), phần khác vì những khuynh hướng dị biệt  trong các tập thể dân Mỹ  gốc Ðức và Anh.  Cuối cùng, khi hải quân Ðức không còn   hạn chế vùng biển hoạt động, chủ trương đứng ngoài bị lung lay. Ngày 22  tháng 1, 1917, tổng thống Woodrow Wilson đọc thông điệp trước quốc hội. Thông  điệp được mang tên  Không vì chiến thắng,  chỉ vì hòa bình ( Peace without Victory ). Tháng 4, 1917, Mỹ chuyển quân và gởi  viện trợ đến phe đồng minh. 
                                    Khi kẻ chiến thắng ngồi lại trong tại thủ đô nước Pháp vào  tháng giêng, 1919 để giải quyết những vấn đề còn lại của chiến tranh, và mưu  tìm một nền hòa bình trường cửu cho Âu châu, thì hội nghị Versailles đã chỉ là  một cuộc chia chác chiến lợi phẩm. Tổng thống Wilson của Hoa kỳ cố gắng vận động thành lập  một tổ chức quốc tế có năng quyền giải quyết tranh chấp và và điều hành một thứ  trật tự chung cho toàn thế giới. Hội Quốc liên ( League of   Nations) ra đời, nhưng đã không có đủ thẩm quyền để thi hành nhiệm  vụ giao phó. Dầu vậy, tổng thống Wilson  vẫn gọi cuộc thế chiến thứ I là  Cuộc  chiến khai tử mọi ý đồ chiến tranh, the war to end all wars. Trong lúc đó,  thống chế Foch của Pháp lại nghĩ  Không  có hòa bình, chỉ là một cuộc đình chiến 20 năm, this is not peace, it is an  armistice for 20 years. 
                                    Và quả đúng vậy, đúng 20 năm sau, thế chiến thứ hai bùng nổ,  còn tàn khốc, còn kinh khiếp gấp trăm lần cuộc thế chiến thứ nhất. Nguyên nhân  gây ra cuộc thế chiến thứ hai, ngoài những bất mãn âm ỉ và những hận thù truyền  kiếp giữa các dân tộc, những tranh chấp quyền lợi địa phương, còn có một lý do  sâu xa hơn: đó là sự hình thành  chế độ  cộng sản tại Nga. Trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, một hình  thái chính quyền xuất hiện: phát xít, facism, theo tiếng Ý. Ðó là một thứ chủ  nghĩa quốc gia cực đoan, độc tài quân phiệt, nationalistic, militaristic  totalitarianism, thành hình tại Ý dưới thời Mussolini, kế đến là hình thức Quốc  Xã, tại Ðức, và sau đó là chủ thuyết Ðại Ðông Á của nhóm quân phiệt Nhật bản.  Ðức, Ý, Nhật tạo thành phe Trục. 
                                    Phe Trục thua. 30 tháng 4, 1945, Hitler tự tử. Ngày 7 tháng  5, người kế vị, thống chế Karl Doenitz chấp nhận cho ký hàng ước nơi đại bản  doanh của tướng Eisenhower, tại Reims. Ngày 8  tháng 5 là ngày V-E Day, Victory in Europe.  Ngày 6 và 9 tháng 8, hai trái bom nguyên tử bỏ xuống Trường kỳ và Quang đảo.  Ngày 14 tháng 8, 1945, Nhật đầu hàng. 
                                    Suốt trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, khi chiến  thắng đã ló dạng, nhiều hội nghị liên tiếp   đã được mở ra trong phe đồng minh nhằm giải quyết những vấn đề của chiến  tranh, tái thiết Âu châu, và xây dựng hòa bình. Phải nhiều năm về sau, những  tài liệu giải mật mới cho thấy từ Casablanca, qua đến Tehran, Portdam,Yalta,...  tinh thần hội nghị Versailles vẫn còn tồn tại. Tất cả chỉ là một cuộc chia  phần. 
                                    Thế giới, sau thế chiến thứ hai, được chia thành hai vùng  ảnh hưởng. Ðó là cái thế giới mà những năm về sau thường được gọi là thế giới  lưỡng cực. Liên bang Xô viết được chia phần Ðông Âu, xâm chiếm Mãn châu để tạo  thế thắng lợi cho Trung cộng. Mỹ bỏ rơi Tưởng Giới Thạch, để giao trọn lục địa  cho Mao Trạch Ðông, Ðức và Cao ly bị phân chia. và cuối cùng là một nước Do  thái được thành hình ngay trong lòng các quốc gia Ả rập, bên bờ phía đông Ðịa  trung hải. Hậu quả là Stalin đã xây dựng được một thế giới đỏ, thiết lập lại  chế độ chư hầu, lần hồi trải rộng sự kiểm soát gần cà 2/3 thế giới. Hậu quả là  một Tây Âu rữa nát, bất động và thụ động. Hậu quả là một chính sách hổ trợ vô  điều kiện Do thái tại Trung đông, để lần hồi ngày càng gây thêm căm thù và chia  rẽ giữa các quốc gia Ả rập, hồi giáo và thế giới tây phương. 
                                    Hoa kỳ là lãnh tụ của một khối quốc gia tây phương cường  thịnh về kinh tế, mạnh về quân sự, và lấy tự do, dân chủ làm căn bản của mọi  hình thái sinh hoạt chính trị và xã hội. Mọi trách nhiệm bảo vệ thế giới tự do,  phát huy dân chủ, đòi hỏi quyền làm người và quyền được sống hình như đều được  đổ lên đầu Hoa kỳ. Sau chiến tranh, Hoa kỳ dồn mọi nỗ lực tái thiết Âu châu,  phục hồi kinh tế Nhật, bảo vệ Ðài loan, trải quân ra khắp thế giới để sẳn sàng  ứng phó mọi biến chuyển tình hình. Tháng 6, 1950,  khi Bắc Hàn tràn qua vĩ tuyến 38, tấn công  miền Nam, Hoa kỳ, dưới lá cờ Liên Hiệp Quốc, cùng một nhóm nhỏ quân đồng minh  gồm các nước Gia nã đại, Anh, Úc, và Thổ nhĩ kỳ, tạo thế liên quân để bảo vệ  Nam Hàn. Tháng 10, 1950, Trung cộng gởi hàng triệu quân chí nguyện qua giúp Kim  Nhật Thành. Cuộc chiến kéo dài 3 năm. 
                                      Tây Âu, quá kinh sợ  chiến tranh, đã trở thành bất động, để mặc Ðông Ðức xây bức tường Bá linh, tạo  thành biểu tượng phân cách Tây và Ðông, để mặc Stalin xua xe tăng và đại pháo  đàn áp các phong trào nổi dậy ở Hung gia lợi, Ba lan, Tiệp khắc,...Ðể mặc hàng  triệu sinh linh bị tàn sát ở bên kia bức tường ô nhục đó. Tự do, dân chủ, mạng  sống con người, chỉ có giá trị ở phía bên này. Quả đúng vậy, đó là một bức  tường ô nhục. Không phải ô nhục cho cộng sản. Nhưng là ô nhục cho những con  người nhân danh tự do, dân chủ, nhân quyền đã run sợ trước bạo lực,  lấy một bức tường để che đậy lương tri, và tự  bằng lòng với những gì đang có. Thử đọc lại lịch sử để có một nhận thức rõ ràng  về cái tập hợp được gọi là thế giới tự do, ngoại trừ Hoa kỳ, trong suốt 40 năm,  từ 1950, cho đến cuối thập niên '80, đã làm những gì để ngăn chận làn sóng đỏ.  Tệ hại hơn thế, họ đã bất hợp tác với Hoa kỳ trong cuộc tạo nên một cuộc chiến  Việt nam để đưa những tranh chấp, đưa chiến tranh ra khỏi Hoa kỳ, Âu châu, và  Tây bán cầu. Và càng tệ hại hơn thế, khi đã có một thời, ngay chính những con  người ở bên này bức tường Bá linh, chạy theo cộng sản là một mốt thời thượng  trong sinh hoạt trí thức, và trong cách suy tưởng cá nhân. 
                                    Ðã có bao nhiêu nhân mạng bị tàn sát bởi cái trí não điên  cuồng của hai con người, chỉ có hai con người mà thôi, chứ không nói gì đến chế  độ, Stalin và Mao Trạch Ðông? 100 hay 200 trăm triệu? May mắn thay, chế độ cộng  sản đã tự bị hũy diệt. Và cái hệ quả bi thảm nhất sau đê nhị thế chiến, gây bởi  những bàn tay phù thủy quanh các bàn hội nghị   tạo ra, đã được hóa giải. 
                                    Cái hệ quả thứ hai, việc cho hình thành một quốc gia Do thái  ngay chính giữa lòng các quốc gia Ả rập hồi giáo là còn đó, đeo đẳng, nhức  nhối, và nếu không khéo sắp xếp, có cơ sẽ là nguyên nhân của một cuộc chiến  thứ  3. Có thể quyết định cho hình thành  một quốc gia Do thái là đúng và hợp lý vào thời điểm 1948, sau những tang  thương mà dân Do thái đã gánh chịu qua bao nhiêu thế kỷ, và sau hơn 50 năm chịu  bao nhiêu hy sinh trong cuộc exodus  để  tìm về mãnh đất quê hương ngày xưa, nơi vùng đất Palestine đó. Nhưng ngay sau  khi một quốc gia Do thái được thành lập, cuộc chiến Ả rập - Do thái đã xẩy ra  trong hai năm 1948-1949. Cuộc chiến đầu tiên này có năm nước hồi giáo tham dự:  Ai cập, Jordan, Syria, Liban và Iraq. Cũng từ đó đến nay, chiến  tranh Trung đông không bao giờ ngưng nghỉ. Cũng từ đó đến nay, Hoa kỳ và Tây  phương luôn đứng sau lưng Do thái, cung cấp võ khí, đạn được, hổ trợ kinh tế  cho một khối lượng 5 triệu người chống lại cả một thế giới Hồi giáo. Sự  hổ trợ nghiêng lệch và không điều kiện này đã  lần hồi đào sâu thêm hận thù giữa thế giới hồi giáo và Tây phương. Mặt khác,  các quốc gia Ả rập ngày càng suy yếu vì chính sách  tận triệt khai thác các nguồn lợi thiên nhiên  về dầu hỏa và khí đốt của tây phương, đồng thời với chủ trương làm ung thối đời  sống chính trị bằng cách dung dưỡng một giai tầng cai trị bất xứng, bóc lột và  tàn nhẫn, để cướp đoạt tài nguyên kinh tế. 
                                    Với sự sụp đổ của thế giới cộng sản tại Liên bang Xô viết và  Ðông Âu, cái thế lưỡng cực cũng không còn tồn tại. Và khi mà một trật tự mới  chưa hình thành, thời cảnh nhiễu nhương ắt phải xẩy ra. Cơ hội vùng dậy cho các  quốc gia Ả rập và thế giới hồi giáo đã tới, và một hình thái chiến tranh ắt  phải xẩy ra. Hình thái chiến tranh thích hợp nhất cho kẻ yếu là hình thái chiến  tranh khủng bố. 
                                    Cuộc chiến vùng vịnh, tháng giêng 1991, dưới thời tổng thống  George H. Bush, càng đào thêm hận thù giữa các quốc gia hồi giáo và tây phương.  Vì Bush không chủ trương triệt hạ chế độ Saddam Hussein, mà chỉ lấy lý cớ giải  phóng Kuwait để đưa quân vào Trung đông,   thiết lập các căn cứ quân sự tại Ả rập Saudi, Yemen, và một số cứ điểm  khác, tạo thế mạnh quân sự trong một thế chiến lược xâm lăng mới. Ngọn lửa âm ỉ  trong nhiều chục năm đã tạo sinh ra trong thế giới hồi giáo, vốn là một tôn  giáo yêu chuộng hòa bình,  những tín đồ  cực đoan chủ trương bạo động để giành lại chủ quyền dân tộc và lãnh thổ. Al  Qaeda ra đời. 
                                    Biến cố 11 tháng 9, 2001 không là một bộc phát nhất thời,  nhưng là kết quả của bao nhiêu năm dồn nén vì bị đối xử bất công, bóc lột và  khinh khi. Người dân Mỹ bình thường không thấy được cái lý, cái nhân và cái  quảù của những hành động khủng bố mà họ coi là dã man khi những trái bom máy  bay phá sập hai tòa nhà trung tâm thương mãi ở Nữu ước, hay một góc Ngũ giác  đài, giết hại gần ba ngàn người vô tội. Họ không nhớ chính quyền của họ đã dung  dưỡng những hoạt động khủng bố tàn sát người Palestine, những võ khí của các  quốc gia tây phương, qua bàn tay của những người lính thiện chiến Do thái đã  hũy diệt bao nhiêu sinh mạng đàn bà, con trẻ qua bao nhiêu năm tranh chấp, hận  thù trên cái lục địa bình an của thế giới hồi giáo. 
                                    Chính quyền Mỹ, trong suốt 50 năm, đã không thành công trong  nỗ lực hòa giải Do thái - Palestine,  và cũng đã chưa một lần thay đổi chính sách đối xử với các dân tộc hồi giáo,  sau biến cố 11 tháng 9, đã không thể làm gì hơn là giải quyết chiến tranh bằng  chiến tranh. Trận chiến A phú hãn là một thành công, không chỉ vì đã đánh thẳng  vào sào huyệt của Al Qaeda, đưa chiến tranh ra xa, nhưng còn đạt mục đích làm  người dân Mỹ tin tưởng vào sức mạnh quân sự của đất nước, tin tưởng vào quyết  tâm của lãnh đạo, lòng ái quốc, và tự hào dân tộc.  Cũng trong thời gian đó, Mỹ sửa soạn cho  chiến trang Iraq.  Hàng trăm ngàn quân Mỹ đã được đưa qua vùng Vịnh. Hàng trăm triệu  tỷ mỹ kim quân trang, thiết bị đã phải tiêu  phí. Người dân Mỹ sẵn sàng, và chờ đợi. Chiến cuộc chắc chắn phải xẩy ra, không  ai ngăn chận được. Liên hiệp quốc và đồng minh trở thành những yếu tố thứ yếu. 
                                    Ngày hôm nay, vào thời điểm cuối cùng của cuộc chạy đua vào  tòa Bạch ốc, cuộc chiến Iraq  đã trở thành đề tài chính trong cuộc tranh cử. Chính quyền Bush, và cá nhân  tổng thống Bush đang chịu nhiều chỉ trích: tắc trách, vội vã, cao ngạo, coi nhẹ  đồng minh, tình báo yếu kém, cung cấp dữ kiện thiếu chính xác, ảnh hưởng đến  quyết định, ngụy tạo lý cớ để gây chiến tranh, như trong vấn đề WMD, vũ khí  hạch tâm, nướng quân vì thiếu trang bị và vũ khí,...và cuối cùng, cuộc chiến  Iraq bị kết án là thiếu chính nghĩa. 
                                      
                                    Trong chính trị của Hoa kỳ, chính sách đối ngoại thường nặng  tính lưỡng đảng, dựa trên quyền lợi quốc gia, tư bản, và sức ép quần chúng.  Trong bối cảnh hai năm về trước, nếu chính quyền là một chính quyền dân chủ, vị  tổng thống đương nhiệm chắc chắn đã không thể có được một quyết định khác hơn.  Tin tức tình báo có thể sai lệch, bị bóp méo, hay thiếu chính xác. Iraq  có thể có, hay không có, vũ khí có sức tàn phá lớn, đầu đạn nguyên tử, hay vi  trùng. Những điều đó thực sự không làm thay đổi quyết định chiến thuật của  chính quyền Mỹ, dù là cộng hòa hay dân chủ. Vì những điều đó không phải là mục  tiêu chiến lược của cuộc chiến. Và lại càng không đúng khi cuộc chiến được gán  ép với những lý tưởng tự do, dân chủ và nhân đạo. Saddam Hussein là một nhà độc  tài tàn nhẫn. Ðúng vậy. Nhưng chính quyền Mỹ đã không hy sinh mạng sống của  người dân, tiêu phí hàng trăm tỷ mỹ kim vì hàng trăm ngàn người dân Iraq  đã chết dưới bàn tay máu của Hussein. Chính quyền Mỹ đã khơi động cuộc chiến  Iraq vì muốn biến Iraq thành một chiến trường chống khủng bố, vì muốn trả lại  cho người dân một cứ địa an toàn, muốn phục hồi niềm tin quần chúng, muốn đời  sống kinh tế và xã hội trở lại bình thường. 
                                    Cuộc sống của người dân Mỹ, và của thế giới, hôm nay có khá  hơn, có an toàn hơn hai hay 3 năm trước? Câu trả lời tùy thuộc từng người. Chân  lý không hẵn lúc nào cũng  hiển hiện, và  cần thiết. Ðiều rõ ràng là người dân Mỹ đã có lại được đời sống bình thường,  bình tỉnh hơn trước biến cố,  kinh tế  khá hơn, và vững tin hơn vào sức mạnh quân sự  của đất nước. 
                                    Nhưng một điều khác cũng rõ ràng, là chính quyền ông Bush  đang sa lầy tại Iraq,  và cuộc chiến chống khủng bố đang có nguy cơ lan rộng, kéo dài. Cuộc chiến Iraq  hôm nay đã trở thành cuộc chiến đếm xác, như chiến trường Việt nam ngày nào, 35  năm về trước. Nhưng nước Mỹ đang sa lầy không vì thiếu sự hổ trợ của đồng minh,  không vì thiếu quân số, không vì trang bị thô sơ, hay vì những sư đoàn vệ binh  của Hussein còn khả năng chiến đấu. Nước Mỹ đang sa lầy, vì ông Bush đã không  thành công trong việc rao giảng điều được gọi là chính nghĩa trong cuộc chiến: lật  đổ Hussein, trả lại cho người dân Iraq tự do, dân chủ, và một đời  sống xứng hợp hơn. Không, người dân Iraq, dù căm thù Hussein, đã không đứng bên  cạnh những người lính chiến Mỹ để đạp đổ một chế độ độc tài, và xây dựng đất  nước. Sự hiện diện của đoàn quân viễn chinh Mỹ, và đồng minh, nay đã biến những  người Iraq bình thường trở thành những tín đồ hồi giáo cực đoan, đang sẵn sàng  chết cho một cuộc thánh chiến, và đang biến những nỗ lực bình định thành những  cuộc tàn sát kẻ ngoại đạo, tà đạo. Chiến trường cũng biến thể, từ quy ước, nay  trở thành vùng đất cho những hoạt động khủng bố công khai và hàng ngày. Bên  cạnh những người lính Mỹ và đồng minh bị chết vì những trái bom xe, còn cả trăm  người, mang đủ mọi quốc tịch, trong lãnh vực dân sự vụ bị bắt cóc, bị chặt đầu  vì những đòi hỏi của quân khủng bố không được thõa mãn. Và như vậy, dẫu còn hạn  chế, quân khủng bố đã mặc nhiên tuyên chiến với thế giới. 
                                    Song song với chiến trường Iraq, những hoạt động khủng bố  của nhóm tín đồ hồi giáo cực đoan còn trãi rộng đến nhiều nơi như Nam dương,  Phi luật tân, ...và gần đây nhất, tại Beslan, Nga. 
                                    Một khi những đòi hỏi khó thể tương nhựơng của quân khủng bố  không được đáp ứng, một khi những người dân vô tội tiếp tục bị chặt đầu, những  xác trẻ thơ vẫn bị xé banh vì chất nỗ, và mức dộ chịu đựng kiệt quệ, thế giới  bắt buộc phải phản ứng. Chiến tranh khủng bố sẽ lan rộng. Những người hồi giáo  ôn hòa, vì lý do tôn giáo hay chủng tộc, sẽ trở thành cực đoan, kình chống lại  tây phương. Thế giới có trên 1 tỷ người theo hồi giáo. Một cuộc chiến giũa  những người hồi giáo chống lại những kẻ ngoại đạo sẽ là một cuộc thế chiến sẽ  còn tàn khốc gấp bội cuộc thế chiến thứ nhất và thứ hai. Viễn tượng đó thật là  kinh khủng. 
                                    Từ Nguyên Nguyễn văn Thuận. 
                                             
                                     |