Chúng tôi gặp đồng môn Lê Quang Thông, YKH # 12, trong chuyến anh đến  Hoa Kỳ khi thân phụ của Thông, cựu Đại  tá Lê Quang Bình, nguyên  Tư lệnh phó Quân khu II đặc trách duyên hải (Tướng Phạm văn Phú là Tư lệnh), trước đó chức vụ cao nhất đã từng giữ là Tham mưu trưởng Quân đoàn II (Trung tướng Ngô Dzu là Tư lệnh)  trước 1975, qua đời  vào tháng 2, năm 2008. Qua chuyện trò với Thông ở lần hội ngộ nhóm bạn trẻ XO ở  nhà anh chị Bửu Phụng, chúng tôi mới biết Thông có tài nói chuyện tiếu lâm rất  hay, hát rất hay và là một Bác Sĩ nổi tiếng về Siêu Âm ở Đà Nẳng trong nhiều  năm qua. Xin giới thiệu với quý ACE bài viết dưới đây "Y KHOA VÀ CƠ DUYÊN” mà  tác giả là một người phải đi bán thuốc ở chợ trời sau 1975 và từ từ vươt nhiều  khó khăn đương thời trong bùn dơ để có được cuộc sống hôm nay. Chúng tôi cũng  mong quý ACE đọc bài viết với tinh thần rộng mở. 
                                        Vĩnh Chánh. 
                                      
                                    Trong gia đình tôi, khi những người con sinh ra Ba tôi đều có chấm một  lá số tử vi. Tôi vẫn còn giữ lá số đến ngày nay, người chấm lá số tử vi là ai  tôi không rõ, không để tên người bình giải vì khiêm tốn hay sợ giảm thọ vì  “thiên cơ bất khả lậu”? Lá số trên giấy vở học trò năm 1953, viết bằng chữ Hán,  phần luận giải bằng chữ quốc ngữ, viết bằng bút máy nét mực rắn rỏi chữ đẹp, chứng  tỏ là người ấy phải là một khóa sinh,có thể rớt Tú tài (Tú Xương chẳng hạn!) về  chấm Tử vi kiếm sống qua ngày nên học cả hai nền Hán học và Tây học… 
                                                                          Phần luận đóan cung mạng có  ghi lá số của tôi có các sao Thiên quan,Thiên phúc,Thiên y… cộng với chính tinh  Cự môn đóng ở cung Ngọ ắt phải là Thầy thuốc… có khoa ăn nói có khiếu văn  chương? 
                                                                          Ba tôi rất vui mừng và khuyến  khích tôi học y khoa, ngày xưa Ba tôi là con nhà nghèo vừa học đệ tứ niên (chuẩn  bị thi Diplôme) tại trường Việt Anh (Huế) vừa là gia sư (precepteur) gia đình  ông Phán Triêm, gia đình này về sau phát y dược có hai người con trai nổi tiếng  trong y giới là Bác sĩ nhi khoa Võ văn Tùng và Bs Võ văn Đạt (hiện còn sống ở  Cali), thời thế lọan lạc Ba tôi gia nhập Võ bị Đà lạt để làm quan võ vẫn thường  qua lại với gia đình ông Phán Triêm… khi nhỏ lúc đau yếu ba tôi thường dắt qua  phòng mạch Bs Võ văn Tùng ở chợ Cây me Đà nẵng, tôi rất khâm phục, ngưỡng mộ và  ấn tượng Bác sĩ cao to oai vệ trong tôi từ đấy… Mối giao hảo giữa ba tôi và Bs  Tùng vẫn qua mãi tận Little Saigon-Cali sau này, gần đây qua người cháu rể là  Bác sĩ Trần Xuân Qúy ,Bs Võ văn Tùng lại đến thăm nhà tôi thật là vinh dự không  sao kể xiết… 
                                                                          Trong thâm tâm ba tôi lúc đó  rất mong những người con sau này sẽ là bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo… và gia đình họ  Võ của ông Phán Triêm là hình ảnh mẫu mực thành đạt về học vấn đối với Ba  tôi…và luôn nêu gương đó cho anh em chúng tôi học tâp. 
                                                                          Ngày đậu tú tài hai ban B hạng  bình thứ, tôi chưa có định hướng học ngành gì, nên ghi danh vào Dự bị Khoa học để  chuẩn bị thi vào y khoa là theo ý thích của Ba tôi, nhưng trong lòng tôi rất  thích phi công, tôi chỉ nghĩ làm sao điều khiển một cánh sắt bay trên bầu trời  là sung sướng lắm rồi, chứ không nghĩ thời chinh chiến, lái máy bay cũng mất mạng  vì phòng không hay tên lửa như chơi… lúc nhỏ tôi đã mê mô hình máy bay và cho đến  cả ngày nay tôi luôn thích làm sao điểu khiển máy bay và hôm nay tôi vẫn mê máy  bay điều khiển vô tuyến… 
                                                                          Tôi cũng không hiểu vì sao  tôi rất thích thú khi nhìn bầu trời hàng đêm với các chòm sao,hay là vì lúc còn  trong Hướng đạo, khi là “Sói con” tôi đã có bằng Thiên văn và chỉ các chòm sao  vanh vách.. . Lúc nhỏ tôi đã chế các kính thiên văn theo tạp chí khoa học đến  nay kính thiên văn tài tử nào vừa túi tiền là tôi mua tất… Cho nên có tỷ phú bỏ  20 triệu đô la để bay vòng quanh vũ trụ đối với tôi chẳng có gì lạ… cho nên có  những người bạn thích chơi hoa, cây kiểng, nuôi cá cảnh… tôi rất tôn trọng vì  cái sở thích thì không ai giống ai… 
                                                                          Thích thú bay trong không  gian hay ngắm nhìn vô tận của vũ trụ bao la… dường như có những nhân vật ảnh hưởng  đến sở thích và quan niệm nhân sinh của tôi rất nhiều phát xuất từ thiên văn, vũ  trụ. Đó là Gia Cát Lượng, nhân vật trong Tam quốc mà lúc 8 tuổi tôi đã đọc  trong tủ sách của ba tôi… lớn lên đọc lại rất nhiều lần… phát hiện nhiều thú vị  và tôi mới hiểu một trong Thất tử tài thư của Trung hoa đã làm say mê không biết  bao thế hệ chứ không phải riêng tôi, một trong những lý do tôi yêu nhân vật Gia  Cát Lượng là xem sao trên trời biết được chuyện trần thế…, biết chia ba thiên hạ,  biết Bàng Thống sẽ chết… biết có sương mù để mượn tên Tào Tháo, biết xem thiên  tượng có gió Đông nhưng vẫn lập đàn hô phong hóan vũ “lừa” Chu Du, để có công  lao không nhỏ trong trận hỏa thiêu quân Tào tại Xích Bích để kiếm ít đất đai tạo  thế chia ba chân vạc sau này. Và điều gây ấn tượng nhất là trấn áp sao tướng  tinh trên trời đừng cho rơi rụng để cầu thọ… thuở nhỏ đọc đến đây là tôi tức Ngụy  Diên lắm, tại sao y hồ đồ đạp đổ đèn Thất tinh mệnh chủ… thương cho Gia Cát tiên  sinh không sống thêm vài năm trung hưng nhà Hán… 
                                                                          Người ảnh hưởng thứ hai là  nhân vật hiện đại: Tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận, ông đã viết những cuốn sách thiên  văn vũ trụ và liên hệ với Phật giáo… từ đó tôi càng tin những gì tồn tại trong  vũ trụ này liên hệ với nhau như hệ lưới, và các giao điểm là những Duyên sẽ xảy  ra theo mối liên hệ Nhân Quả. 
                                    Cho nên một vài kỷ niệm còn  nhớ trong ký ức là vô số những gì đã trải qua trong đời - có những kỷ niệm hay  hơn nhưng không nhớ hết - hôm nay tôi ghi lại để các bạn cùng chia sẽ: Y khoa  và Cơ duyên. 
                                    Đạt mảnh bằng dự bị khoa học  khối B để chuẩn bị thi vào y khoa Huế lúc đó cũng không phải dễ dù ghi danh tự  do, và hỏng chỉ có con đường là học tiếp cử nhân Sinh hóa, hai là vào binh nghiệp  nếu không được hõan dịch…học vấn. 
                                                                          Khi làm bài thi xong tôi  nghĩ chắc khó đậu… lúc đó Y khoa Huế chỉ thi ba môn: Tóan làm đựơc nửa bài, Anh  văn làm được 2/3, riêng Kiến thức tổng quát 5 câu tôi làm đúng 5 câu. Tôi thi đậu  y khoa vị thứ 50 trong tổng 55 thí sinh trúng tuyển năm đó. 
                                                                          Đúng là cơ duyên đầu tiên  tôi đậu y khoa là một may mắn, nhờ thú ham đọc sách báo,đã giúp tôi đậu y khoa  như một số sinh viên khác, chưa chắc học gạo đã đậu. Tôi còn nhớ năm đó có các  câu hỏi như Nguyên sóai Zhukov là ai, về nghệ thuật dùng binh với tướng Trần  Hưng Đạo của ta giống nhau điểm nào, Bản thảo Cương mục tác giả là ai, bạn hãy kể  7 kỳ quan thế giới… Tháng 9 đen (Black Setempber) là gì?... 
                                                                          Vào học y khoa năm thứ nhất, cơ  duyên nữa là ở chung phòng với các bạn Nguyễn đình Phương, Nguyễn đình Tiến, Nguyễn  anh Tú… rồi quen các bạn Nguyễn văn Dũng, Nguyễn Hải Thủy… và người đàn anh  kính mến biệt danh Coco – Bs Trần Lương Hoa – anh rất yêu văn nghệ bỏ tiền mua  nhạc cụ lập ban nhạc đặt tên Cocobrother, chúng tôi chơi nhạc với niềm đam  mê, nhiều khi trình diễn chẳng có thù lao gì cả… nhưng nhờ vậy mới gặp được Trịnh  Công Sơn… nhân anh ta là khách mời danh dự của các soeur trường nữ Jean d’Arc và  các giới văn nghệ sĩ khác… 
                                                                          Ban nhạc họp đuợc một năm có  chơi tại các bar, café Huế ,Đà nẵng… sau đó tan rã vì hai thành viên trong ban nhạc  Cocobrother ở lại lớp, còn tôi may mắn đậu vớt nhờ họat động văn nghệ trong ban  nhạc y khoa và chỉ thiếu ¼ điểm (xem bài Thầy Bách – Tạp chí Siêu âm số 45). 
                                                                          Sau 1975 anh Coco bặt  tin… mãi đến năm 2000 anh về Việt nam gặp lại anh Bs Ngô văn Tường và chị BS Như  Minh là bạn cùng lớp, tôi mới có dịp gặp lại… bây giờ ảnh hói đầu như Lenin và  tính cũng tiếu lâm đùa giỡn như cũ… nhắc lại chuyện xưa ban nhạc Cocobrother anh  cười vui vẻ sung sướng lắm… một kỷ niệm dễ mấy ai quên… 
                                                                          Chẳng phải là cơ duyên hay  sao nếu không có dính líu vào văn nghệ,tôi đã ở lại năm thứ nhất y khoa và biết  đâu lên đường nhập ngũ… huynh đệ tương tàn, hay “Tổ quốc” ghi công”? 
                                    Nhân đây Tôi xin kể một kỷ  niệm về Trịnh Công Sơn… như vừa nói ở trên… 
                                                                          Lúc đó đầu năm 1974 Trịnh đã  nổi tiếng với các Ca khúc da vàng và các tâp Tình ca nhạc rất hay, lời thì ít ai  hiểu... Trường nội trú nữ Jean d’Arc ở Huế ai cũng biết… tổ chức văn nghệ cuối  năm có mời ban nhạc sinh viên Cocobrother chúng tôi và các sinh viên đại học  khác tham gia các tiết mục văn nghệ, Trịnh trong Ban giám khảo! 
                                                                          Tôi còn nhớ ban nhạc chúng  tôi chơi bài nhạc của Lê Hựu Hà – “Đôi khi ta muốn khóc” tôi vừa là lead guitar  kiêm ca sĩ - bài này lời cũng yếm thế bi quan xem cuộc đời là phù vân…” đôi khi  ta muốn thóat ly,đi thật xa khỏi cuộc đời này,lên rừng làm bạn thân với hươu  nai… Đôi khi ta muốn khóc khi tình thương đã không tồn tại...” 
                                                                          Ban nhạc chúng tôi đươc giải  và dự tiệc với Trịnh, tôi may mắn ngồi bên anh, trong bàn tiệc không hiểu dẫn dắt  thế nào bỗng dưng bàn luận truyện Kim Dung, tôi là “fan” ái mộ kiếm hiệp Kim  Dung từ Trung học nên cao hứng hỏi thăm: 
                                                                          - Anh Sơn, anh thích nhân vật  nào nhất của Kim Dung? 
                                                                          Trịnh trả lời ngay không do  dự: 
                                                                          - Hồng Thất Công! 
                                                                          - Tại sao anh thích Cửu chỉ  thần cái vậy anh Sơn? 
                                                                          - Vì tính cách của Bắc Cái  là giống bài hát của Thông hát khi nãy…đó 
                                                                          Chuyện đó xảy ra lúc tôi 22  tuổi, anh Trịnh 33 tuổi, sau biến cố 1975 vài năm, cơ duyên với nguời bạn thân  Nguyễn Trung Dân (nay là phu quân chị Phạm thị Lệ-Giám đốc công ty Phương Nam),  trong một bữa tiệc có Trịnh, tôi nhắc lại chuyện cũ về Kim Dung, anh nâng ly  Whiskey vừa cười vừa đùa trong lúc cao hứng gần hết chai “ông già chống gậy  nhãn đỏ”: 
                                                                          - Thông tìm trong những bài  hát của mình có phảng phất Hồng Thất Công đấy! 
                                                                          Tôi suy nghĩ hồi lâu và nói: 
                                                                          - Mưa Hồng! 
                                                                          Trịnh nâng ly cười lần nữa  và “tiếng thủy tinh chạm nhau”(từ anh Trịnh hay dùng khi nói về nhậu), anh  không công nhận, cũng không phản đối… 
                                                                          Khi truyện Kim Dung được  phép in lại và công ty Phương Nam độc quyền phát hành,chị Phạm thị Lệ là người  qua tận Đài loan ký hợp đồng với Kim Dung… cũng là mối cơ duyên kỳ lạ giữa những  người bạn… 
                                                                          Hai trong năm “siêu tâm phục”  của tôi là Kim Dung và Trịnh Công Sơn (ba “siêu” còn lại là Nguyễn Du, Hồ Xuân  Hương và Hàn Mặc Tử). Kim Dung viêt hai tác phẩm Anh Hùng xạ điêu và Thần điêu  đại hiệp đã xây dựng nhân vật Hồng Thất Công là một trong Võ lâm Ngũ Bá, tính  tình nghĩa hiệp, là Bang chủ Cái Bang nhưng chỉ thích ăn nhậu và sống nay đây  mai đó như “Ngọa Hổ Tàng Long”… lúc ẩn lúc hiện trong giới võ lâm, không đua  chen, (chức vụ Bang chủ ông đâu có màng,có cơ hội là giao chức bang chủ và gậy Đả  cẩu cho Hòang Dung ngay), không tham sân si… như các nhân vật khác… Châu Bá  Thông hồn nhiên nhưng vẫn dính vào vụ “xì căng đan” với thứ phi Anh Cô của Nam  Đế Đòan Hòang Gia và tính tình quá trẻ con chưa xứng đáng tầm cỡ “con rồng” như  Trịnh ái mộ. 
                                                                          Khỏang năm 1965-1968 chế độ  cũ có lúc cấm hát bài Mưa hồng vì cho đó là ám chỉ Hồng Vệ Binh của Mao và “cơn  mưa đỏ” của chủ nghĩa Cộng sản, nhưng đối với văn nhân một bài hát hay bài thơ  đều có gởi gắm gì đó, theo tôi Trịnh vẫn thích đọc kiếm hiệp như bao người khác  ở giai đoạn đất nước điêu linh, có người đọc lúc đó để quên sầu,đọc kiếm hiệp để  giải trí... Cùng thời với Trịnh, Tuớng Nguyễn Cao Kỳ lúc còn làm tư lệnh Không  quân vẫn thừa nhận ông ta rất ái mô Trương Vô Kỵ và thích vẽ lông mày cho “Triệu  Minh hôtesse de l’air” hơn là làm chính trị đó sao? Tướng Nguyễn Cao Kỳ và phi  công Trung tá Lưu Kim Cương rất yêu Trịnh, vừa che chở vừa cung cấp whisky Red  Label cho người nghệ sĩ tài hoa này uống đều đều… ai cũng biết… khi Cương tử trận  Trịnh viết bài “Cho một người nằm xuống” rất cảm động…”anh nằm xuống sau một lần  đã đến đây, đã rong chơi trên cuộc đời này”… tạ ơn tri kỷ như Dự Nhượng với Trí  Bá thời Xuân thu Chiến quốc… cũng vì một trong những bài này mà sau 1975 văn  nhân sĩ Huế “đấu tố” Trịnh phải chạy vào Sài gòn giữ tòan danh tiết cho đến cuối  đời … Các bạn sinh viên tháng 8 năm 1975 chắc còn nhớ những băng rôn treo truớc  đại học Sư phạm Huế “đánh” Trịnh… thật tội nghiệp! 
                                                                          Trịnh thích nhân vật như Hồng  Thất Công là có thật, nhân vật thích ăn nhậu,có võ công tuyệt chiêu, võ công đó  là căn cước đặc biệt để nhận dạng nhân vật đó (như bình luận của Đỗ Long Vân -  Tây độc có Hàm mô công- Nam đế có Nhất dương chỉ- Đông tà có Đàn chỉ thần  công…), Giáng Long Thập bát chưởng…là “căn cước” của Hồng Thất Công là… Rồng, rồng  luôn đi đôi với nước,rồng hút nước v.v..và đi đôi với Phụng – “đường phượng bay  mù không lối vào” đó là chưởng đầu tiên “Kháng Long hữu hối” mượn một quẻ trong  kinh Dịch, rồng bay cao quá phải ăn năn như nguời quân tử không biết điểm dừng.  Quẻ này xem ra cũng ứng với cái chết của Lưu Kim Cương! 
                                                                          Mưa…là nước thuộc Thủy –  phương Bắc – Mưa Hồng là Bắc Cái Hồng Thất Công, trong lời bài Mưa hồng nhắc đến  những gì liên quan đến Rồng, Hồng…Thủy rất nhiều… 
                                    Trời  ươm nắng cho “mây hồng”- rồng và mây khi nào cũng có đôi trong văn học -  long vân, long phụng.. 
                                    “mưa  xuống”,”mây âm thầm”,”mưa nguồn”,“sông vắng”,”nuớc dâng lên”,”mưa đầy”, ”chiều  mưa đỉnh cao”,”suơng mù”,”cầu mưa ướt áo”, nói về những gì liên quan đến  Thủy-Bắc Cái Hồng Thất Công, riêng câu “nguời  ngồi đó trong mưa nguồn” đích thị là hình ảnh con rồng Hồng Thất Công đang ẩn  mình trong quẻ “Phi Long tại Thiên”,cũng là một chưởng pháp trong Giáng Long Thập  bát chưởng… 
                                    “buớc  chân mòn trên phiếm du” liên quan đến tính cách phóng khóang của Hồng Thất  Công. 
                                      Có thể lối giải thích trên  có người cho là khiên cưỡng, không chấp nhận nhưng dù sao làm phong phú thêm  khó tàng bình luận Trịnh công Sơn trong lúc “trà dư tửu hậu” là cũng đã vui rồi!  Còn không “Mưa hồng” là mưa … hồng hát rất hay nhưng chẳng ai hiểu gì cả… ngòai  câu triết lý cuối cùng…hơi dễ hiểu ”cuộc đời ấy có bao lâu mà hững hờ”? 
                                    Năm thứ ba Y khoa, lại một  cơ duyên nữa ngoài anh Coco Trần Lương Hoa, tôi gặp anh Văn Quảng - bác sĩ học  hậu đại học Sản khoa - anh rất ”kết” tôi, ngòai chuyên môn anh Văn Quảng rất  thích khiêu vũ…Năm thứ ba tôi đi thực tập Sản khoa,ngòai đỡ đẻ và cắt sàn hội  âm(episiotomy), sinh viên Y3 còn được tham gia phụ mổ hai cho các ca cesarienne  mà Nội trú là phẩu thuật viên chính, Y5 là phụ một. 
                                                                          Trong một đêm trực, vắng Y5  anh Văn Quảng giao cho tôi mổ chính ca cesarienne nhau tiền đạo,anh làm phụ một, một  cô Sage Femme phụ hai,thời đó Bs Sản khoa nào mổ lấy thai ngang (segmentaire)  là…”siêu” như anh Văn Quảng …còn nội trú, Y5 là mổ thân…gần hết (corporeal). Lần  đó cứu sống cả mẹ lẫn con, anh BS Văn Quảng khen Thông mát tay … Anh Văn Quảng chỉ  dạy tôi khâu từng lớp tử cung…rồi đóng bụng.. .tôi nhớ như in… và chỉ một lần đó  thôi…12 năm sau tại huyện Hiệp đức – Quảng nam, tôi lại phẩu thuật cho một sản  phụ nhau tiền đạo sẽ kể hồi sau… 
                                                                          Sau biến cố 75 nghe anh qua  Mỹ, từ đó tôi chưa có dịp gặp lại không biết anh còn nhớ tôi không và những kỷ  niệm party khiêu vũ với các nữ sinh Đồng Khánh xinh đẹp ? 
                                    Một người đàn anh nữa tôi phải  nhắc đến vì cơ duyên cho tôi gặp anh nhiều trong các đêm trực … và cách chơi rất  playboy là anh Bùi Cao Đẳng… Cuối năm Y2 đi thực tập anh Đẳng là nội trú tức  Y6 (hồi đó thiếu bác sĩ, Y6 đương nhiên là nội trú), anh “kết” tôi cũng vì khiêu  vũ, những đàn em mới bước vô nghề như tôi kính trọng và phục đàn anh sát đất… cũng  vì các anh giỏi thật sự hỏi đâu biết đó… anh hay bày vẽ tôi rất nhiều về phẩu  thuật cơ bản, như cột chỉ, khâu nối ruột…và ăn chơi thì anh Đẳng là “number  one” của Huế một thời… vậy mà thi tốt nghiệp anh đậu thủ khoa… đến thầy Bách cũng  … không hiểu vì sao? Và trong luận án tốt nghiệp, anh Đẳng còn chơi ngông, ngòai  tặng gia đình, thầy cô bảo trợ… ở những trang đầu, anh con đề tặng ông bà Khiêu  văn Vũ (Nhảy đầm), Ông Chấm, Ông Đen, Ông Đỏ (billard), Cơ Rô Chuồn Bích và tặng  cho những nguời con gái đã đi qua đời tôi và ra đi trong… thù hận! Nghe đâu  ngày dự lễ tốt nghiệp, anh ruột của anh Đẳng là BS Bùi Cao Đệ, xé những trang  này, nhưng sau 1975 tôi đọc thèse của anh còn trong thư viện thấy những trang  này còn y nguyên… tôi có đưa cho chị Cẩm Lai là quản thủ thư viện xem, chỉ cười  giọng Huế: “răng mà rứa hè”? 
                                                                          Những ngày trước tháng tư  năm 75 tôi gặp anh Đẳng mặc đồ rằn ri Nhảy dù đeo huy hiệu Quân y, trên lái xe  jeep quân đội chở vài cô gái rất dễ thương và từ đó không gặp anh nữa… Gần đây  qua Mỹ gặp anh Vĩnh Chánh, bạn thân anh Bùi Cao Đẳng mới biết tin tức của anh  nhưng chưa gặp lại. 
                                    Mười năm lận đận từ 1975 … ca  bài “hàn nho phong vị phú” của Nguyễn công Trứ,có những lúc tôi rất chán nản và  mất niềm tin vào cuộc sống… nhưng nhờ Tử vi,tôi có niềm tin mãnh liệt một ngày  nào đó sẽ thăng hoa… ”Thạch trung ẩn ngọc” nếu không gặp Tuần Triệt như sấm sét  đánh vỡ đá thì mãi mãi là nguời không gặp thời… ẩn sĩ… muôn năm như nguời chấm lá  số tử vi cho tôi năm xưa. 
                                                                          Đại hạn 10 năm đã qua…và sấm  sét đánh vỡ đá… 
                                                                          Năm 1985 cơ duyên hay số mệnh  đã có một người cộng sản chân chính - thanh liêm, quang minh chính đại - người  này đã giúp tôi trở lại ngành Y vô vụ lợi sau những năm dài lang thang từ Bệnh  viện Lao, bán sách cũ…mất bảy năm dằng dặc… sau khi tốt nghiệp năm 1978. Người đó  là Bs Hòang Thao - Giám đốc Sở Y tế Quảng nam và Đà nẵng lúc chưa tách tỉnh - Bs  Hòang Thao sau khi công tác Campuchea về, ông biết tôi là Bác sĩ thất nghiệp  sau sự cố mâu thuẫn tại Bệnh viện Lao, hiện đang bán sách, báo cũ ở vỉa hè… ông  xem lại các đơn tôi đã nộp nguyên vọng xin bổ nhiệm huyện nào cũng được miễn là  đúng công tác chuyên môn mà các tiền nhiệm trước đó như Bs Trần minh Tuấn, Bs  Nguyễn văn Sâm… chẳng đóai hòai tới, dù tôi đã mấy chục lần có khi đứng dưới  mưa chờ hàng đêm tại tư gia… cũng thông cảm cho họ thôi vì lý lịch con “sĩ quan  Ngụy” quá nặng nề không ai thèm lưu tâm… không khéo liên lụy… và tôi cũng tưởng bỏ  nghề… thì may thay… 
                                                                          1986 Ngài Tổng bí thư Nguyễn  văn Linh đề xuất “Đổi mới” Bs Hòang Thao là con người đi trước Đổi mới,1985 ông  đã có chính sách trọng dụng tất cả mọi chất xám dù đào tạo chế độ nào… và để xoa  dịu “cánh bảo thủ” ông đề ra chính sách đi huyện miền núi 2 năm sẽ về lại thành  phố, một số bác sĩ thất nghiệp như tôi, Bs Đỗ Diệu Quê, Bs Lê văn Phú… lần lượt vào  lại ngành Y và tôi vui vẻ “phiêu lưu” lên huyện trung du mới thành lập “với  lòng phơi phới dậy tương lai”, lúc đó lời hứa 2 năm sau sẽ về thành phố tùy thuộc  vào người lãnh đạo còn tại chức hay không,người khác lên thay chính sách thay đổi,  anh sẽ chôn chân trên huyện miền núi xa xôi này… vĩnh viễn. 
                                                                          Bs Hòang Thao con người chân  chính ấy khó trụ vững trước cơn giông bão của “cánh bảo thủ”, “chủ nghĩa cơ hội”  và tranh dành đọat chức, ông bị mất chức giám đốc sở y tế nhưng cả cuộc đời ông  được tất cả mọi đồng nghiệp yêu thương, những lần ông về Đà nẵng nằm viện vì tuổi  già đau yếu, lượng người thăm ông nườm nượp đã nói lên tình cảm của nhưng người  mến mộ ông… trong khi có những quan chức ra đi không một nén hương của vài người  tiễn biệt… 
                                                                          Bs Hòang Thao thôi chức lúc  tôi đang còn công tác Hiệp đức… tôi không bỏ về vì không muốn ông liên lụy và  cũng muốn chứng tỏ ông dùng đúng người, và thời gian sau trong hòan cảnh đổi mới  của đất nước và những ngày gian khổ tại Hiệp đức không ai nỡ ngăn đường về TP  Đà nẵng của tôi khi hai năm ở miền núi… bằng mười năm đồng bằng? 
                                                                          Lúc đó các bạn đồng nghiệp  nhìn tôi ra đi với ánh mắt ái ngại thương cảm… vì xem như “lưu đày…biệt xứ”…nào  ngờ “họa trung hữu phúc”… Hiệp đức đã giúp cho tôi sống hiên ngang, tự tin và  chân giá trị của một thầy thuốc chân đất đúng nghĩa. 
                                    Ngày tôi lên Hiệp Đức có một  người rất mừng rỡ đó là anh BS Bùi Quy Cương, anh biết tôi sẽ thế chỗ của anh và  anh về lại Đà nẵng, ảnh tưởng chôn chân nơi miền đất trung du này rồi như anh  Thân Trọng Cư Quế sơn đấy thôi! Anh Cương trên tôi hai lớp người nóng tính  nhưng tính tình hào phóng bộc trực, chuyên môn giỏi, tửu lượng cũng khá, tôi ví  anh như một trong hảo hán Lương Sơn bạc, anh đã làm cho nhân dân và huyện ủy Hiệp  đức tin cậy yêu thương khiến tôi bị cái bóng của anh qúa lớn tôi khó vượt qua  anh, nhưng chính nhờ anh tôi đã bắt buộc tạo “danh” cho mình để tồn tại và sống  giữa lòng nhân dân Hiệp đức như anh… 
                                                                          Nhân dân Hiệp đức xem anh  Cương như “thánh” các câu chuyện bên bàn nhậu kể về anh mổ ruột thừa trong mùng  bằng dao lam và khâu bằng chỉ may trong ánh sáng chập chùng của đèn dầu… đã tạo  cho anh biết bao huyền thọai… ngày đó nội khoa tôi đã vững, ngòai những năm  tháng tại trường Y sau giải phóng, bác sĩ thiếu nên Y6 (nội trú) có nhiều quyền  hạn trong điều trị và những tháng ngày thất nghiệp, nghề bán sách rảnh rỗi chẳng  biết làm gì ngòai đọc đủ các lọai sách kể cả sách y học sau giải phóng… bán rất  rẻ… 
                                                                          Tôi đã điều trị nhiều ca nội  khoa sốt rét ác tính, viêm gan siêu vi, hồi sinh sét đánh… ngọan mục, đỡ đẻ ngôi  thuận, ngôi ngược… dạy các nữ hộ sinh thủ thuật Mauriceau trong ngôi ngược, đặt  forcep làm tất tần tật…Nhưng đối với quần chúng nhân dân nghe mổ xẻ hay tí máu  me họ mới nể, mới tin… những nông dân tại đây bao năm bị chiến tranh, trình độ  giới hạn cứ nghĩ bác sĩ là làm được tất cả, cho nên chúng tôi phải nhổ hết ba  cái răng gần rụng của các cụ già chỉ cần cột sợi chỉ giật mạnh như lang vuờn là  xong, nhưng phải gây tê, dùng kềm mới oai… các cụ mừng lắm khỏi phải về Đà nẵng  xa xôi… cắt amiđan bằng kềm Sluder như chớp dưới đèn pha của xe Simpson Đông Đức… và  từ đó nhân dân truyền tụng bác sĩ đa tài nhổ răng,cắt amiđan không đau cứ râm  ran…lan truyền… 
                                                                          Một ngày nọ cơ duyên đã đến…  sản phụ Mạc thị Bưởi 35 tuổi, băng huyết nhập viện trong tình trạng huyết áp  90/60, tôi đeo găng và khám biết ngay nhau tiền đạo… với “nhị dương chỉ” tiếp  xúc với cảm giác mềm mềm của bánh nhau trong cổ tử cung đã hé mở… bệnh nhân này  chỉ cần chuyển đi vài cây số mất máu là chết ngay, lúc đó huyện lộ Hiệp đức là  đường đất sình lầy, xe gỗ cày nát tòan ổ voi… đi lại rất khó khăn… nếu chuyển thì  lỡ có chết dọc đường cũng không sao, đổ lỗi bệnh quá nặng ngòai khả năng cứu chữa,  mổ thì có thể cầm máu cứu sống như sách vở và thực tế đã dạy, nhưng lỡ chết  thì…”thân bại danh liệt”…tôi nhớ anh Văn Quảng đã dạy tôi mổ năm xưa… tôi rất  cương quyết và trong thâm tâm tôi chỉ nghĩ một điều tại sao ta có thể cứu được  người mà không làm? Cần gì thanh danh…”Tiến  thóai lưỡng nan, đi về lận đận,ngày xưa lận đận,tiến thóai lưỡng nan” Trịnh  công Sơn nhắc nhở rồi đấy, hãy quyết định đi… Tôi hỏi ý kiến Y sĩ Nguyễn văn Thỏa  lúc đó là giám đốc, tuổi nhỏ hơn tôi, anh ta ái ngại hỏi tôi có chắc cứu được  không, vì mổ mà tử vong ở huyện thì …”suốt đời lận đận”. Tôi rất tự tin và bắt  chặt tay Thỏa cương quyết mổ tại đây, Thỏa là người trẻ nhưng rất hay… tuy chức vụ  cao hơn nhưng luôn khiêm tốn học hỏi chuyên môn và kính nể tôi, nhất là niềm  tin “tuyệt đối” của anh trong trường hợp này… Khi nghĩ về những năm tháng ở Hiệp  đức tôi luôn nhớ ơn anh đã tạo cho tôi những điều dễ dãi trong lúc “hàn vi” kiếm  sống nuôi vợ con… vài năm sau Thỏa học ra Bác sĩ hiện nay đang công tác tại Quảng  nam, Anh Thỏa là gương hiếu học phấn đấu không ngừng, ở cương vị chỉ huy anh biết  dùng người xứng đáng là người lãnh đạo… đến nay thỉnh thỏang anh em rất thâm  tình… thường nhắc lại chuyện xưa với những tình cảm thân thương… người tốt lúc  nào cũng được điều tốt! 
                                                                          Phòng mổ lúc này khá hơn thời  anh BsCương, có y sĩ gây mê, máy phát điện…Cả bệnh viện khẩn trương theo quyết định  của tôi, điện sáng chuyển bệnh nhân phòng mổ (chẳng vô trùng gì cả,đó là phòng tiểu  phẩu, cửa sổ đóng lưới). Tôi bảo Y sĩ Tuấn tiêm liều Ketalar tĩnh mạch (lọai thuốc  mê duy nhất bệnh viện có) sau khi tiêm Tuấn báo tôi Huyết áp 60/40… máu làm gì  có… phải làm nhanh thôi, mổ thân tử cung rất lẹ… lẹ đến nổi đem cháu bé trai kháu  khỉnh vẫn còn kịp cất tiếng khóc chào đời không bị ảnh hưởng thuốc mê, Y sĩ Thỏa  và các nữ hộ sinh vui mừng chăm sóc đứa bé… còn tôi biết phải tiêp tục làm gì để  ngăn chận nguyên nhân mất máu … bóc nhau lẹ… tiêm ocytocin và khâu… móc chỉ, cột  … khâu nhanh, nhanh … huyết áp lên dần… tử cung go tốt… ngòai kia bình minh hừng  sáng, tiếng chim hót… như reo vui với tất cả chúng tôi thành công ca mổ đẻ đầu  tiên tại huyện mới thành lập “mẹ tròn con vuông”… Tôi nghĩ, một phần nhờ trời…  “may thầy phước chủ”… 
                                                                          Sau đó có Bs Nguyễn Quốc Đạt  mới tốt nghiệp theo chính sách Bs Hòang Thao “lên núi tu luyện” trước rồi về  thành phố…, có Bác sĩ Lê Kỳ, được bổ nhiệm Phó Giám đốc huyện Hiệp đức để chuẩn  bị cho YS Thỏa đi học bác sĩ… Phát huy từ kết quả ban đầu thành công, các Bs mạnh  dạn tiếp tục triển khai phẩu thụât tại huyện… có khi buồn vì mổ ít quá, anh em  chúng tôi đi lùng các ca thóat vị bẹn người già và trẻ em về mổ… 
                                                                          Từ đó uy tín đối với nhân  dân Hiệp đức nâng cao… bây giờ gần 20 năm rời khỏi Hiệp đức nhân dân và lãnh đạo  vẫn còn nhắc đến anh em chúng tôi… với lòng thương mến… thật là hạnh phúc vô  biên cho người thấy thuốc. 
                                                                          Gần đây khi trở lại Hiệp đức  tặng máy Siêu âm, đội ngũ thầy thuốc bây giờ quá hùng mạnh kể cả lượng và chất, mổ  nhiều ca ngọan mục hơn chúng tôi thời ấy bấy giờ… chúng tôi chỉ là những kẻ tiên  phong lúc gian khó, nay Hiệp đức đã vươn lên như Phù Đổng … thật chẳng bỏ công  anh em chúng tôi tổn bao tâm huyết xây dựng… ”thuơng hiệu” trong những ngày đầu… thành  lập huyện. 
                                    Một kỷ niệm sau đây trong những  năm tháng ở Hiệp Đức mà tôi cho là … kỳ lạ. 
                                                                          Ngòai công việc tại Bệnh viện,  Bs tăng cường như chúng tôi còn phải đi xuống các xã để điều tra sức khỏe nhân  dân… 
                                                                          Một ngày nọ tôi đi Trà Linh  một xã tuy thuộc huyện Hiệp đức nhưng muốn đến đó phải đi đò xuôi dòng sông Thu  bồn vừa ngắm cảnh đẹp mê hồn của Hòn Kẽm Đá Dừng… 
                                                                          Lúc đó đời bác sĩ Hiệp đức  như nghệ sĩ giang hồ “gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”, ngòai lương nhà nước  èo uột, làm chuyên môn thì vô vị lợi, tôi còn nhớ sau những ca điều trị thành  công người nhà nấu rỗ bánh, hay hái rỗ trái cây tặng cả bệnh viện, hoặc mời về  nhà chiêu đãi mì Quảng… ai đã từng ở Hiệp đức thì ăn mì Quảng … mệt nghỉ… kỵ giỗ  đám… hay tổng kết liên hoan của nhân dân hay ủy ban vào thời điểm kinh tế còn  khó khăn lúc đó (1986-1987) là món Mì Quảng độc nhất vô nhị … thực ra chỉ một  con gà nấu gần 20-30 tô mì Quảng… và uống rượu Nàng Hương… lúc đó thật hạnh phúc  và … vô tư… nay thì mỡ trong máu ai cũng cao… cái gì cũng kiêng… 
                                                                          Để “xóa đói giảm nghèo” cho  bản thân và nuôi vợ con, tôi còn kiêm nghề mua gỗ gõ, gỗ gõ chỉ cần mua vài tấc... về  đóng bàn tủ xa lông rất đẹp. Mua tại Hiệp đức về đến Đà nẵng có thể lời gấp năm,  nhưng không phải ai cũng đem về được, kiểm lâm, công an huyện bắt giữ ngay… đối  với các bác sĩ như chúng tôi các anh trong lãnh đạo huyện thương cảm vì “nghèo”  duyệt cho mua gỗ về làm nhà, có giấy tờ hẳn hoi… và như thế ta mua vài miếng nữa  chen vô và mỗi khi có xe ai về gởi một tấm… xem như vợ con đủ sống qua ngày  tháng… Nói là “buôn” nhưng thực tế vài miếng gỗ gõ chẳng ai nỡ bắt? 
                                                                          Thực tế tôi lên Trà Linh lần  này ngòai khám phát thuốc còn lý do nữa là anh Mười, một nông dân khám bệnh tại  huyện nói gỗ gõ trên ấy rẻ lắm, và có diện 40-50cm (gõ bề ngang gọi là diện càng  lớn càng có giá để làm mặt bàn,tủ…) không có “giác” (là những vân gỗ, làm mất giá  trị miếng gỗ), tôi nghe nói vậy nên lên xuôi thuyền đi Trà Linh thử xem… 
                                                                          Vừa bước lên bờ Trà Linh tôi  đã nghe tiếng kêu thất thanh “ cứu con tôi,cứu con tôi với”... một thanh niên bồng  đứa con khỏang 6,7 tuổi máu ở bắp đùi ra xối xả… Trà Linh lúc đó chưa có trạm  xá… người cha trẻ tuổi ra bến đò mục đích kiếm chiếc đò hoặc ngược dòng lên Hiệp  đức hai là xuôi dòng xuống Vĩnh điện để đến cơ sở y tế cứu con, cơ duyên gặp  chúng tôi ở đây… 
                                                                          Đứa bé bị trâu húc, sừng đâm  vào làm rách ở vùng bẹn phải, người sơ cứu đã đè vào đấy một cái khăn lau mặt và  cột băng vải vòng quanh đùi đè lên máu ướt đẫm rỉ trên vải sùng sục, khi tôi dở  vết thương một dòng máu phun lên cao, biết vết thương động mạch tôi lấy ngón tay  cái đè vào ngay, đòan y tế chúng tôi chỉ có ba người với thuốc men, ống  nghe… không ai nghĩ đến đem đồ tiểu phẩu… sự trùng hợp ngẫu nhiên trên bến sông  chúng tôi đặt em nhỏ trong nhà có bàn máy may, tôi lấy kim may uốn cong và chỉ  may khâu ngay vết thương… để cầm máu. Tôi nhớ đến anh Bùi Cao Đẳng đã dạy tôi từng  mũi khâu… chập chững khi bước vào nghề y khoa… 
                                                                          Đứa bé nông thôn sức đề  kháng rất tốt , uống kháng sinh vài ngày chẳng nhiễm trùng gì cả, sau đó trở lại  bình thường… thời gian sau là một thiếu nữ xinh đẹp của đất Trà Linh… 
                                                                          Hóa ra cái thời gian con người  cùng cực, đi kiếm gỗ gõ để bán kiếm lời lại gặp em bé bị nạn, ở những nơi xa xôi  như Trà Linh nếu theo dòng sông về Đà nẵng mất nửa ngày, đứa bé ắt chết vì mất  máu… và tại sao tôi lại tình cờ hiện diện nơi đây? Chỉ hai mũi khâu đơn giản nhất, với  công cụ thô sơ nhất lại có thể thay đổi sinh mệnh của một sinh linh trong vũ trụ  vô cùng vô tận này... Có phải tất cả là Duyên đã đun đẩy tôi đến đây để … trật tự  vũ trụ được hài hòa biết đâu cô ấy sẽ là mẹ của một vĩ nhân nào đấy trong tương  lai? Nếu em gái ấy chết cả một chuỗi mắc xích vũ trụ sẽ đi theo một hướng khác? 
                                                                          Nhìn người nông dân chèo chíếc  thuyền trên đó có vài tấc gỗ của tôi, ngược dòng sông Thu… khi qua những thác gềnh, anh  ta phải đẩy thuyền bằng tay… và nửa ngày sau khúc gỗ nằm trên bến sông Hiệp đức, một  con trâu vạm vỡ kéo miếng gỗ đó về Bệnh viện để chờ có dịp đi Đà nẵng, và các  nhân viên bệnh viện thân thuơng Hiệp đức cùng nhau hiệp sức khuân miếng gỗ rất  nặng ấy lên xe … lòng tôi không biết nói sao về tình cảm thuơng yêu đó của nhân  dân Hiệp đức… cũng như các bạn đọc cố gắng tuởng tuợng ra số phận khúc gỗ đó… lại  quan hệ biện chứng với biết bao con người, tiền bạc …đã giúp tôi vượt qua những  ngày gian khổ… ấy. 
                                    Sau này khi về lại thành phố,  nơi có những điều kiện tối tân… về y khoa, những bệnh nhân của tôi (thậm chí những  người bạn thân hay tỷ phú…) vẫn phải ra đi với những kịch bản khác nhau mà  không sao cưỡng lại… Thầy thuốc được biết bao nhiêu lời khen, cũng biết bao  nhiêu lời chê, kiện tụng, dọa dẫm, thậm chí vũ lực… 
                                                                          Osler đã nói từ 200 năm trước: Y khoa là một khoa học của sự bất định,  và một nghệ thuật của xác suất (Medicine is a science of uncertainly, and an  art of probability) 
                                                                          Theo tôi mối quan hệ thầy  thuốc và bệnh nhân còn có cái Duyên nữa… không phải mọi đáp số giống nhau như  Osler đã phát hiện. 
                                                                          Thiện duyên mọi chuyện sẽ tốt  đẹp! 
                                                                          Ác duyên, ngòai kịch bản xấu  nhất là tử vong hoặc còn khiến cho cả đôi bên…”dang dở đời nhau”… 
                                    Chúng ta có thể can thiệp  vào Duyên chăng?Tôi nghĩ chắc có…đó là Thầy thuốc đối với bệnh nhân chỉ cần cái  Tâm trong sáng… Ác duyên sẽ giảm thiểu đi chăng? 
                                                                          Ba mươi năm sau khi hát lại  bài Thà như giọt mưa Phạm Duy phổ nhạc Nguyễn Tất Nhiên tôi mới hiểu bài thơ  “siêu” Thiền này: ”giết người tên Duyên đau khổ muôn niên”. 
   
                                    Lê Quang Thông  
                                                                         |