Hội Ái Hữu Y
Khoa Huế Hải Ngoại
Bài nói
chuyện của Thầy Vơ Đăng Đài. Hội
Ngộ YKHHN 2015
TINH
THẦN ĐẠI HỌC Y KHOA HUẾ XƯA
Trước
tiên tôi xin được chào mừng Đại Hội, chào
mừng Quư Thầy Cô, Quư Quan khách và chào mừng Anh, Chị
Em Cựu sinh viên Đại học Y khoa Huế và gia
đ́nh.
Kính
thưa Quư vị, cùng các Bạn,
Năm
ngoái trước ngày Đại hội ở New Jersey, Anh Bs
Thuận ở Texas và Anh Bs. Thương ở New Jersey điện
thoại cho tôi đề nghị tôi nói một ít về
Trường, nhưng tôi đă không
làm được. Đầu năm nay Anh Bs Sơn,
đương kim Chủ tịch của Hội lại
điện thoại cho tôi cũng nhờ tôi nói một cái
ǵ đó về Trường, có lẽ họ nghĩ rằng
v́ tôi vào làm cho Trường ngay khi Trường mới thành
lập nên chắc chắn biết nhiều về
Trường. Thật ra những điều ǵ tôi biết
th́
mọi người cũng đă biết, sở dĩ tôi
nhận lời nói chuyện hôm nay là v́ Anh Sơn có nói:
buổi nói chuyện hôm nay không phải là 1 key speech của
Đại hội, không có chủ đề ǵ cả,
Thầy muốn nói ǵ th́ nói. Trên tinh thần đó hôm nay tôi
sẽ nói một điều mà tôi cảm nhận
được sau bao nhiều năm làm việc ở Y khoa
Huế, cùng chia xẻ khó khăn, vui buồn với
những bạn đồng sự và nhất là với các
sinh viên Y khoa, đó là cái mà tôi gọi là: Tinh thần
Đại học Y khoa Huế xưa.
Với
tuổi ngoài 80 th́ kư ức của ḿnh cũng có những
hạn chế, suy tư và t́nh cảm của ḿnh cũng có
thể không c̣n phù hợp với thời đại ngày nay,
nên nếu có những sai lầm nào hay có
những phát biểu ǵ không vừa ư xin Quư Quan khách, Quư
Thầy Cô và các Bạn bỏ qua cho.
Hôm
nay trong hội trường này, ngoài các Quan khách, các Thầy
Cô, là hằng trăm người Con đă thành danh của
Đại học Y khoa Huế, đại diện cho bao nhiêu Khóa sinh viên tốt
nghiệp của trường, có người đă
hoặc đang hành nghề y khoa ở hải ngoại và góp
phần đắc lực vào sự chăm sóc sức
khỏe cho hầu hết người dân trên thế
giới, có người c̣n ở lại quê nhà tiếp
tục phục vụ cho đồng bào ḿnh với khả
năng và y đức đă được truyền
đạt ở Trường, có người không có
được cơ hội để trở lại
nghề th́ cũng đă tạo dựng được 1
sự nghiệp vững vàng, đóng góp hữu hiệu cho
quốc gia nơi ḿnh sinh sống. Tất
cả không chỉ tạo dựng vững chắc cho
thế hệ của ḿnh c̣n cố gắng để có
những thế hệ kế tiếp thành danh.
Nếu
đem cái không khí vui tươi, nhộn nhịp của ngày
hôm nay, đi lùi lại hơn 54 năm mà nhớ lại ngày
khai giảng đầu tiên của Trường Y khoa Huế
ở tại pḥng khánh tiết cũ kỹ của
Trường Luật xưa, với nhóm nhỏ giáo sư và
phụ giáo người Đức và người Việt
cùng với một số ít sinh viên được vào
lớp một Y khoa, mới thấy được cái
đoạn đường dài đầy khó khăn mà
Trường đă đi qua, mới thấy cái công lao và can
đảm của những người tạo dựng nên
Trường cũng như nỗ lực của bao nhiêu
người để giữ cho Trường
được tồn tại và phát triển.
Công
lao đầu tiên phải dành cho Linh mục Cao văn
Luận và Bác sĩ Lê khắc Quyến, không có hai vị này
th́ đă không có Đại học Y khoa Huế, rồi
đến các Giáo sư người Đức, những người
đă v́ lư tưởng chẳng ngại xa xôi, nguy hiểm đến
một nơi không quen thuộc để dạy dỗ mà
rồi thay v́ được tưởng thưởng
lại phải hy sinh mạng sống của ḿnh. Kế
đến là công lao các vị Khoa Trưởng đă lèo lái
Trường qua những lúc vô cùng khó khăn, như Gs.
Lê tấn Vĩnh không quăn mệt nhọc bay đi bay về
nhiều lần Paris-Huế, Huế-Paris, nhận lănh
chức vụ Khoa Trưởng đầu tiên của Trường
hoàn toàn không v́ danh vọng hay quyền lợi ǵ cả, Bs.
Lê khắc Quyến, một vị Thầy thuốc đày
từ tâm và trách nhiệm đă bỏ hết th́ giờ cho
chức vụ Quyền Khoa Trưởng Y khoa và Giám
đốc Bệnh viện, Gs Lê văn Bách, được
bầu ra sau một thời gian dài khủng hoảng lănh
đạo từ khi TT Ngô đ́nh Diệm bị lật
đổ đến hết vụ biến động
miền Trung, đă nhờ vào tính t́nh điềm đạm
và ḥa nhă mà duy tŕ được sự ổn định
của Trường, Gs Bùi duy Tâm đưa Trường vào
Sài G̣n sau biến cố Mậu Thân, giúp sinh viên học hành
đầy đủ, tạo dịp cho sinh viên Huế
chứng tỏ khả năng của ḿnh khi được
học và làm chung với sinh viên Đại học Y khoa Sài
G̣n,
xóa tan sự lo sợ của Trường Y khoa Sài G̣n là
sẽ có 2 lớp sinh viên tốt nghiệp cùng mang
tước hiệu Bác sĩ y khoa nhưng với tŕnh
độ khác nhau, mà người lo sợ nhiều nhất
là Gs. Phạm biểu Tâm, nhờ đó uy tín của
Trường được nâng cao, Gs Lê thanh Minh Châu đă
trong thời gian ngắn nhận lănh trách nhiệm về
Trường Y khoa Huế sau khi Gs. Tâm ra đi và đă thành
công di tản Trường vào Đà Nẵng năm 1973 trong
vụ mùa hè đỏ lửa rồi Gs. Lê bá Vận, vị
Khoa trưởng cuối cùng trước 75 đă cùng
với Gs. Lê thanh Minh Châu chu toàn việc đưa
Trường vào Đà Nẵng rồi đưa về lại
Huế và
đă có kế hoạch phát triển Trường bằng
cách hợp tác với AMA.
Tiếp
theo là công lao của các Giáo sư trong Ban
Giảng huấn, Khoa học căn bản cũng như Lâm sàng.
Họ đă được chọn vào Trường
với tiêu chuẩn cao, các giáo sư lâm sàng đều là các
Bác sĩ Nội trú các Bệnh Viện có thời gian tu
nghiệp ở nước ngoài. Họ đă tận t́nh
truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm cho sinh
viên trong những điều kiện thiếu thốn và khó
khăn và nhờ vào khả năng, óc sáng tạo, sự
chịu khó, và họ đă hoàn thành tốt đẹp
nhiệm vụ giảng dạy của họ. Các vị này khi di tản ra nước ngoài, có
vị đă là Giáo sư của một Đại học
lớn. Có thể nói vào năm 75, mặc dù ở vùng
chiến tranh, ngân sách eo hẹp, khi tan ră Đại học
Huế đă để lại một phân khoa Y khoa khá
đầy đủ và vững mạnh. Trừ trường
hợp chưa có được một bệnh viện
thực tập riêng, cơ sở của Trường
đă xây cất hoàn chỉnh, thư viện cũng như
các pḥng thí nghiệm Cơ thể, Sinh hóa, Vi sinh,
Dược lư Mô phôi v.v… đă được trang bị khá
đầy đủ, các cơ sở lâm sàng ở Bệnh
viện không c̣n thiếu thốn như trước. Khả
năng các sinh viên được Trường đào
tạo không thua kém một Trường nào ở Đông Nam
Á. Điều này được xác minh qua những
chuyến viếng thăm của Viện đến
Đại học Chieng Mai ở Thái Lan và của chúng tôi đến
các Đại học Hong Kong và Đài Bắc vào 1972-1973, qua lời nhận xét của
một Bác sĩ thuộc AMA khi đến thăm
Trường, nói chuyện với sinh viên và quan sát họ
học tập rằng: khả năng của sinh viên Y khoa
Huế không thua ǵ sinh viên Sài G̣n, cũng như sau 1975 khi Ô. Bộ trưởng Bộ Đại học Hà nội
vào thời đó đến thăm Trường,
đứng trước biểu đồ chuyển hóa
của pḥng thí nghiệm Sinh hóa đă nói với phái đoàn:
sao Chị Ân không vào xem để bắt chước (Bà Ân
là Trưởng Bộ môn Sinh hóa trường Y Hà nội lúc
đó) và khi Bs. Tôn thất Tùng một giáo sư giải
phẫu có tiếng của Y khoa Hà nội đă nức
nở khen ngợi các Thầy và tṛ Y khoa Huế đang làm
việc tại Khu giải phẫu Bệnh viện Huế,
và xác minh hùng hồn nhất là sự hội nhập thành
công trong ngành nghề của các cựu sinh viên Y khoa Huế
trên toàn thế giới sau 1975.
Nhưng
theo tôi cái đóng góp không thể quên được cho
sự phát triển của Trường là của tập
thể sinh viên của Trường. Đó là một tập
thể những thanh niên rất thông minh và đầy
nhiệt huyết, đă can đảm gắn liền tương
lai và tuổi thanh xuân của ḿnh cho một cơ sở mà
sự tồn tại khi nào cũng bấp bênh. Điều
này đă tạo cho họ một ư chí vững mạnh cùng
Thầy cùng Bạn khắc phục khó khăn, thiếu thốn,
để chăm chỉ học tập, học một
biết mười, không chịu thua kém ai, lấy t́nh
thương, thương Thầy, thương Bạn,
thương con người làm tôn chỉ cho cuộc sống
học tập và phục vụ của họ. Những đức tính đó của sinh viên Y khoa
Huế đă tạo nên cái mà tôi gọi là Tinh thần
Đại học Y khoa Huế.
Các
Bạn Cựu sinh viên Y khoa Huế thân mến, tôi biết
hiện diện trong hội trường hôm nay có nhiều
bạn đă là những bác sĩ chuyên khoa lỗi lạc,
giáo sư Đại học có tiếng, có người không
chỉ giảng dạy ở một đại học mà
c̣n ở nhiều đại học trên thế giới. Tôi
nghĩ rằng chính cái tinh
thần Đại học y khoa Huế đă là sức
mạnh giúp Bạn đi đến thành công và cũng chính
trong tinh thần Đại học Y khoa Huế ấy các
Bạn đă thành lập Hội Cựu Sinh Viên Y Khoa
Huế Hải Ngoại, một Hội mà t́nh thương
và quan tâm cho nhau như ruột thịt bao trùm các cựu sinh
viên từ khóa 1 đến các khóa về sau, bất kỳ ở
đâu, trong hay ngoài nước, đă là hội viên hay
chưa phải hội viên, bao trùm cả Thầy, Cô và các thân
hữu của Hội.
Những
buổi gặp mặt hằng năm của Hội chính là
dịp để Hội viên chia xẻ cho nhau những kinh
nghiệm quư báu, kể cho nhau nghe những vui buồn
hiện có của ḿnh, những thành tích của con cháu ḿnh,
hay ôn lại những kỷ niệm đẹp của cái
thời gian sống với đại học Y khoa Huế.
Chúng ta đang vui sướng thật, nhưng trong cái vui
ấy cũng không khỏi pha lẫn
những bùi ngùi thương tiếc khi một số
bạn bè, thầy cô cũ đă bỏ chúng ta vĩnh
viễn ra đi. Những mất mác này đă
để cho người ở lại những đau
buồn năm tháng không thể làm nguôi được.
Nhưng cũng có vài trường hợp mà các Thầy c̣n
đó nhưng lại không sinh hoạt với Hội
nữa, đây cũng là những mất mác gây đau
đớn và bức xúc không kém, đó là trường
hợp Thầy Bùi duy Tâm và Thầy Bùi minh Đức. Tôi
đă dùng chữ bức xúc v́ thấy không ai trong Hội
muốn chuyện này xảy ra và cũng không ai t́m
được giải pháp nào thỏa đáng. Nếu tôi
không lầm th́ hiện có hai khuynh hướng trong Hội,
một khuynh hướng muốn Hội mời các Thầy
trở lại sinh hoạt như cũ, chỉ nghĩ
đến công lao của các Thầy mà không kể
đến cái ǵ khác của các Thầy, một khuynh
hướng khác th́ muốn Hội tiếp tục sinh
hoạt như cũ để khỏi đi ngược
lại với nội quy và giữ được t́nh
đoàn kết của các hội viên. Hội sẽ giữ
măi sự kính mến đối với các Thầy và
sẵn sàng chờ đợi một ngày nào đó các
Thầy sẽ thay đổi và trở về với
Hội.
Nếu
các Bạn hỏi tôi, Hội nên theo khuynh
hướng nào? Tôi
thật khó trả lời.
Nếu
xét đến tâm tư, t́nh cảm của riêng tôi, th́
đối với Thầy Tâm tôi vẫn kính phục
Thầy như khi Thầy c̣n là Khoa Trưởng của
Trường, kính phục cái thanh niên tính rất năng
động của Thầy, dám dấn thân và sẵn sàng giúp
đỡ, cái tinh thần dân tộc chân thật mà Thầy
không chỉ đă cố đưa vào Đại học Y
khoa Huế mà c̣n rất nghiêm khắc khi áp dụng vào giáo
dục của gia đ́nh Thầy. C̣n Thầy
Đức là một người bạn rất thân của
tôi từ hồi tôi c̣n rất nhỏ. Tôi không biết
các Thầy nghĩ về tôi như thế nào nhưng khi nào
tôi cũng xem các Thầy là bạn của tôi mà đă là
bạn th́ dù có thế nào tôi sẵn sàng t́m hiểu và thông
cảm. Điều này làm tôi nhớ lại một câu
chuyện tôi được đọc từ lâu trong
một tác phẩm của văn hào Cronin người
Anh mà bản dịch tiếng Pháp có tựa đề là “
Les clés du Royaume “, (Đường về Đất Chúa)
kể lại t́nh bạn giữa một vị linh mục
của một giáo xứ nhỏ ở một vùng quê Trung
quốc và một đảng viên Cộng sản
người Anh hoạt động trong khu vực. Câu
chuyện đă được dựng thành phim do tài tử
Gregory Peck đóng vai vị Linh mục. Tôi không nhớ
nhiều về t́nh tiết của câu chuyện chỉ
nhớ cảnh sau cùng là người Cộng sản bị
rượt đuổi và bị bắn trọng
thương, cố lết về nhà thờ và chết trong
ṿng tay người bạn cũ của
ḿnh. Đó là nỗi cảm thông cuối cùng của
hai người bạn tuy kính mến nhau nhưng lại có
lối sống và quan điểm hoàn toàn khác biệt.
Hai người đă đi trên hai con đường khác
nhau nhưng cuối cùng cả hai con đường
đều dẫn về đất Chúa.
Tôi
nói ra đây những ư nghĩ, t́nh cảm riêng tư của
tôi đối với các Thầy hoàn toàn không có ư muốn
thuyết phục các Bạn phải theo
tôi, mà dù tôi có muốn, tôi nghĩ cũng sẽ không thành công
được.
Một
sự việc đúng hay sai, đúng nhiều hay đúng ít,
sai nhiều hay sai ít, đôi khi không phải chính do bản chất
của sự việc mà có thể là do khi ta nh́n sự
việc ta đă cân bằng được t́nh cảm và lư
trí của ta đến một mức độ nào, và
đây là hoàn toàn cá nhân. Trong trường hợp các Thầy,
tôi nghĩ, việc các Thầy có cùng sinh hoạt hay không,
không quan trọng, mà việc Hội giữ được
t́nh Thầy tṛ luôn luôn tốt đẹp, giữ
được t́nh đoàn kết, măi măi quan tâm cho nhau giữa
những người trong Hội, giữ đươc cái
tinh thần Đại học Y khoa Huế của Hội
viên, mới là quan trọng, v́ đó là điều mà bất
cứ vị Thầy nào cũng mong muốn cả.
Tôi
nói đến đây cũng đă làm mất nhiều th́
giờ của Quư vị và các Bạn, nhưng tôi phải
xin ăn gian một ít nữa để
nói một điều mà tôi thấy cần phải nói. Tôi nhắc đi nhắc lại hoài cái tinh
thần Đại học Y khoa Huế trong sinh viên, vậy với
một người như tôi đă gần 20 năm
sống với Đại học Y Khoa Huế tôi có
được một tinh thần như vậy hay không?
Năm 1961 tôi vào làm phụ giáo cho Y khoa
Huế mà không nghĩ đến chuyện mở nhà
thuốc hay làm việc cho một viện Bào chế là v́ tôi
muốn t́m cơ hội để thực hiện cái
đam mê nghiên cứu khoa học mà tôi đă có từ
nhỏ. Trong suốt
thời gian gần 10 năm có được cơ hội
này, tôi đă có những thành công và không thành công, nhưng
thành công hay không, tôi không cường điệu mà nói
rằng tôi đă luôn luôn làm việc và suy nghĩ trong tinh
thần Đại học Y khoa Huế.
Năm
1964 tôi được Trường cho qua Đức
để làm luận án Tiến sĩ
sinh hóa. Nhờ có bằng Dược sĩ và 3 năm làm
phụ giáo mà Đại học Freiburg và Khu Sinh hóa
của Đại học Y khoa Freiburg đă chấp thuận cho
tôi vào nghiên cứu để làm Tiến sĩ. Công tŕnh của tôi là nghiên cứu về 2 enzymes L
và D-6 Hydroxynicotin oxidases. Ở đây tôi
gặp 2 trở ngại, thứ nhất là trở ngại
về ngôn ngữ, thứ hai là sự thiếu hiểu
biết về enzymes trong sinh hóa cơ bản. Tuy nhiên tôi đă vượt được
mọi khó khăn, làm việc không biết mệt mỏi
(có khi phải làm việc qua đêm trong pḥng lạnh -16 C) và
sau hơn 3 năm tôi đă hoàn thành luận án. Về
nghiên cứu tôi đă tinh hóa và kết tinh được
L-6 hydroxynicotin oxidase, khảo sát một phần tính chất
và cấu trúc cũng như sự khác biệt giữa L- va
D-6 hydoxynicotin oxidases. Về phần học tập tôi đă
viết 1 luận án bằng tiếng Đức, thi vấn
đáp 3 môn học trong đó sinh hóa là chính với
điểm khá cao. Công tŕnh của chúng tôi đă
được đăng tải bằng tiếng
Đức ở một số tạp chí sinh hóa Đức
hay bằng tiếng Anh ở Journal of European Biochemistry năm
1968. Bây giờ vào Google, yahoo v.v…vẫn t́m thấy tài
liệu về nghiên cứu này hay những nghiên cứu kế
tiếp về 2 enzymes trên cho đến bây giờ.
Tháng
3 năm 1983 tôi vượt biên đến Mỹ, nhờ những
kinh nghiệm về protein mà 3 tuần sau tôi được
hai nơi nhận cho làm việc, đó là hăng AMGEN - 1 hăng
Biotech lớn ở Thousand Oak CA (mà sau đó tôi đă từ chối) và Khu Nhi khoa của Đại
học Y khoa UCLA. Ở đây tôi được tuyển
như một postdoc fellow ăn lương của Research
Associate, làm việc dưới sự hướng dẫn
của Gs. R. Seeger, Trưởng Khoa Nhi. Công tŕnh của tôi
là tinh hóa những monoclonal antibodies thích hợp rồi dùng chúng
để t́m cách lấy hết tế bào ung thư trong
tủy xương của bệnh nhân bị neuroblastomas, với
mục đích là sẽ chuyền tủy sạch này lại
cho cùng bệnh nhân (autologous transplantation). Neuroblastoma là
một loại ung thư của hệ giao cảm, di căn
vào tủy xương ở
giai đoạn 4, ở những bệnh nhân trầm
trọng này (high risk patient) thường phải được thay tủy
xương và nếu công tŕnh được thành công th́ ta
sẽ có được một kỹ thuật mới vừa
cứu sống được bệnh nhân vừa ít tốn
kém. Thế là tôi lại có dịp làm việc trong pḥng
lạnh -16 C và tôi đă làm việc ở tuổi ngoài 50
cũng hăng say như ở tuổi 30 khi c̣n ở
Đức. Sau gần 2 năm tôi đă thành công lấy
hết 100% tế bào ung thư trong 1 hỗn hợp
neuroblastoma cells va tủy xương mà vẩn giữ
được stem cells. Kết quả in vitro
này đă được phổ biến trong Journal of
transplantation và nhiều tạp chí khác. Tiếc thay khi
đưa vào lâm sàng th́ lại không được như ư
muốn và công tŕnh phải ngưng lại. Tôi lại
được trao trách nhiệm đọc tài liệu và
phác họa một chương tŕnh nghiên cứu oncogene
ở neuroblastoma và sau nhiều lần bàn căi Gs. Seeger
đă viết dự án gửi đi NIH
để xin grant. Tôi đă kỳ vọng rất nhiều ở
dự án này v́ nó sẽ định
đoạt vị trí và tương lai lâu dài của tôi
ở UCLA. Tôi cũng đă chuẩn bị kỹ cho ḿnh
bằng cách học hỏi trước các kỹ thuật
cơ bản về nghiên cứu DNA, RNA của thời
đó như Northern Blot, Southern Blot, cách dùng Plasmid v.v…Nhưng
kỳ vọng của tôi đă không được đáp
ứng, NIH trả lui dự án với lư do năm đó
tất cả grants về oncogenes đă giao cho Gs M. Bishop ở
UCSF quản lư và NIH đề nghị điều đ́nh
với Gs Bishop. Gs. Seeger đă liên lạc với Gs. Bishop và
chúng tôi đă bỏ cả một ngày lên SF gặp, nói
chuyện với Gs. Bishop và nhóm nghiên cứu oncogenes của Ông, nhưng cuối cùng cũng
phải về không. Tôi rất buồn và tiếc nuối v́
tôi thấy con đường nghiên cứu oncogenes lúc đó
thật rất rộng răi thênh thang. Năm 1989 Gs. Michael
Bishop cùng với Gs. Harold Warmouth, một postdoc fellow của Ông
từ 1970 đă được giải Nobel về Y khoa khi
chứng minh được oncogene la do sự biến đổi
của proto-oncogene, một gene có nhiệm vụ
điều hoà sự tăng trưởng của tế
bào. Bây giờ chúng ta nghe nói rất nhiều về xác
định hệ genes (genomics) và xác định genes liên
hệ đến ung thư (oncogenomics) để chữa
trị ung thư một cách cá nhân và chính xác (personalized cancer
therapy) .
Hết
làm về neuroblastoma ở khu Nhi, tôi chuyển qua nghiên cứu về
glioblastoma (ung thư năo bộ) ở khu Thần kinh (Dept. of
Neurology). Lúc này tôi đă
được chuyển ngạch là Assistant Reseach Biochemist,
lương cũng được khá hơn, nhưng tôi
đă cảm thấy mệt mỏi rồi và chú tâm nhiều
hơn đến chuyện kết thúc 1500 giờ thực
tập pharmacy để thi Board. Ở đây
tôi làm việc với một Bà Giáo sư mà tôi chỉ c̣n
nhớ tên là Sylvia mà không nhớ họ. Nhiệm
vụ của tôi là tiếp tục công việc bỏ
dở của một PhD. cộng sự viên của Bà.
Số là khi nuôi cấy tế bào globlastomama trong môi
trường có chứa interleukin 2, anh này phát hiện một
protein lạ trên mặt của tế bào, nhưng kết
quả này anh không lặp lại được và sau đó
anh đă bỏ Bà mà đi. V́ nếu kết quả này có
thật th́ đây là một bước để Bà
chứng minh được là có thề cảm ứng
(sensitize) hệ miễn nhiễm của bệnh nhân
để trị ung thư cho họ. Khi
Bà tŕnh bày dự án cho tôi Bà nói: hiện
nay để điều trị ung thư người ta dùng
giải phẫu, hóa trị và xạ trị chúng ta sẽ
góp phần phát triển phương pháp: miễn nhiễm
trị (immuno cancer therapy), Bà thuyết phục tôi hăy tin
tưởng và kiên tŕ làm việc. Nhưng dù có
vận dụng hết kinh nghiệm và khả năng
của tôi, tôi cũng không t́m ra được cái protein
lạ đă được báo cáo. Tôi làm việc
với Bà được 1 năm và sau khi thi đậu Board of
Pharmacy, tôi bỏ Bà đi làm Dược sĩ 1 năm ở VMC Fresno để lấy
kinh nghiệm, rồi lại trở về làm với Bà cho
đến khi gia đ́nh tôi qua. Tháng 7 năm 1989 tôi rời
bỏ UCLA đưa gia đ́nh tôi lên San Jose cùng với
một số người quen lập corporation để
mở pharmacy, dứt khoát đoạn tuyệt với cái
đam mê nghiên cứu khoa học của tôi và không c̣n liên
lạc ǵ với ai ở UCLA nữa, Bà Sylvia chắc nay không
c̣n ở UCLA , không biết sau khi tôi đi, Bà có thành công nào
trong cái ư kiến về miễn nhiễm trị của Bà,
v́ bây giờ miễn nhiễm trị đă rất phổ
biến và trong miễn nhiễm trị ngoài cách dùng mAb (monoclonal
antibodies) đơn thuần (trastuzumab, nimotuzumab, cetuximab …)
hay mAb kết hợp với chemodrugs ( ADC antibody-drug conjugates) để
giết tế bào ung thư th́ phương pháp diều tri
gọi là oncolytic viro therapy đang được thử nghiệm
ở nhiều nơi, trong dó người ta dùng những con
virus được biến cải như polyo virus
(Đại học Duke) Herpes virus (hăng AMGEN) Measle virus (Mayo
Clinic)… để gây viêm nhiễm ở tế bào ung thư,
và do viêm nhiễm đó mà T cells kéo đến để tiêu diệt
và tiêu diệt luôn tế bào ung thư, hoặc việc
điều chế vaccine trị ung thư bằng cách
cảm ứng dendrites (một loại tế bào khác của
hệ miễn nhiễm), nghĩ cho cùng cũng chỉ là phát
huy ư nghĩ mà Bà Sylvia đă có cách đây 30 năm.
Tôi
nghĩ tôi đă từ bỏ kịp thời cái không khí
Đại học và đam mê nghiên cứu khoa học
của tôi, tuy nhiên tôi không bao giờ ân hận đă vào làm
việc cho Đại học Y khoa Huế, tôi luôn luôn nâng
niu những kỷ niệm mà tôi đă có ở đây và cái
tinh thần Đại học Y khoa Huế mà tôi thu nhận
được.
Năm
1980 trước khi rời
Huế để vào dạy ở Y khoa Sài G̣n, tôi c̣ ghé
lại thăm Thầy Trụ tŕ Chùa Phước
Điền, có nói đến nỗi buồn của tôi khi
phải xa Đại học Y khoa Huế, Thầy đă
kể cho tôi nghe một chuyện như sau: một ngư
phủ cả ngày bỏ lưới mà không có được
mớ cá nào, ngư phủ buồn rầu chuẩn bị
thu dọn đồ đạc để đi về,
bỗng ánh trăng chiếu sáng cả khoang thuyền,
ngư phủ reo lên: Ồ ta không có được một
thuyền cá nhưng ta lại có một thuyền trăng.
Nói xong ngư phủ như quên hết
nỗi mệt nhọc cả ngày, quên miếng cá phải
đem về cho gia đ́nh trong bữa cơm tối,
vừa chèo thuyền vừa cất giọng hát.
Nếu
xét về những thành tựu trong việc thực hiện
đam mê nghiên cứu khoa học của tôi, tôi thực
sự đă không có được một thuyền cá,
nhưng bây giờ tôi nghĩ tôi đang có một thuyền
trăng. Tuy nhiên thuyền cá hay thuyền trăng cũng
chỉ là hư ảo của cuộc đời, không bám
víu vào ta mới có được một tâm hồn thư thái và thoải mái. Đây
có lẽ là điều mà tôi muốn chia xẻ trong buổi
nói chuyện hôm nay.
Xin trân trọng cám ơn và kính chào.
Vơ Đăng Đài
Thầy Vơ Đăng Đài tại Đại Hội YKHHN 2015 Little Saigon, California