1/ CAO HUYẾT ÁP : NGUYÊN NHÂN NẰM  TRONG NÃO BỘ. 
                                       
                                                 Một nhóm nghiên cứu các nhà khoa học  người Anh đã nhận diện trong não bộ một protéine được xem là nguyên nhân của  cao huyết áp,trong khi đó nói chung nguyên nhân của chứng cao huyết áp thường  được quy cho do thận hoặc các động mạch.Đây là kết quả của một công trình  nghiên cứu được đăng tải trên báo Hypertension.Các nhà nghiên cứu của Đại Hoc  Bristol đã phân lập protéine JAM-1 trong não bộ và đã khám phá rằng protéine  này giam hãm các bạch cầu,gây phản ứng viêm làm trở ngại tuần hoàn máu và làm  giảm tiếp vận oxygène đến não bộ.Theo các nhà nghiên cứu,cao huyết áp là một  bệnh viêm mạch máu của não bộ,hay nói đúng hơn là một bệnh có nguồn gốc huyết  quản. 
     “ Hiện nay các nghiên cứu cơ bản này  sẽ mở ra khả năng điều trị những bệnh nhân cao huyết áp không đáp ứng với các  thuốc chống cao áp cổ điển,bằng những thuốc làm giảm viêm huyết quản và làm gia  tăng lưu lượng máu đến não bộ.Giáo sư Julian Paton, người điều khiển dự án,đã  giải thích như vậy.” Thách thức mới là cần hiểu loại viêm nào là nguyên nhân để  biết cần sử dụng những loại thuốc nào”.Ông nói thêm như thế và nhấn mạnh rằng  JAM-1 có thể chỉ ra những huớng mới để điều trị bệnh cao huyết áp.Giáo sư  Jeremy Pearson, phụ trách British Heart Foundation,đã chào đón khám phá này:  “Công trình nghiên cứu gây ấn tương này thật là quan trọng bởi vì đã đưa ra  những nguyên nhân bất ngờ của cao huyết áp”.Tuy nhiên,đối với Giáo sư  MacGregar,chủ tịch Hiệp Hội Cao   Huyết Áp Anh,thì những công trình này còn rất sơ bộ và cần  phải được xác nhận.Cao huyết áp đặc biệt có thể đưa đến nhồi máu cơ tim và gây  tổn hại thận.Yếu tố nguy cơ tim mạch này gia tăng với tuổi tác.Ở Phap cứ 3  người thì có một người bị cao huyết áp và trên thế giới có hơn 600 triệu người  bị chứng bệnh này. 
   
(LE FIGARO 16/4/2007)
                                     2/ NHỮNG HẠN CHỀ CỦA TIÊM CHỦNG CHỐNG  BỆNH THỦY ĐẬU 
                                         Ở Hoa Kỳ,chính quyền đã khuyên tiêm  chủng đại trà chống bệnh thủy đậu (varicelle).Ngày nay,họ khám phá rằng thời  gian miễn dịch sau khi chủng ngắn và khuyên cần được tái tiêm chủng cho tất cả  mọi người. 
                                      Thuốc chủng chống bệnh thủy đậu ở Hoa Kỳ đã được khuyên sử dụng triệt để cho tất cả  các nhũ nhi bắt đầu từ năm 1995.Trái lại ở Pháp,việc chủng ngừa chỉ được đề  nghị cho một vài nhóm có nguy cơ, như các trẻ bi suy giảm miễn dịch hay bệnh  tật và các thiếu niên đã không bao giờ bị bệnh này.Một công trình nghiên cứu  vừa được công bố mới đây trong New England Journal of Medicine tiết lộ rằng  tính miễn dịch có được với thuốc chủng này không hẳn sẽ là vĩnh viễn vì lẽ sau  10 năm,một số người được tiêm chủng cuối cùng vẫn mắc phải bệnh thủy đậu. 
                                      Điều này không phải là không có hậu  quả.Thật vậy,khi ban thủy đậu phát ra trong thời kỳ thơ ấu thì bệnh hiền tính  hơn nhiều so với lúc phát bệnh ở tuổi trưởng thành.Sự tiêm chủng đại trà làm  chậm lại tuổi xuất hiện của bệnh thủy đậu, do đó có nguy cơ gây bệnh nặng  hơn.    
                                      Công trình nghiên cứu này của New England Journal of Medicine đã khiến  cho giới phụ trách y tế Hoa Kỳ  khuyên kể từ nay cần phải được tái tiêm chủng   chồng bệnh thủy đậu cho các trẻ từ 4 đến 6 tuổi. 
                                    387 TỬ VONG 20 NĂM
                                        Bệnh  thủy đậu là một bệnh thông thường, có nguồn gốc siêu vi khuẩn và rất phổ  biến,gây bệnh cho 700.000 người mỗi năm ở Pháp,chủ yếu trong những năm đầu của  đời sống. Bệnh thủy đậu gây sốt vừa,nổi ban ngứa ở da và mệt mỏi trong khoảng 8  ngày. Một khi lành bệnh,bệnh nhân được miễn dịch chống lại nhiễm trùng nhưng sự  nhiễm trùng này có thể được phục hoạt và đôi khi gây bệnh zona.  
                                      Trong vài trường hợp hiếm hoi,các biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra.  Theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2003 trong Thông Báo Dịch Tể Hàng  Tuần, tỷ lệ nhập viện phòng hồi sức trước 14 tuổi là 2,6 trường hợp trên  100.000 trẻ em bị bệnh thủy đậu và tỷ lệ tử vong khoảng 0,4 trên 100.000 trường  hợp mỗi năm. Mặt khác,một nghiên cứu được thực hiện bởi trung tâm theo dõi các  tử vong của Inserm tiết lộ rằng trong suốt 20 năm qua, 387 trường hợp tử vong  gây nên bởi thủy đậu và các nạn nhân chủ yếu là những người trưởng thành. 
                                      Việc tiêm chủng có hệ thống các nhũ nhi ở Hoa Kỳ ngay từ năm 1995 trước hết  đã cho phép ghi nhận một sự giảm sút rõ rệt số trường hợp bị thủy đậu,số các  biến chứng và các phí tổn do bệnh này gây ra.Mặc dẩu sự thành công của chương  trình tiêm chủng, các vụ dịch thủy đậu vẫn đều đặn xảy ra,điều nghịch lý là lại  xảy ra trong các trường học, nơi tỷ lệ chủng ngừa đạt mức rất cao. Điều này có  thể được giải thích như sau: cần phải có một sự tiếp xúc với siêu vi trùng thủy  đậu để nâng cao đều đặn tính miễn dịch.Những nồng độ kháng thể đặc hiệu đã  chứng tỏ rằng 15% trẻ mặc dầu được tiêm chủng đã không được bảo vệ đầy đủ và có  thể bị nhiễm trùng.Để đánh giá thời gian miễn dịch sau khi tiêm chủng, các nhà  nghiên cứu Hoa Kỳ,trong  công trình Varicella Active Surveillance Project,đã quyết định quan sát 350.000  trẻ ở California (được tiêm chủng hay không) trong vòng 10 năm (từ 1995 đến  2004) và lập danh sách tất cả các trường hợp thủy đậu có triệu chứng lâm sàng  xảy ra nơi các trẻ này. 
                                      Các kết quả được công bố ngày 15  tháng 3 vừa rồi trong New England Journal of Medicine thật là đặc biệt lý  thú.Một mặt,sự giảm sút quan trọng số trường hợp thủy đậu ở các trẻ được chủng  ngừa và không được chủng ngừa. Năm 2003 và 2004, 420 bệnh nhân đã được nghi  nhận,so với 2.794 trường hợp xảy ra vào năm 1995.Tuy nhiên cũng có vẻ như là  vào những năm 2002,2003 và 2004,số trường hợp thủy đậu không giảm trong khi đó  số trẻ được tiêm chủng lại gia tăng. 
                                      Năm  1996, 1% các trường hợp thủy đậu xảy ra nơi các trẻ được tiêm chủng,so với 60%  vào năm 2004.Mặt khác,theo công trình nghiên cứu này,tỷ lệ gây bệnh thủy đậu  đạt mức cao nhất xảy ra vào khoảng 5 tuổi năm 1995,từ nay xuất hiện chậm  hơn,vào khoảng 10 tuổi. Đối với trẻ không được tiêm chủng, mức cao nhất này xảy  ra vào khoảng 12 tuổi,còn đối với trẻ được tiêm chủng thì khoảng 6-7 tuổi.Sau  cùng, bệnh thủy đậu xảy ra ở trẻ được tiêm chủng cũng như không được tiêm  chủng, vào năm 2004 nghiêm trọng hơn là vào năm 1995, bởi vì bệnh xảy ra lúc  bệnh nhân ở lứa tuổi cao hơn. 
                                      “Người Mỹ từ nay khuyên tái tiêm chủng.Nhưng không ai có thể nói là sự  bảo vệ miễn dịch thu được có vĩnh viễn hay không,dầu cho có tái tiêm chủng  chăng nữa.Cần phải tiền hành những nghiên cứu  khác để giải quyết vấn đề này.”Bs Michel Rosenheim (chuyên viên dịch tễ của  Bệnh Viện Pitié-Salpetrière) đã giải thích như vậy.Điều này một lần nữa chứng  tỏ rằng cần phải suy nghĩ nhiều trước khi phát động chủng ngừa đại trà.Cần phải  dự kiến các hiệu quả tai hại và tất cả tình huống trước khi có một quyết định  như vậy”  
   
  (LE FIGARO 11/4/2007) 
    
  3/ HAI CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN  KẾT VIỆC SỬ DỤNG HORMONE VỚI GIA TĂNG NGUY CƠ UNG THƯ 
    
        ATLANTA. Các nghiên cứu từ hai lục địa đã ghi nhận nhiều tin xấu hơn về việc  điều trị thay thế bằng hormone (hormone replacement therapy) và đưa ra bằng  chứng chắc chắn nhất đến nay có được là điều trị thay thế bằng hormone có thể  làm gia tăng nguy cơ bị ung thứ vú và liên kết với tỷ lệ bị ung thư buồng trứng  hơi cao hơn so với người không sử dụng. 
                                      Các  con số mới do chính phủ Mỹ đưa ra cho thấy tỷ lệ ung thư vú đã ổn định năm 2004  sau khi giảm rõ năm 2003 (là năm sau khi hàng triệu phụ nữ ngưng dùng hormone  vì một công trình nghiên cứu quy mô lớn đã liên kết việc sử dụng thuốc này với  các tỷ lệ mắc phải bệnh tim,đột quy và ung thư vú cao hơn).   
                                      Các  chuyên gia đã nói rằng tỷ lệ ung thư vú ổn định chứng tỏ rằng sự giảm sút tỷ lệ  ung thư năm 2003 là điều có thật chứ không phải do tình cờ. 
                                    Từ  năm 2001 den 2004, tỷ lệ ung thư vú giảm hầu như 9%, một sự giảm đột ngột, các  nhà nghiên cứu đã báo cáo trong The New England Journal of Medicine. Khuynh  hướng này lai càng rõ nét hơn đối với dạng ung thư thường xảy ra nhất: các ung  thư mà sự tăng trưởng được duy trì bởi các hormones.Tỷ lệ này giảm 15% nơi các  phụ nữ tuổi từ 50 đến 69,nhóm bệnh nhân chủ yếu được điều trị thay thế bằng  hormone.                                                                                          Đồng thời ,một nghiên cứu trên khoảng 1 triệu phụ nữ ở Anh cho thấy rằng  20% trong số những người sử dụng hormone sau tuổi mãn kinh có khả năng phát  triển và chết vì ung thư buồng trứng hơn là những phụ nữ không bao giờ sử dụng  hormone thay thế. Công trình nghiên cứu này được công bố on-line trên The  Lancet. 
                                     (INTERNATIONAL  HERALD TRIBUNE 20/4/2007) 
                                                                           
                                                                          4/ MÃN KINH : ĐIỀU TRỊ LÀM GIA TĂNG UNG THƯ BUỒNG TRỨNG 
                                                                           Một  công trình nghiên cứu rộng rãi của người Anh chứng tỏ rằng điều trị thay thế bằng  hormone (THS=traitement hormonal substitutif) làm gia tăng nhẹ nguy cơ bị ung  thư buồng trứng. 
                                      Hầu  như mỗi tuần đều có một công trình khoa học phát hiện một lợi ích hay một nguy  cơ mới của điều trị chứng mãn kinh bằng các hormone thay thế kết hợp oestrogènes  và progestérone.Tuần này,chính tạp chí Anh,The Lancet,công bố trên site  Internet những kết quả của một điều tra phát hiện rằng điều trị thay thế bằng  hormone làm gia tăng nguy cơ ung thư buồng trứng.Đặc biệt các tác giả tính toán  rằng ở Anh điều trị mãn kinh là nguyên nhân của thêm 1300 trường hợp ung thư  buồng trứng và của 1000 tử vong trong vòng 15 năm (theo một phần tích mới của  MWS(Million Women Study). 
                                      Điều  trị thay thế bằng hormone,nhằm chống lại các cơn bừng (bouffées để chaleur) và  ngăn ngừa chứng loãng xương (ostéoporose),đã được chỉ định rộng rãi cho đến năm  2002,là năm một thử nghiệm điều trị ở Hoa   Kỳ đã kết luận rằng các nguy cơ cao hơn là lợi ích trong việc  điều trị thay thế bằng hormone.Nguy cơ chủ yếu được đưa ra là nguy cơ ung thư  vú. 
                                      Công trình nghiên cứu MWS đã theo dõi trong hơn 6 năm, 948.575 phụ nữ  mãn kinh ở Vương Quốc  Anh,không có tiền sử ung thư hay cắt bỏ 2 bên buồng trứng (trong đó 30% sử dụng  THS vào lúc thực hiện công trình nghiên cứu và 20% là những người trước đây đã  sử dụng).Trong quá trình theo dõi, 2.273 trường hợp mới ung thư buồng trứng  xuất hiện và 1.591 tử vong do ung thư buồng trứng đã được thống kê.Phân tích thống  kê đã cho phép thấy rằng nguy cơ ung thư buồng trứng 20% cao hơn ở những người  sử dụng THS so với những người không sử dụng; nguy cơ tử vong 20% cao hơn.Sử  dụng càng lâu thì nguy cơ càng đáng kể.Trên 10 năm sử dụng,nguy cơ này gia tăng  31%.Nhưng loại điều trị dường như không có ảnh hưởng,mặc dầu sự kết hợp  progestatifs với oestrogènes có vẻ như làm giảm một ít mối nguy cơ này. Ngoài  ra nguy cơ này sẽ biến mất ngay khi dừng sử dụng  hormone. 
                                    Trong vòng 5 năm,số những trường  hợp mới ung thư buồng trứng là 2,6 trên 1000 phụ nữ điều trị với THS và 2,2 đối  với các phụ nữ khác, hoặc thêm một ung thư trên 2.500 phụ nữ được điều trị thay  thế bằng hormone.Mặc dầu nguy cơ tính theo trị số tuyệt đối là khiêm tốn, nhưng  các tác giả đưa ra một lời cảnh cáo toàn bộ chống lại việc sử dụng THS.Thật vậy  các nhà nghiên cứu đánh giá rằng loại điều trị này sẽ làm gia tăng toàn bộ 63%  nguy cơ của 3 loại ung thư (vú,buồng trứng và nội mạc tử cung). Nguy cơ ung thư  buồng trứng do sử dụng THS đã là đối tượng của những nghiên cứu rất mâu thuẫn  cho đến ngày hôm nay.Công trình này nếu được xác nhận, sẽ làm sáng tỏ một nguy  cơ vẫn còn rất thấp”. Christian Jamin,BS chuyên khoa phụ khoa đã phát biểu như  vậy. 
                                    CÁC NGUY CƠ BỊ ĐÁNH GIÁ THẤP 
                                                                          Trong nhiều năm,điều trị thay thế bằng hormone đã được đề nghị cho hầu  hết các phụ nữ đi khám bệnh vào lúc mãn kinh.Các lợi ích đã được đánh giá quá  cao và ngược lại các nguy cơ lại bị đánh giá thấp.Từ năm 2002,các thầy thuốc có  khuynh hướng uyển chuyển trong chỉ định đối với các bệnh nhân,tùy theo tầm quan  trọng của các cơn bừng và nguy cơ của chứng loãng xương.Đặc biệt ở Pháp,các  thầy thuốc sử dụng nhiều hơn những hormone gọi là thiên nhiên (hormone  naturelle)  (các oestrogènes được sử dụng  bằng đường qua da và progestérone micronisée). Điều trị theo cách này ít có tác  dụng có hại hơn so với lối điều trị ở Hoa   Kỳ.Nhưng thiếu những công trình nghiên cứu lớn để xác nhận  điều này. 
                                                                          (LE FIGARO  24/4/2007) 
                                    5/ MỐI LIÊN HỆ GIỮA BỆNH TRẦM CẢM VÀ  BỆNH TIỂU ĐƯỜNG ĐƯỢC PHÁT HIỆN NƠI NGƯỜI GIÀ 
                                                                                                                                              
                                      Một nhóm nhà nghiên cứu Hoa   Kỳ đã phát hiện ở người già một mối liên hệ giữa sự hiện diện  của các triệu chứng của bệnh trầm cảm và sự xuất hiện bệnh tiểu đường loại  2.Mercedes Carnethon (Northwestern University để Chicago) và các cộng sự viên  đã công bố hôm thứ hai 23/4 các kết quả theo dõi của hơn 4.500 người tham dự  vào một công trình nghiên cứu được gọi là “cardiovascular Health Study”. 
                                      Mỗi năm,từ năm 1989 đến 1999, các nhà nghiên cứu đã cho trắc nghiệm tình  trạng trầm uất ở những người trên 65 tuổi.Ở những người này lúc đầu không có  triệu chứng nào của bệnh tiểu đường đã được phát hiện.Như vậy các nhà nghiên  cứu đã có thể chứng tỏ rằng những người có những dấu hiệu của bệnh trầm cảm  (dẫu là không thường xuyên hay dai dẳng) đã phát sinh một cách khá rõ một bệnh tiểu  đường phải cần điều trị bằng thuốc.Nguy cơ trở nên bệnh tiểu đường là 50% đến  60% cao hơn đối với những người có các dấu hiệu của bệnh trầm cảm. 
                                      Cơ chế liên kết chứng trầm cảm và  sự phát sinh bệnh tiểu đường đến nay vẫn khônng giải thích được. 
                                       
                                      (LE MONDE 26/4/2007) 
                                       
                                                                          6/ CẮT BỎ TÚI MẬT BẰNG ĐƯỜNG ÂM ĐẠO 
                                                                                                                                                   
                                    Một nhóm phẫu thuật của New  York-Presbyterian/Columbia University Medical Center đã áp dụng một kỹ thuật  mới để cắt bỏ túi mật.Kỹ thuật này được gọi là NOTES (Natural Orifice  Translumenal Endoscopic Surgery : giải phẫu nội soi qua một lỗ tự nhiên).Phẫu  thuật được thực hiện với một ống nội soi (endoscope) được đưa vào bằng đường âm  đạo và dưới sự kiểm soát của nội soi ở bụng (laparoscopie abdominale).Kỹ thuật  mới này được đề nghị nhằm làm giảm sự đau đớn hậu phẫu và thu nhỏ các sẹo giải  phẫu cũng như đảm bảo sự hồi phục nhanh hơn sau mổ.Tuy nhiên kỹ thuật vẫn còn  trong giai đoạn thí nghiệm.Lúc trình bày kỹ thuật này ở Hội Nghị hàng năm của  Society of American Gastrointestinal Endoscopic Surgeons tại Las Vegas vào  weekend tuần vừa rồi, bác sĩ Marc Bessler đã tuyên bố rằng những phẫu thuật qua  một lỗ tự nhiên là một bước tiến bộ cuối cùng của kỹ thuật ngoại khoa xâm nhập  tối thiểu(techniques chirurgicales minimalement invasives).Kỹ thuật này sẽ loại  bỏ một phần lớn các khó chịu do kỹ thuật cổ điển gây nên.”ngoài phẫu thuật cắt  bỏ túi mật,kỹ thuật NOTES cũng thích hợp để cắt bỏ ruột thừa,thăm dò ổ bụng và  làm sinh thiết”  
                                    (LE GENERALISTE  26/4/2007) 
                                    7/ CHOCOLAT LÀM GIẢM HUYẾT ÁP 
                                       
                                      Ăn chocolat  đen có thể có hiệu quả trong việc hạ huyết áp như các thuốc giảm áp thông  thường.Một xem xét lại các công trình nghiên cứu đã nhận thấy như vậy.Mặt  khác,trà có vẻ không có hiệu quả trong tác dụng này.Bài báo nói rằng một chế độ  ăn uống giàu trái cây và rau xanh có lợi cho sức khỏe một phần là do thực vật  chứa những chất hoá học được gọi là polyphenols giúp kiểm soát huyết áp.Từ hơn  3000 bài báo,các nhà nghiên cứu đã chọn những công trình nghiên cứu rộng rải  nhất và sử dụng các kỹ thuật thống kê để phối hợp các dữ kiện.4 trong 5 nghiên  cứu về chocolate đã nhận thấy huyết áp bị giảm lúc ăn chocolat đen. 
                                    Bài báo này được công bố vào số tháng 4 của The  Archives of Internal Medicine. 
                                                                          (INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE  26/4/2007) 
                                       
                                                                        8/ KHUYÊN TẬP THỂ DỤC ĐỂ CHỐNG VIÊM KHỚP NƠI  PHỤ NỮ 
                                                                                                            
                                             SYDNEY. Theo một nghiên cứu mới của Úc,tập thể dục không  những bảo vệ tim và giữ gìn những đường nét thân thể lúc lớn tuổi mà còn đảm  bảo sự phòng ngừa chống lại bệnh viêm khớp nơi các phụ nữ.Một phụ nữ cao tuổi  tập thể dục càng nhiều thì khả năng tránh đau khớp càng lớn.Viêm khớp là một  trong những bệnh lý phổ biến nhất ở các nước phương Tây.  
                                      Theo nghiên cứu này,chỉ cần tập thể dục  1 giờ 15 phút mỗi tuần cũng đủ để tạo ra sự khác nhau trong 3 năm tiếp theo sau  đó.” Tôi không nghĩ rằng những kết quả này có nghĩa là phải trở nên một kẻ  cuồng say tập thể dục”.Kristiann Heesch của Đaị Học Queenland ở Úc đã giải  thích như thế.Điều được gợi ý là ta có thể rút ra một mối lợi lớn bằng cách tản  bộ và theo đuổi một hoạt động hàng ngày có mức độ. Các thầy thuốc đã luôn luôn  khuyến khích những người già tập thể dục để duy trì sự mềm dẻo của các khớp  xương, sự phát triển của hệ cơ và tránh khỏi bị lên cân.Mặc dầu sự tương quan  trực tiếp giữa luyện tập vật lý và sự giảm đau khớp dường như là điều có thật, nhưng  những lý do của mối liên hệ này vẫn chưa được rõ ràng.Có thể là hoạt động vật  lý tác dụng dương tính lên các khớp.Có thể là tập thể dục làm giảm sự nhạy cảm  của các thụ thể giác quan (capteurs sensoriels) nơi người cảm nhận ít đau đớn  hơn bác sĩ John Hardin thuộc văn phòng khoa học của Fondation pour l’arthrite  đã đưa ra ý kiến như vậy. 
                                     (METRO 20/4/2007) 
                                                                            
                                                                          9/ CÚM GIA CẦM :  TAMIFLU CẢI THIỆN TỶ LỆ TỬ VONG HƠN CÁC CORTICOIDES 
                                       
                                      Các bệnh nhân nạn nhân của bệnh cúm gia  cầm được điều trị sớm với thuốc chống siêu vi Tamiflu để chống lại suy hô hấp  có nhiều khả năng sống còn hơn là những bệnh nhân được điều trị bằng corticoides.Đó  là kết luận sơ khởi của một hội nghị các chuyên viên quốc tế theo sáng kiến của  Tổ Chức Y Tế Thế Giới. O.M.S nhấn mạnh rằng các corticoides đã không chứng tỏ  được hiệu quả,căn cứ trên các kết quả được quan sát ở các bệnh nhân ở Việt Nam và  Nam Dương. 
                                      « Cứ 9 bệnh nhân được điều trị với  corticoides thì có 8 trường hợp tử vong » Frédérick Hayden,một chuyên gia của  OMS đã nhấn mạnh như vậy.Ông nói thêm: « Các bệnh nhân được điều trị với những  liều lượng corticoides cao và kéo dài đã chịu những tác dụng phụ nghiêm trọng  ». 
                                      Trong khi đó những bệnh nhân được  điều trị sớm với Tamiflu đã có thể được cứu sống như có thể thấy ở Ai Cập, là  nơi 20 bệnh nhân trên 34 đã sống sót. 
                                    Tính đến hôm nay, trên 291 người bị nhiễm bởi virus cúm gia cầm trên thế  giới,đã có 172 trường hợp tử vong.Tất cả các nước phương Tây đã tích trữ thuốc  chống siêu vi trùng Tamiflu để đối phó với một trận dịch toàn cầu cúm gia cầm  có thể xảy ra. 
                                    (LE  FIGARO 24/4/2007) 
                                                                           
                                      10/ SIDA : MỘT THUỐC MỚI TRONG TRƯỜNG HỢP  THẤT BẠI ĐIỀU TRỊ 
                                        
                                      Một dược phẩm antirétroviral mới, RALTEGRAVIR  của Hãng Bào Chế Merck, nếu kết hợp với các thuộc chống siêu vi khác,có thể  đóng một vai trò quan trọng đối với các bệnh nhân bị thất bại trong điều trị  (Lancet 14/4). 
                                    Đó là thuốc đầu tiên của một loại  thuốc mới,các inhibiteurs d’intégrase.Thật vậy có 3 loại enzymes (transcriptase  réverse,protéase,intégrase) cần thiết cho sự tăng sinh của virus.Trừ phi xuất  hiện những phản ứng phụ bất ngờ hoặc những vấn đề đề kháng virus; Raltegravir  có thể đóng một vài trò lớn trong những trường hợp các bệnh nhân gặp khó khăn  trong điều trị. 
                                    (LE FIGARO 14-15/4/2007) 
                                                                                                                                                                                            
                                    B.S NGUYỄN VĂN THỊNH  
                                      (29/4/2007) 
                                      |