Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 20

 

     
1/ SINH ĐÔI VÀ TỶ LỆ TỬ VONG LÚC SINH
     
Trong thai sinh đôi đủ tháng,đứa trẻ sinh sau cùng có tỷ lệ tử vong gia tăng lúc sinh.Trong trường hợp sinh đẻ tự nhiên, tỷ lệ tử vong do thiếu oxy tăng gấp bốn lần.Từ năm 1994 den 2003, Smith và các cộng sự viên đã thực hiện một công trình nghiên cứu để biết xem trong trường hợp đẻ sinh đôi, sự việc sinh ra đầu hay sinh ra thứ hai có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong lúc sinh của trẻ sinh đôi hay không.Các dữ kiện của các tác giả xuất phát từ 1.377 trường hợp có thai sinh đôi trong đó một trong hai trẻ sinh đôi bị chết trong lúc sinh hoặc một it lâu sau đó và tử vong này không phải do một di tật bẩm sinh.Trong công trình nghiên cứu này,thứ tự lúc sinh (sinh thứ nhất hay thứ hai) không có ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong lúc sinh đối với các trẻ sinh đôi sinh trước 36 tuần thai nghén.
Trái lại,đối với các trẻ sinh đôi đủ tháng,thứ tự lúc sinh tuồng như có đóng một vài trò nào đó,với nguy cơ gia tăng rõ ràng đối với trẻ sinh thứ hai. Nguy cơ tử vong do thiếu oxy và chấn thương trong khi sinh chính là nguy cơ chủ yếu đối với trẻ sinh đôi thứ hai.Theo các tác giả,nguy cơ đặc biệt rõ nét hơn trong trường hợp sinh bằng đường âm đạo,so với bằng césarienne.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/3/2007)


2/ TRỌNG LƯỢNG LÚC SINH,TUỔI THIẾU NIÊN VÀ BỆNH TRẦM CẢM

Người ta đã biết rằng một trọng lượng thấp lúc sinh có thể liên kết với sự phát sinh về sau này của bệnh cao huyết áp và bệnh đái đường.Elizabeth Costello (USA) và các cộng sự viên muốn biết xem có một mối liên hệ giữa trọng lượng thấp lúc sinh và chứng trầm cảm hay không..Các tác giả đã thực hiện một nghiên cứu trên một tập thể 1.420 thiếu niên và thiếu nữ,tuổi từ 9 đến 16 tuổi.Khoảng 5,7% các thiếu nữ của nhóm nghiên cứu này có trọng lượng lúc sinh dưới 2,5kg.Trong số các thiếu nữ này,38% đã bị một hoặc nhiều cơn trầm cảm từ lứa tuổi 13 đến 16 tuổi.Trong một nhóm các thiếu nữ cùng lứa tuổi, nhưng trọng lượng lúc sinh cao hơn,có khoảng 8,4% đã bị một cơn trầm cảm ít nhất một lần..Theo các tác giả, nguy cơ phát sinh bệnh trầm cảm trở nên quan trọng hơn,đặc biệt là đối với các thiếu nữ có trọng lượng lúc sinh thấp và ngoài ra đã phải đương đầu với những vấn đề trong thời kỳ mới sinh,trong thời kỳ thơ ấu hay thiếu niên.Ở các thiếu niên nam,các tác giả đã không tìm thấy một liên hệ nào giữa trọng lượng lúc sinh và sự gia tăng nguy cơ bị bệnh trầm cảm trong thời kỳ niên thiếu.Theo các tác giả cũng không có mối liên hệ giữa trọng lượng thấp lúc sinh và các bệnh tâm thần khác và điều này đúng cho cả thiếu niên lẫn thiếu nữ.Các tác giả cổ vũ các bậc cha mẹ và các thầy thuốc của các thiếu nữ có trọng lượng thấp lúc sinh phải đặc biệt cảnh giác về sức khỏe tâm thần của các thiếu nữ này.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/3/2007)

3/ BỆNH ALZHEIMER : MỘT VACCIN MỚI CHẰNG BAO LÂU SẼ ĐƯỢC THỰC NGHIỆM.

Vào năm 2000,một thử nghiệm lâm sàng đã trắc nghiệm trên người một vaccin chống bệnh Alzheimer nhưng đã bị đình chỉ sau đó bởi vì các tác dụng phụ nghiêm trọng (vài trường hợp viêm não-màng não gây tử vong).Một vaccin mới dễ sử dụng (bằng đường qua da) vừa được hiệu chính ở Hoa Kỳ bởi các nhà nghiên cứu của Đại Học Yale..Được trắc nghiệm trên chuột được chuyển di truyền (transgénique) và được gây bệnh Alzheimer,vaccin này đã có thể ngăn cản ngay tuần lễ thứ tư sau khi chích,sự kết đọng các plaques amyloides trong não bộ (đặc điểm bệnh lý của bệnh Alzheimer).Vaccin được dung nạp rất tốt Các thử nghiệm trên người có thể sẽ được bắt đầu trong thời gian gần đây.

(LA LIBRE MATCH 22/3-28/3/2007)

4/ PHẢI CHĂNG TÌNH MẪU TỬ LÀM BIẾN ĐỔI BỘ GENE CỦA CHÚNG TA ?

Sau khi quan sát hành vi của chuột mẹ đối với chuột sơ sinh của chúng,các nhà di truyền của Đại Học Mc Gill ở Montréal tin chắc quả đúng là như vậy và sự biến đổi này sẽ lâu bền.
Phải chăng tình mẫu tử sẽ làm cho chúng ta không những chỉ tin tưởng hơn,it stress hơn,mà cũng còn làm biến đổi mật mã di truyền(code génétique) của chúng ta ? Nói một cách khác phải chăng bộ gène (génome) của chúng ta,nhờ một mức độ cao của tình mẫu tử,có thể làm sai những chỉ thị di truyền đã được xác định để cho phép chúng ta thích nghi hơn với thế giới bên ngoài?
Đó là kết luận vừa đạt được của một nghiên cứu mới về vấn đề này,đươc công bố trong Journal of Neuroscience bởi các nhà di truyền của Đại Học Mc Gill ở Montréal.Các nhà nghiên cứu này đã quan sát hành vị của chuột mẹ đối với các chú chuột sơ sinh của chúng.Tại sao lai sử dụng các động vật gậm nhấm để làm thí nghiệm trong khi đời sống của một chú chuột không giống chút nào với đời sống của một con người? Thật vậy vi lẽ có sự khác nhau giữa người và một động vật gậm nhấm nên ta không thể so sánh sự phân ly giữa chuột mẹ và chuột con với việc đặt một em bé ở nhà trẻ.
Tuy vậy các cơ chế chi phối cũng khá tương tự nhau.Mặc dầu chuột không có nhà trẻ, nhưng chuột là những động vật phòng thí nghiệm tiêu biểu nhất bởi vì chất liệu di truyền (matériel génétique) của chúng, não bộ của chúng và ngay cả hành vị của chúng rất giống với con người.
Các nhà nghiên cứu từ lâu đã biết rằng các động vật được thương yêu và được săn sóc trìu mến bởi mẹ thì ít sợ hãi hơn và có khuynh hướng ưa thích mạo hiểm hơn.Hiệu quả này là do sự biến đổi của biểu hiện gène chi phối những đáp ứng của não bộ đối với stress.Sự biến đổi này làm gia tăng những thụ thể (récepteurs) mới đối với stress nằm trong một vùng của não bộ gọi là ngư mâ (hippocampe) và sự gia tăng nhiều các thụ thể này sẽ làm giảm bớt phản ứng của cơ thể đối với các tình huống stress.
Ngược lại,sự việc tách rời thường xuyên các động vật sơ sinh khỏi mẹ của chúng cũng như các biến cố khó chịu khác sẽ làm gia tăng lượng hormone de stress trong máu.Người ta cũng xác nhận rằng não bộ của chúng ít được nối kết hơn. Các chú chuột nhỏ về sau này sẽ mắc phải đủ loại rối loạn.Các thí nghiệm được tiến hành trên chuột đã phát hiện rằng các biến đổi này có thể bền lâu và được truyền cho các thế hệ tương lai.
Đồng thời,nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng các trẻ thiếu tình mẫu tử có một sức khỏe vật lý và tâm thần kém hơn,thường bị chứng trầm cảm hơn,thường có hành vi tội phạm và nghiện ma túy hơn.Thật vậy tuồng như những kinh nghiệm kinh qua lúc còn ấu thơ ảnh hưởng lên biểu hiện gènes và do đó lên sự phát triển của não bộ..
Nghiên cứu mới này của Canada phóng rọi một ánh sáng mới lên tầm quan trọng của giáo dục và những kinh nghiệm của cuộc sống lên tỷ lệ mắc vài bệnh lý như béo phì,đái đuờng và trầm cảm.Theo BS Moshe Szyf,phụ trách công trình nghiên cứu “ Sự việc môi trường xã hội có thể biến đổi cac gènes của chúng ta có một hàm ý to lớn đối với con người “ Bằng cách di chuyển con người từ môi trường này đến môi trường khác,bạn có thể tái chương trình hóa hoàn toàn bộ gene của họ và tạo nên trên họ những hiệu quả dương tính hay âm tính suốt cuộc đời.BS Szyf cam doan như vậy trước khi nói thêm rằng cac hành vi như chè chén hoặc hung bạo gây nên sự phóng thich hormone trong não bộ trong một thời gian dài có thể dẫn đến những biến đổi bền lâu của mật mã di truyền.Tuy nhiên những kết luận như thế không hẳn đều được mọi người nhất trí và còn phải được xác nhận.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/3/2007)


5/ ĐIỀU TRA VỀ BẢN NĂNG GIỚI TÍNH CỦA NGƯỜI PHÁP.

Trong mục đích phòng ngừa các bệnh lây truyền bằng đường sinh dục,một cuộc điều tra về bản năng giới tính của người Pháp vừa công bố những kết quả đầu tiên.Công trinh này được thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu đa khoa ( xã hội học,dân số học,dịch tễ học) dưới sự trách nhiệm về mặt khoa học bởi Nathalie Bajos (Inserm) và Michel Bozon.
Tuổi giao hợp lần đầu của nữ giới đã giảm xuống sát gần với nam giới(17,6 ở nữ giới so với 17,2 ở nam giới).Đời sống tình dục đôi lứa của các phụ nữ trên 50 tuổi gia tăng rõ rệt từ năm 1970 và 1992.Số lượng đàn ông tuyên bố có trên 10 bạn đường phối ngẫu rõ rệt nhiều hơn (35,4% so với 10,9%).Số bạn đường phối ngẫu trung bình là 4,4 đối với phụ nữ (gia tăng) so với 11,6 đối với đàn ông (con số ổn định).Người Pháp trung bình làm tình 8,7 lần mỗi tháng (hoặc hơn 2 lần mỗi tuần).Trong cuộc sống của mình,đàn ông có kinh nghiệm về đồng tính luyến ái hơn đàn bà (4,1% so với 4%).

TÌNH YÊU ẢO HAY TÌNH YÊU THẬT.
Trong số những người từ 18 đến 69 tuổi,13,1% nam giới và 9,6% nữ giới đã hẹn hò trên Net.Từ 18 đến 24 tuổi cứ 3 người thì có một người thử thời vận trên web.10% đàn ông và 6% phụ nữ đã có những giao hợp với một người được gặp trên Net.
Từ 20 đến 30 tuổi,cứ 20 người đàn ông thì có một người có những giao hợp với gái bán hoa trong vòng 5 năm trước đó (con số ổn định).
Cứ 3 phụ nữ thì có một người (28,9%) tuyên bố đôi khi có khó khăn để đạt được khoái lạc cực độ. 7,4% phụ nữ nói thường khó đạt được khoái lạc cực độ. Cứ 40 người đàn õng thì có một người thuờng có khó khăn để đạt được sự cương cứng ;14,3% nói đôi khi khó khăn, nhưng tình hình này trở nên suy thoái sau 50 tuổi.  
Việc sử dụng biện pháp phòng chống có thai còn có thể được cái thiện. Nếu cứ 10 người thì có 9 người sử dụng một biện pháp ngừa thai vào lần giao hợp đầu tiên trong lứa tuổi 18-24 tuổi,thì trong 5 người có một người không sử dụng khi có hơn 3 bạn đường phối ngẫu.
Trong công trình điều tra này,những người được hỏi được đề nghị một xét nghiệm tìm chlamydia.Ở những người từ 18 đến 24 tuổi, nữ giới có tỷ lệ dương tính là 3,6% so với 2,4% ở nam giới. Điều đáng chú ý là 44% trong số các phụ nữ dương tính và 26% trong số các đàn ông dương tính với chlamydia, lại không có những yếu tố ngụy cơ cổ điển (nhiều người phối ngẫu hay một người mới trong 12 tháng vừa qua).

SEX IS IN THE BRAIN
Những dị biệt về dục tính giữa nam giới và nữ giới có khuynh hướng giảm đi và những kinh nghiện về cảm xúc và tinh dục trở nên đa dạng hơn. 
Những phụ nữ thường vẫn gắn bó nhiều hơn với cảm xúc trìu mến và tình nghĩa vợ chồng trong khi đó đàn ông lại bị lôi kéo nhiều hơn bởi tính đa dạng và tầm quan trọng về mặt xác thịt của tình dục.những đặc điểm này giải thích tại sao các phụ nữ tuyên bố ít sử dụng biện pháp ngừa thai hơn nam giới..Sau cùng,các tiến bộ về sử dụng các biện pháp ngừa thái cần được thực hiện,nhất là ở những thanh niên, những người it hoc và những người có nhiều bạn đường phối ngẫu.

(LE JOURNAL DU MEDECIN 20/3/2007)

6/ TỶ LỆ MẮC BỆNH VIÊM GAN DO SIÊU VI TRÙNG GIẢM XUỐNG MỨC THẤP NHẤT KỶ LỤC.

Chủ yếu nhờ thuốc chủng ngừa có hiệu quả,tỷ lệ mắc bệnh nhiễm viêm gan A và B đã giảm xuống mức thấp nhất kỷ lục trong vòng 40 năm qua,theo những dữ kiện mới nhất vừa được cõng bố bởi Trung tâm Kiểm tra và Phòng ngừa Bệnh tật(CDC=centers for Disease Control and Prevention) ở Hoa Kỳ.Tỷ lệ mắc bệnh viêm gan C cũng đã giảm nhiều mặc dầu không có thuộc chủng ngừa.  
Từ năm 1996,CDC đã khuyên tiêm chủng phòng ngừa viêm gan A đối với những người hay đi du lịch quốc tế và những người đồng tình luyến ái nam,và từ năm 1999 chỉ định chủng ngừa được mở rộng cho các trẻ sống trong những cộng đồng có tỷ lệ bệnh cao nhất.Tỷ lệ mắc bệnh viêm gan A năm 2000 giảm xuống còn 1,5/100.000,so với tỷ lệ 12/100.000 của năm 1995.
Hiện nay CDC khuyên tiêm chủng đại trà chống viêm gan B đối với nhũ nhi,trẻ em và thiếu niên,điều tra phát hiện ở đàn bà co thai và tiêm chủng ở người trưởng thành có nguy cơ cao bị nhiễm trùng.Năm 2005,tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B là 1,8 trường hợp trên 100.000.Đây là tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất được ghi nhận kể từ lúc tiến hành theo dõi vào năm 1996, giảm 80% so với năm 1991. Viêm gan B chỉ có thể mắc phải do tiếp xúc với máu hoặc dịch cơ thể bị nhiễm trùng.Báo cáo này được công bố trên tuần báo The Morbidity and Mortality Weekly Report số 16/.3.
Tỷ lệ mắc bệnh viêm gan C đã giảm 11% kể từ năm 1992 có lẽ bởi vì những người nghiện ma túy đã biết sử dụng những phương cách ít gây nguy cơ hơn lúc tiêm chất ma tuý bằng đường tĩnh mạch.Tuy vậy ở Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 3,2 triệu người bị nhiễm trùng mãn tính.Viêm gan C được lan truyền qua máu bị ô nhiễm và do động tác giao hợp.

(HERALD INTERNATONAL TRIBUNE 29/3/2007)

7/ ĐIỀU TRỊ VÔ SINH VÀ THẾ HỆ TIẾP THEO

Mặc dầu công trình nghiên cứu có quy mô nhỏ và các kết quả có thể được lý giải nhiều cách khác nhau,các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã tìm thấy rằng những người nam giới được sinh ra từ các bà mẹ đã từng được điều trị vô sinh, có nồng độ tinh dịch thấp hơn so với những người khác.
Các nhà nghiên cứu đã khảo sát 1.925 đàn ông được khám vật lý lúc thi hành nghĩa vụ quân sự.Những người này tình nguyện cho lấy máu và tinh dịch để thử nghiệm.Sau đó các nhà nghiên cứu đã phỏng vấn các bà mẹ và có 47 bà báo cáo là đã từng được điều trị vô sinh.
Sau khi đã điều chỉnh các yếu tố khác,các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng các người đàn ông sinh ra từ các bà mẹ từng được điều trị vô sinh trung bình có nồng độ tinh dịch 46% thấp hơn và các tinh hoàn của họ bé hơn 0,9 mm .Công trình nghiên cứu được công bố trong The American Journal of Epidemiology số 1/3.Mặc dầu các bà mẹ được điều trị vô sinh nói rằng họ được điều trị bằng hormone,nhưng không có xét nghiệm nào xác nhận lời khẳng định này.Ngoài ra,các điều được tim thấy có thể là do các yêu tố di truyền được truyền lại bởi cha hoặc mẹ.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu nói rằng,hiệu quả mà họ tìm thấy lớn hơn nhiều so với hiệu quả của những yếu tố khác,như hút thuốc,mà trước đây được cho là có ảnh hưởng lên chất lượng tinh dịch và kích thước của tinh hoàn.

(HERALD INTERNATIONAL TRIBUNE 29/3/2007)

8/ CẮT BAO QUY ĐẦU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ NHIỄM TRÙNG ĐỐI VỚI PHỤ NỮ.

Người ta biết rằng cắt bao quy đầu( circoncision) có thể làm giảm 60% nguy cơ bị nhiễm siêu vi SIDA đối với nam giới. Ngược lại,theo các kết quả sơ khởi của một công trình nghiên cứu phối hợp của Hoa Ky và Ouganda,thì việc cắt bao quy đầu sẽ làm gia tăng ở các phụ nữ nguy cơ bị nhiễm HIV. Nếu các ông có huyết thanh dương tính(séropositif) đối với SIDA,không chịu kiêng cử mà lại giao hợp trong lúc sẹo giải phẫu đanh thành hình,thì các bà phối ngẫu sẽ có nguy cơ nhiều hơn bị gây nhiễm.Tuy nhiên,theo các chuyên gia, đây không phải là kết quả cuối cùng và các kết quả này rất có thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như sự sử dụng biện pháp ngừa thai.

(METRO 29/3/2007)


9/ CÁC GENE CỦA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG

Trên thế giới ,hơn 200 triệu người bị bệnh đái đường : họ có quá nhiều đường trong máu bởi vì !insuline,hormone điều hoà nồng độ này,không được sản xuất đúng đắn bởi các tế bào của tụy tạng hoặc là tác dụng không có hiệu quả.Chúng ta sinh ra không được bình đẳng trước đái đường loại 2 (đái đuờng xảy ra ở người trưởng thành liên kết với loạn nằng của các tế bào tụy tạng).Bệnh đái đường loại 2 không những chỉ do lối sống (béo phì,thiếu hoạt động vật lý) mà còn do các tố bẩm di truyền (prédispositions génétiques).Vậy các gènes nào liên hệ trong sự phát sinh bệnh đái đường này?
Các nhóm nghiên cứu của Philippe Froguel của Viện Pasteur thành phố Lille (Pháp) và của Rob Sladek của Đại Học McGill ở Montréal vừa nhận diện được 4 gènes biểu hiện cho 70% nguy cơ di truyền đối với bệnh đái đường loại 2.Các tế bào của tụy tạng tiết insuline rất chuyên môn hoá và sự quân bình giữa tăng sinh và biệt hoá của những tế bào này được điều hoà một cách chính xác,đặc biệt bởi một đường tín hiệu tế bào(voie de signalisation cellulaire) được mệnh danh là wnt.Thế mà trong số 4 gènes được nhân diện thi 3 gènes điều biến đường wnt này.Gène thứ tư mã hoá một protéine chỉ hiện diện ở các tế bào tụy tạng tiết insuline được gọi là ZnT8.Protéine này tham dự vào việc vận chuyển kẽm(zinc),cần thiết cho sự điều tiết insuline bởi các tế bào tụy tạng.Như vậy có ít nhất 4 gènes mở đường cho sự phát sinh bệnh đái đường loại 2 trên một người nào đó.Bệnh đái đường loại này như chúng ta đã biết tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

(POUR LA SCIENCE 4/2007)

10/ THÌ RA NGỦ TRƯA CÓ LỢI CHO TIM

Các nước môn đồ của thói quen ngủ trưa đều có cùng một điểm chung là số bệnh tim mạch ở các nước ấy được giảm bớt.Xuất phát từ ghi nhận này,Đại Học Harvard(Cambridge,Massachusetts) và Đại Học Athènes trong vòng 6 năm đã thực hiện các trắc nghiệm trên 23.681 người Hy Lap tuổi từ 20 đến 86 để kiểm tra các lợi ich khả dĩ của thói quen nghìn năm này.Đây là lần đầu tiên một công trình nghiên cứu với quy mô như vậy được thực hiện.Kết luận: các ông các bà ngủ ít nhất 30 phút sau các bữa ăn,ba lần mỗi tuần,sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch ít hơn 30%.Đối với các tác giả,sự giảm stress là nguyên nhân của hiện tượng này.

(SCIENCE ET VIE 4/2007)

DAI  LINH
(31/3/2007)

 

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.