I.  Aliskiren. THUỐC GIẢM HUYẾT ÁP ĐƯỢC FDA chấp thuận và vừa có mặt trên thị  trường. 
                                    TEKTURNA  (Aliskiren) là loại thuốc uống giảm huyết áp đầu tiên tác dụng ức chế trực tiếp  vào renin. Renin là chất được tạo nên bởi thán khí thể tích máu hoặc lưu  lượng máu qua thận bị giảm. Renin tham dự vào một giai đoạn của sự tạo thành  angiotensin 2 có tính chất làm tăng huyết áp. Với liều 150 mg ngày 1 làn, hiệu  ứng giảm huyết áp thấy rỏ trong vòng 2 tuần lễ. Nếu huyết áp vẫn chưa được kiểm  soát hữu hiệu sau khoảng thời gian này có thể tăng lên 300 mg/ngày 1 lần. Liều  trên 300 mg chỉ làm tăng khả năng bị tiêu chảy mà không tăng hiệu ứng giảm  huyết áp. 
                                      Trong  chuỗi biến đỗi angiotensinogen thành angiotensin 2, có 3 loại thuốc tác dụng  vào 3 vị trí khác nhau. Aliskiren tác dụng ức chế renin ngăn sự biến đỗi  angiotensionogen thành angiotensin 1, các loại ức chế angiotensin  converting enzyme như enalapril (vasotec), lisinopril (zestril, prinivil)), captopril  (capoten), fosinopril (monopril), ramipril (altace), quinapril (accupril), perindopril  (aceon) v.v…ngăn sự biến đỗi angiotensin 1 thành angiotensin 2 và loại ức chế  receptors của angitensin 2 (ARBs) như losartan (cozaar), valsartan  (diovan), telmisartan (micardis), olmesartan (benicar), irbesartan (avapro),  candesartan (atacand) v.v… làm cho angiotensin 2 không bám được vào receptors để  đưa tín hiệu vào bên trong tế bào của cơ quan liên hệ nhằm tăng tiết catecholamins  (norepinepjrin), làm co mạch (vasoconstriction), và tăng huyết áp hay làm tăng  tiết aldosterone gây tăng giử lại sodium, và gây tăng huyết áp. Vì cơ chế  phản hồi (feedback) của hệ thống renin angiotensin cần để điều hòa sự tạo thành  angiotensin 2, khi angiotensin 2 tăng sẻ phản hồi lại làm giảm tạo renin, ngược  lại khi angiotensin 2 giảm thì sẽ làm tăng renin. Do đó khi dùng các loại ức  chế ACE thì sẽ có sự gia tăng renin, trái lại với aliskiren, sự giảm  angiotensin 2 không gây nên tăng hoạt tính renin. Sự kết hợp của Aliskiren  với ACE inhibitors hay ARBs tác dụng vào 3 nơi riêng biệt của chuổi angiotensin  sẽ làm tăng hiệu quả giảm huyết áp của thuốc. Thuốc gây lợi tiểu như HCTZ kết  hợp với aliskiren cũng có tác dụng cộng. Kết hợp với các loại calcium channel  blockers như amlodipin (norvasc), nifedipin (procardia, adalat) diltiazem  (cardizem) v.v. hình như không thấy tăng hiệu quả. 
                                      Aliskiren  bị thoái biến bởi cytochrome P450, tất cả các thuốc tăng hoạt hay ức chế CYP  450 đều ảnh hưỡng đến hoạt tính của aliskiren. 
                                      Aliskiren  phải uống mổi ngày vào cùng thời gian. Một bửa ăn nhiều chất béo sẽ làm  giảm hiệu ứng của thuốc. Phụ nữ mang thai phải ngưng uống thuốc vì thuốc có hại  cho thai nhi và thuốc không được dùng trong đệ nhị hay tam cá nguyệt của thai  kỳ.  
                                      Phản ứng  phụ của aliskiren là tiêu chảy và sưng húp tay, chân, mặt môi, khó nuốt và  khó thở. Bệnh nhân uống thuốc có triệu chứng này thì phải ngưng thuốc ngay. So  với nhóm thuốc ức chế ACE thì khả năng bị ho ít hơn nhiều. 
                                      Aliskiren  cũng làm tăng potassium và creatinine trong máu thưòng xảy ra khi kết hợp  với các thuốc lợi tiểu. 
                                    II.  THUỐC LÀM TĂNG NGUY CƠ GẢY XƯƠNG: 
                                     PIOGLITAZONE  (actos) hay ROSIGLITAZONE (avandia) dùng để trị tiểu đường có thể gia tăng  độ gảy xương khi so sánh với Metformin (glucophage) hay Glyburude  (micronase,diabeta)  ảnh hưởng tim mạch  của avandia phổ biến ỡ New England Journal of Medicine số tháng 5 ngày 21 2007  vẩn đang còn tranh cãi. Nhà sản xuất Glaxo vẩn bảo đảm sự an toàn của  thuốc, FDA cũng chưa có quyết định rỏ rệt. 
                                      CÁC LOẠI  THUỐC NGĂN SỰ HẤP THỤ LẠI CỦA SEROTONIN (SSRI: selective serotonine  reuptake inhibitors) như citalopram: Celexa, escitalopram: Lexapro, sertraline:  Zoloft v.v…). Dùng hàng ngày các loại SSRI có thể tăng 2.2 lần nguy cơ ngã  té và giảm tỷ trọng khoáng của xương (bone marrow density). Theo cơ  quan nghiên cứu xốp xương của Canada thì có sự liên hệ giữa liều lượng  thuốc và gia tăng nguy cơ gảy xương ở bệnh nhân 50 tuổi trở lên.  
                                    III. ẢNH  HƯỞNG TIM MẠCH VÀ TÂM THẦN CỦA CAC LOẠI THUÓC TRỊ ADHD (attention deficit hyperactivity  disorder.) 
                                    FDA vừa  buộc các hảng bào chế loại thuốc này cung cấp tài liệu bệnh nhân đẻ cảnh báo  nguy cơ tim mạch hay nhữg phản ứng tâm thần mà thuốc có thể gây nên. 
                                      Có những  báo cáo cho thấy có những trường hợp các bệnh nhân bị bệnh tim mạch dùng thuốc  bị chết đột ngột. 
                                      Các bệnh  nhân có tiền sử về bệnh tim mạch, trầm cảm hay tâm thần không được dùng các  loại thuốc này. 
                                    IV. THUỐC CHỐNG OXY HÓA (antioxidants) 
                                    Trong quá trình biến dưỡng của tế bào  có sản xuất ra các nhóm chất gọi là nhóm gốc tự do (free radicals), biến dưỡng  càng mạnh như khi vận động, thể dục, thể thao nhiều thì sự sản xuất free  radicals lại càng nhiều, các nhóm này phải được trung hòa qua biến dưỡng, nếu  không chúng có thể gây tổn hại đến DNA của tế bào và là nguồn gốc của vô số  loại bệnh kinh niên (oxidative stress), tuy nhiên free radicals cũng là thành  phần trong hệ thống đề kháng của cơ thể để chống sự xâm nhập của các mầm bệnh.  
                                      Trước đây người ta nghĩ rằng nếu dùng  thường xuyên các loại chống oxyhoa (antioxidants) như beta-carotens, vit.A,  Vit. E, Vit.C, Selenium v.v dùng riêng biệt hay kết hợp có trong viên đa sinh  tố (multivitamins & minerals) thì có thể loại trừ các free radicals và  tránh được những tai hại của oxidative stress làm giảm nguy cơ tim mạch và ngăn  ngừa ung thư. Trung Tâm Ung Thư Quốc Gia (National Cancer Institute) đã từng  cho rằng dùng các loại antioxidants có thể ngăn ngừa hay chặn đứng sụ phát  triển của ung thư. 
                                      Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây lại  cho những kết quả lẩn lộn. Theo nhóm BS. Goran Bjelakovic tại bệnh viện đại học  Copenhague của Đan Mạch, khi nghiên cứu ở nhóm người chưa có bệnh, hay đã có  bệnh đưa đến kết luận là các loại beta-carotene, vitamin A và vitamin E dùng  riêng rẽ hay kết hợp với các chất khác làm tăng tỉ lệ tử vong (mortality),  Vitamin C thì không thấy làm tăng tử vong nhưng cũng không làm người ta sống  lâu hơn, còn selenium thì hình như có làm giảm tử vong. Theo Bjelakovic thì  free radicals thật sự có tạo nên oxidative stress nhưng loại trừ free radials  cũng ảnh hưởng đến hệ thống đề kháng của cơ thể. JAMA gần đây (Feb 28, 07) cho  rằng thay vì làm tăng cường hệ thống miển nhiểm của cơ thể, các loại  antioxidants thường được dùng còn gọi là loại thuốc phụ thêm (supplements)  lại làm tăng nguy cơ tử vong. 
                                      Beta-carotene hay vitamin A theo một  nhóm nghiên cứu của trường Harvard cũng không có tác dụng gì trên vỏng mạc của  mắt.  
                                       Vấn đề đặt ra là có nên khuyên mọi  người dùng thêm vitamin và chất khoáng hằng ngày như trước đây vẩn thường dùng?.  Thật ra vấn đề đang còn nhiều tranh cãi, theo nhiều người như BS Andrew  Weil (self healing) thì mổi ngày 1 viên supplement (multivitamins &  minerals) vẩn tốt, và thí nghiệm của 1 nhóm BS đại học y khoa Tuff cho  thấy rằng ở người lớn tuổi dùng mổi ngày 1 viên vit. E 200 mg thì độ tử  vong có giảm nhẹ vả khả năng bị nhiểm trùng đường hô hấp trên (upper-respiratory  infections) giảm 20%. Khảo sát dùng multivitamin cho các phụ nữ mang thai ở  Tansania (New England Journal of Med. 4/2007)  cho thấy làm giảm nguy cơ sinh con nhẹ cân. 
                                      BS. Blumberg (đại học y khoa Tuffs) đề  nghị: Ai đang uống supplements thì cứ uống, ai chưa uống thì không có lý do gì  để uống. 
                                      Vì các antioxidants trong các  supplements được dùng là các hóa chất tổng hợp, chúng có thể hoặc không  hữu hiệu, hoặc có những tính chất không tốt mà các antioxidants thiên  nhiên trong trái cây, rau quả hay thức ăn không có. Vì vậy để tăng tuổi  thọ, tốt hơn hết là nên có một chế độ ăn uống lành mạnh, gia tăng hoạt động thể  chất, cũng như trí óc, bỏ hút thuốc lá, uống rượu chừng mực, sống vui vẽ, ít lo  âu, bớt căng thẳng. 
                                    TS Võ Đăng Đài 
                                   |