Thông Tin Y Học và Giới Thiệu Dược Phẩm mới

Thời sự Y Học - Số 35

1/ SỰ PHÁT SINH TĂNG VỌT CỦA VI KHUẨN TRONG RUỘT TRẺ SƠ SINH

Khi một em bé vừa mới chào đời thì trong ống tiêu hóa hoàn toàn vô trùng vì tuyệt đối không có một vi khuẩn nào cả. Nhưng rất nhanh chóng ống tiêu hóa của trẻ sơ sinh sẽ bị xâm chiếm bởi một hệ vi khuẩn ruột  ( flore bactérienne intestinale) với số lượng vượt quá rất nhanh một trăm tỷ con.
Các nhà nghiên cứu của trung tâm y khoa của đại học Stanford và của Howard Hughes Medical Center ở Hoa Kỳ đã quan tâm về phương cách các vi khuẩn này sinh sôi nảy nở trong môi trường ruột suốt trong năm đầu của đời sống. Công trình nghiên cứu được công bố hôm qua trong tờ báo PlaS (Public Library of Science Biology). Nhờ sự sử dụng các micropuce di truyền cho phép phát hiện rất nhanh một loai vi khuẩn nào đó, công trình nghiên cứu cho thấy mỗi trẻ sơ sinh có một profil vi khuẩn riêng như thế nào. Và điều này xảy ra trong những giai đoạn khác nhau của năm đầu của đời sống. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng có một biến thiên lớn trong thành phần hệ khuẩn ruột của một nhũ nhi.Nhưng sau 12 tháng đầu tiên đầy chao đảo này, profil vi khuẩn của em bé trở nên giống với profil vi khuẩn của người lớn. Bởi vì những vi khuẩn tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển tốt của loài xuất hiện rất nhanh.

CẦN THIẾT CHO HỆ MIỄN DỊCH.

Là bộ máy đặc biệt biến hóa thức ăn thành những chất dinh dưỡng trọng yếu, ống tiêu hóa của chúng ta chứa hàng trăm ngàn tỷ các vi khuẩn tốt tham gia vào quá trình tiêu hóa. Các vi khuẩn này cũng tham gia vào việc điều hòa sự hấp thụ mỡ, sự kích thích tạo nên những huyết quản mới và có lẽ còn tham gia vào nhiều chức năng khác chưa được biết đến.. 
“Tôi không biết một con người sẽ trở nên như thế nào nếu ống tiêu hóa của người này không được xâm chiếm bởi hàng tỷ vi khuẩn này ». Nhà nữ di truyền học Chana Palmer, tác giả chính của tài liệu xuất bản, lúc còn là nữ sinh viên trong khoa sinh hóa của giáo sư Patrick Brown ở Stanford, đã nói đùa như vậy.” Các vi khuẩn này không những giúp rút các chất dinh dưỡng chủ yếu ra từ thức ăn, mà còn cần thiết cho hệ miễn dịch nhờ đó bảo vệ chúng ta chống lại những vi khuẩn gây hại ”.
Các nhà nghiên cứu đã phân tích hệ sinh thái (écosystème) ruột của 14 trẻ sơ sinh mạnh khỏe, sinh đủ tháng và được nuôi bằng sữa mẹ.Việc phân tích được căn cứ trên sự xem xét phân vào những thời điểm chủ yếu của quá trình tiến triển của các em bé này ( bắt đầu ăn thức ăn rắn, dùng kháng sinh..).Trung bình 26 mẫu nghiệm đã được thực hiện từ lúc sơ sinh đến khi trẻ được một tuổi. Các mẫu nghiệm này được đem so sánh với các mẫu nghiệm của bố mẹ và được phân tích nhờ các micropuce ADN.

Ngày sau khi sinh , ruột của trẻ sơ sinh bị xâm chiếm bởi những vi khuẩn có nguồn gốc rất khác nhau, phát xuất từ âm đạo của người mẹ lúc sổ thai, từ núm vú mẹ khỉ bú hoặc do tiếp xúc thân thể với những người thân sờ mó nâng niu. Do đó các colonies vi khuẩn này nở rất nhanh trong ruột của trẻ sơ sinh. Ngoại trừ trẻ sinh bằng césarienne không được tiếp xúc với niêm mạc âm đạo của người mẹ.Vào tuần lễ đầu sau khi sinh, hệ vi khuẩn của trẻ sinh bằng césarienne it phong phú hơn so với trẻ sinh bằng đường tự nhiên.
Nhưng những colonies vi khuẩn này chịu những thay đổi rất quan trọng với ngày tháng trôi qua. ”Chúng tôi không có giải thích có giá trị cho sự kiện vì sao một họ vi khuẩn này thay thế một họ khác ”
Ngược lại nghiên cứu này mang lại một điều ngạc nhiên có tầm cỡ về nhóm Bifidus, một loài có tiếng về những tác dụng có lợi. Một vài nghiên cứu đã cho thấy rằng ruột của một trẻ được nuôi bằng sữa mẹ chứa lượng vi khuẩn Bifidus nhiều hơn. Phải cần nhiều tháng để họ vi khuẩn này xuất hiện. Nhưng sau cùng trẻ sơ sinh cần 12 tháng để ruột của chúng có một hệ sinh thái gần giống với người trưởng thành 

(LE FIGARO 26/6/2007)

2/ MORPHINE CÓ TÁC DỤNG CỰC NHANH DÙNG BẴNG ĐƯỜNG MŨI.

Các chuyên gia hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ sử dụng những dạng morphine có tác dụng rất nhanh để chống lại những con đau kịch phát.
Những phương thức điều trị mới hoặc đúng hơn những hình thức cho thuốc mới (sử dụng morphine bằng đường mũi hoac lợi răng) với tác dụng trong vài phút ( trong khi đó bơm morphine tác dụng trong 15 đến 20 phút) đang được thực nghiệm trên những bệnh nhân bị ung thư. Khám phá này cho phép cải thiện việc điều trị những đau đớn đôi khi không chịu nỗi trên nhiều bệnh nhân, nhờ thời gian tác đúng rất ngắn.” và nhất là trong những trường hợp đau đớn không ổn định. Các chuyên gia đã nhấn mạnh trong hội nghị Eurocancer ở Paris cuối tháng 6 vừa qua.
Bởi vì sự đau đớn trong ung thư không luôn luôn ổn định : người bệnh đang không đau đớn gì cả hoặc chỉ đau chút ít nhờ một điều trị chống đau duy trì và đột nhiên trở thành nạn nhân cho những cơn kịch phát đau đớn gây nên do cử động (ví dụ từ tư thế nằm sang tư thế ngồi), đặc biệt trong trường hợp ung thư xương ở đốt sống, háng, chi dưới, hoặc những đau đớn được gọi là cuối liều (douleurs de fin de dose), khi những chất chống đau được cho trong một thời gian dài có tác dụng chấm dứt sớm. 66% những bệnh nhân có những cơn kịch phát đau đớn ngay cả khi điều trị duy trì có hiệu quả. Tuy vậy, “ 30% những người bị dằn vặt bởi ung thư hoặc các di chứng trên thực tế đã không nhận một điều trị chống dau nào cả ”. BS Thierry Delorme bs chuyên khoa của trung tâm chống ung thư, phụ trách phòng khám chống đau của Viện Curie, Paris, đã phát biểu như vậy..

CÁC BÁC SĨ GIA ĐÌNH Ở TUYẾN ĐẦU.

Hai công trình nghiên cứu được thực hiện cuối những năm 1980 rồi vào năm 2002, đã chứng tỏ rằng 57% những bệnh nhân bị ung thư bị đau đớn nhưng đã không được xem xét đến hoặc không được điều trị đúng cách. 60% trong số những bệnh nhân này có mức độ đau đớn được đánh giá từ trung bình đến mạnh. “Sự việc đã chẳng tiến triển bao nhieu nếu chúng ta không biết thật sự là tại sao”
Ngày nay một số lượng lớn những bệnh nhân này được điều trị tại gia. Chỉ một thiểu số là được nhập viện mà phần lớn là bệnh viện một ngày (hopital de jour). Họ có thể trở về nhà buổi chiều tối sau khi đã nhận phóng xạ trị liệu, hóa học trí liệu và những điều trị khác.

 (LE FIGARO 30/6/2007)

3/ VÀI LOẠI THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM CÓ TÁC DỤNG XẤU LÊN MẬT ĐỘ XƯƠNG.

Những công trình nghiên cứu mới đã nhận thấy rằng việc sử dụng các thuốc chống trầm cảm thuộc loại SSRI được liên kết với sự gia tăng tốc độ mất tỷ trọng xương (bone density) nơi người già. 
Các nhà nghiên cứu đã khảo sát 2.722 phụ nữ có tuổi trung bình 78 và theo dõi họ trong vòng 4,9 năm. Sau khi đã xét đến thể trọng, chế đó ăn uống, việc nghiện thuốc lá và những vấn để sức khỏe khác, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng những người dùng SSRI có tỷ trọng xương háng bị giảm trung bình 0,82% mỗi năm, so với tỷ lệ 0,47% mỗi năm nơi những người không sử dụng loại thuốc này. Đối với những phụ nữ sử dụng thuốc chống trầm cảm thuộc loại tricyclic thì mức độ giảm tỷ trọng xương cũng giống như đối với những người không hề dùng thuốc chống trầm cảm.Các tác giả thừa nhận rằng bệnh trầm cảm tự bản thân có thể liên kết với việc mất tỷ trọng xương và nhấn mạnh rằng những điều họ tìm thấy không thể được tổng quát hóa. 
Trong một công trình nghiên cứu thứ hai tiến hành trên 5.995 đàn ông 65 tuổi hoặc hơn, mật độ chất khoáng của xương thấp hơn 3,9% ở xương háng và 5,9% ở xương sống vùng thắt lưng (lumbar spine) nơi những người dùng thuốc so với những người không sử dụng.Tuy nhiên trong nghiên cứu này,chỉ có 160 người là sử dụng SSRI, một tỷ lệ nhỏ hơn dân số tổng quát. Và kết quả chỉ căn cứ trên một phân tich chứ không phải dựa trên sự tiến triển với thời gian.
“ Những nghiên cứu này không chứng tỏ mối liên hệ nhân quả giữa SSRI và việc mất tỷ trọng xương”. BS Elizabeth Haney, tác giả lãnh đạo công trình nghiên cứu thứ hai đã phát biểu như vậy.Và bà nói thêm rằng không ai được phép ngừng dùng thuốc chống trầm cảm căn cứ trên kết quả của những tìm thấy này.
Cả hai công trình nghiên cứu được công bố trên số 25/6 của tờ The Archives of Internal Medicine.

(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 12/7/2007)

4/ SELENIUM VÀ NGUY CƠ MẮC BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG.

Các kết quả của công trình nghiên cứu trên động vật đã gợi ý rằng selenium với tính chất chống oxi hóa đã cải thiện chuyển hóa đường. Do đó các nhà nghiên cứu đã quyết định xem selenium có làm giảm tỷ lệ mắc bệnh đái đường loại 2 hay không. Họ đã nhận thấy rằng selenium trái lại có thể làm gia tăng thật sự nguy cơ bị bệnh này. .
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các dữ kiện từ 1.250 người với tuổi trung bình 63, nguyên khởi đã được tuyển mộ để trắc nghiệm selenium như là tác nhân phòng ngừa ung thư. 1/2 trong số những người tình nguyện này uống một liều lượng 200 microgram selenium mỗi ngày và ½ kia uống một viên thuốc giống hệt nhưng là thuốc giả. Những người tình nguyện này được theo dõi trong vòng 7,7 năm. 58 người uống selenium và 39 người trong số những người uống thuốc giả, đã mắc phải bệnh đái đường loại 2.
Công trình đã được công bố on line,sẽ xuất hiện trên ẩn bản 21/8 của tờ the Annals of Internal Medicine.
Một cách tổng quát, những người uống selenium bổ sung có nguy cơ mắc phải đái đường loại hai 1,5 lần cao hơn so với những người không uống, và nồng độ selenium trong máu càng cao thi nguy cơ mắc phải đái đường càng lớn.

(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 12/7/2007)

5/ BỆNH MIGRAINE VÀ LỢI TỨC THẤP.

Một công trình nghiên cứu trên 32.000 thiếu niên khắp Hoa Kỳ đã nhận thấy rằng chứng đau nửa đầu (migraine) thường được thấy nhiều hơn trong những gia đình có lợi tức thấp, khi không có tiền sử gia đình về chứng đau đầu như thế.  
Công trình nghiên cứu cũng nhận thấy rằng migraine thường thấy ở con gái nhiều hơn ở con trai và ở thiếu niên da trắng hơn là da đen.Tỷ lệ mắc bệnh migraine ở người trưởng thành cũng cao hơn nhiều trong những nhóm có trình độ giáo dục thấp hoặc lợi tức thấp.
Công trình nghiên cứu được công bố trong số 3/7 của tờ Neurology. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một bảng câu hỏi để nghiên cứu một mẫu khảo sát gồm 120.000 hộ, phân tích các dữ kiện từ các trả lời của 18.714 trẻ em tuổi từ 12 đến 19.
Khi cha hoặc mẹ bị bệnh thì không có sự liên quan giữa tỷ lệ mắc bệnh migraine với lợi tức thấp.Nhưng khi cả cha lẫn mẹ không bị migraine thì tỷ lệ mắc bệnh migraine trong các thiếu niên giảm khi lợi tức gia đình tăng cao. 
2,9 % các thiếu niên trong các gia đình có lợi tức 90.000 dollar hoặc hơn bị migraine, so với 5,5% các thiếu niên trong gia đình có lợi tức dưới 22.500 dollar.
Các tác giả công nhận rằng mối liên hệ có thể không phải do lợi tức thấp nhưng do bệnh trầm cảm hoặc những yếu tố khác.Thế nhưng bảng câu hỏi đã không đánh giá những vấn đề như vậy.
« Dầu lợi tức thế nào chăng nữa, migraine vẫn là một bệnh sinh học. Nhưng stress là một yếu tố nguy cơ và những kỹ thuật xử lý stress sẽ có ích trong điều trị migraine ». BS Marcelo Bigal, tác giả lãnh đạo công trình và phó giáo sư thần kinh học thuộc trường Y Khoa Albert Einstein ở Nữu Ước đã phát biểu như vậy.

(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 12/7/2007)

6/ ĐỘC TỔ CỦA MỘT LOÀI NHỆN LÀ MỘT « VIAGRA » CÓ TÁC DỤNG MẠNH.

Vết cắn gây nên bởi nhện Phoneutria nigriventer của xứ Brésil (Ba tây) sẽ gây nên ở các ông một tình trạng cương cứng kéo dài. Các nhà nghiên cứu Ba tây và Hoa kỳ đã nhận diện được thủ phạm của chứng cương đau dương vật (priapisme) này : chất Tx2-6 tác dụng bằng cách kích thích thần kinh. Các thử nghiệm lâm sàng sẽ nghiên cứu những tác dụng phụ có thể xảy ra, nhưng độc tố này sẽ mở đường cho một phương thức điều trị mới chống lại những rối loạn cương.

(SCIENCE ET VIE 7/2007)

7/ UNG THU HỌNG LIÊN HỆ VỚI PAPILLOMAVIRUS

          Mang một papillomavirus miệng làm tăng nguy cơ phát sinh ung thư miệng hầu(cancer de l’oropharynx), nằm phía sau lưỡi. Đó là điều vừa được tiết lộ từ một công trình nghiên cứu được tiến hành trên 100 bệnh nhân và 200 người khỏe mạnh bởi Maura Gillison thuộc đại học John-Hopkins (Maryland).                   
Papillomavirus (cũng là nguyên nhân của phần lớn các trường hợp ung thư cổ tử cung) càng gây bệnh nhiều hơn đối với những người có những giao hợp miệng-sinh dục với hơn 6 bạn đường phối ngẫu trong suốt cuộc đời. Rượu và thuốc lá không phải là những yếu tố gia trọng.

(SCIENCE ET VIE 7/2007)

8/ ASPIRINE VÀ PHÒNG NGỪA UNG THƯ ĐẠI TRÀNG

                  Uống aspirine 300mg mỗi ngày suốt trong 5 năm sẽ bảo vệ chống lại sự phát sinh ung thư dai tràng 10 năm sau đó.Đó là kết quả của công trình nghiên cứu được điều hành bởi John Ạ.Baron thuộc Dartmouth Medical School (Hoa Kỳ). Mặc dầu việc sử dụng aspirine mỗi ngày dường như là một cách tốt đề phòng ngừa một trong những khối u ác tình thường xảy ra nhất, tuy nhiên các nhà ung thư học không khuyên uống aspirine vì mục đích này cho tất cả mọi người : việc uống aspirine lâu dài có thể gây nên xuất huyết dạ dày và ruột. Chỉ những người có nguy cơ cao bị ung thư đại tràng mới phải uống mà thôi

(SCIENCE ET VIE 7/20007)

9/ SỰ GIA TĂNG NHỮNG CHỨNG NGHIỆN KHÔNG PHẢI DO MA TUÝ

Càng ngày càng có nhiều người nghiện nhà chơi (casino), Net, tình dục... 
Những trường hợp này cũng là những chứng nghiện ma túy (toxicomanies) bởi vì cũng có cùng những vùng não bộ bị hoạt hóa như trong trường hợp dùng chất ma túy. Điều này làm sáng tỏ dưới một ánh sáng mới những bí ẩn của chứng nghiện ngập.
Chúng ta đang ở trong một nhà chơi bé nhỏ của bờ biển Normandie. Trong phòng chơi có machines à sous, các ông cac bà đủ mọi lứa tuổi, đôi mắt dán vào màn ảnh của máy đánh bạc và không ngừng đặt cuộc. Những cử chỉ của họ chính xác, nhanh nhẹn và máy móc. Nhiều người trong số họ ở lại cho đến tối khuya, hững hờ đối với những gì xảy ra chung quanh họ.Trên toàn bộ những người chơi cờ bạc này, ít nhất có 2-6% là nạn nhân của điều mà các nhà tâm thần học gọi là trò chơi bệnh lý (jeu pathologique). Đó là một sự phụ thuộc (dépendance) thuộc một loại rất đặc biệt bởi vì sự phụ thuộc này không bao hàm một chất ma túy nào như alcool, cocaine hoặc những chất gây nghiện khác. Những người này phụ thuộc vào sự khoái lạc thích thú do kỳ vọng thắng cuộc mang lại cho họ. Nhà tâm thần học Marc Valleur, giám đốc bệnh viện Marmottan (Paris) và chuyên gia về vấn đề này, đã giải thích như vậy.Và đúng đó là một sự phụ thuộc theo ý nghĩa là họ dành càng ngày càng nhiều thời gian vào hoạt động này, đến độ họ không còn có thể kiềm chế được nữa. 
Nói một cách khác, những người mê say (accros) này đúng là những người nghiện ma túy (toxicomanes) nhưng không dùng thuốc ma túy (drogue).
Mặc dầu cờ bạc là hình thức phổ biến nhất của hành vi bệnh lý (comportement pathologique) này (liên quan đến 1-3% toàn thể dân chúng), tuy nhiên đây không phải là chứng nghiện không ma túy (addiction sans drogue) duy nhất. Không hẳn là như thế. Thật vậy các nhà tâm thần học đánh giá rằng có những hình thức phụ thuộc Internet (dépendance à internet). Tình trạng một người không còn có thể giới hạn được nữa thời gian dành cho Net được gọi là Cyberdépendance. Có sự phụ thuộc vào công việc (dépendance au travail) và những người không thể không dành gần như toàn bộ thời gian vào hoạt động nghề nghiệp của họ được gọi là workalcoholic. Cũng có sự phụ thuộc vào việc mua sắm thôi thúc (dépendance aux achats compulsifs) khiến cho nạn nhân chi tiêu bất kể và việc tiêu xài không tương xứng với ngân sách mà họ thật sự có.
Người ta cũng biết những người phụ thuộc vào một quan hệ tình ái bệnh lý (une relation amoureuse pathogène), như trong truờng hợp một người đàn bà quyến luyến ngoài ý muốn, với một người chồng nghiện rượu và hung bạo. Đừng quên là có sự phụ thuộc vào tình dục (dépendance au sexe), một bệnh lý thật sự trong đó nạn nhân có một nhu cầu thôi thúc (un besoin compulsif) muốn có một hoạt động tình dục hết sức liên tục. Lại có chứng nghiện thể thao (addiction au sport) thúc đẩy người vận động viên jogging thích hoạt động thể dục hơn là cuộc sống gia đình và xã hội của họ. Tất cả chứng nghiện không ma túy này đều có cùng một điểm chung là mất sự kiểm soát của hành vi (perte de controle du comportement).” cũng như đối với những chứng nghiện ma túy cổ điển, loại phụ thuộc này có đặc điểm là mất sự tự do kiêng cữ (perte de la liberté de s’abstenir). Có nghĩa là nạn nhân ý thức về hành vi của mình , công nhận rằng có những vấn đề đang xảy ra với mình, nhưng không thể nào chấm dứt được mặc dầu hết sức cố gắng ». Như thể có một thế lực đen tối, mạnh mẽ hơn ý chí, buộc phải theo đuổi mãi mãi với hành vi này.Và chứng nghiện không ma túy này cũng có những hậu quả trên bình diện xã hội như trong trường hợp nghiện rượu và nghiện héroine : mất việc, ly dị, khó khăn về tài chánh.
Mặc dầu không có các thống kê chứng minh rõ ràng, các chuyên gia đều nói rằng loại nghiện này đang càng ngày càng nhiều.Một hiện tượng có liên quan trực tiếp với ngày càng nhiều những tình hình thuận lợi cho những hành vi phụ thuộc như sự tăng thêm các sòng bạc, phát triển internet, kích thích tiêu thụ … đến độ từ một thập niên nay, các cơ sở y tế đã mở những khoa chuyên điều trị loại nghiện này.Trước hết là bệnh viện Marmottan, được thành lập năm 1971 bởi nhà tâm thần học nổi tiếng Claude Olievenstein.Từ năm 2001, bệnh viện này có một khoa dành cho điều trị cyberdépendance. Còn có Bệnh Viện Pasteur ở Nice tiếp nhận những người cờ bạc bệnh lý (joueurs pathologiques).
Làm sao giải thích bệnh lý kỳ lạ này. Kỳ lạ bởi vì chứng nghiện này khác nhiều với chứng nghiện cổ điển : không thể quy cho một chất ma túy nào hết. “Có thể giải thích bằng hóa học của não bộ ». Các nhà khoa học đã trả lời như thế. Mặc dầu không có bằng cớ chính thức nhưng vài công trình nghiên cứu đã đi theo chiều hướng này. Đặc biệt là nghiên cứu được tiến hành năm 2001 ở Bệnh Viện Toàn Khoa Massachusetts (Hoa Kỳ) trên những người say mê cờ bạc : nhờ chụp ảnh não bộ, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy rằng sự mong chờ thắng cuộc được thể hiện bởi sự hoạt hóa nhiều vùng não bộ trong đó có noyau accumbens. Thế mà người ta đã biết rằng những vùng này được hoạt hoá lúc dùng chất ma túy. Ngoài ra, vào năm 1998, G.S Montserrat Estorch của bệnh viện Santa Creu (Barcelone) đã chứng tỏ rằng sự việc thực hiện một cuộc chạy bộ làm gia tăng 3 lần nồng độ beta-endorphines trong máu. Endomorphines là những chất dẫn truyền thần kinh có tác dụng làm giảm đau đớn và mang lại cảm giác khoái lạc. Hoạt tính não bộ này ( bao hàm sự phóng thích dopamine trong não bộ) đặc biệt mạnh ở những người nghiện.Chính sự kích thích các circuit này là điều mà những người nghiện mong mỏi tìm kiếm.
Jean-Pol Tassin thuộc Collège de France đánh giá rằng « chứng nghiện không ma túy dựa trên sự hoạt hóa các hệ thống stress, đặc biệt là sự tiết hormone de stress , các corticoides ».Sự tiết này tạo nên một sự bất quân bình giữa các đường vòng neurone thần kinh ( circuits neuronaux). Chỉ có sự lặp đi lặp lại các hành vi bệnh lý mới có thể tái lập sự quân bình này. Đối với ông sự nghiện ngập có thể được xem như là một đáp ứng với sự trầm cảm. Bởi vì trong vài trường hợp, stress do hoạt hóa những hệ thống bị suy yếu đã đem lại giải pháp : stress gây sự phóng thích corticoides và mang lại một khoái lạc.

(SCIENCE ET VIE 5/2007)

10/  MỞ RA MỘT HƯỚNG MỚI CHỐNG LẠI MỘT LOẠI UNG THƯ XƯƠNG.

Làm ngừng sự phát triển sarcome Ewing bằng cách buộc các tế bào ung thư trở lại bình thường : đó là hướng điều trị mới được đề nghị bởi các nhà nghiên cứu người Pháp.Là ung thư xương thứ hai thường gặp ở các thiếu niên, sarcome Ewing xuất hiện do hậu quả của việc trao đổi chất di truyền giữa các nhiễm sắc thế, do đó sinh ra một protéine bất thường . Bằng cách ngăn cản sự sản xuất protéine này bằng kỹ thuật “ARN interférant”,các nhóm nghiên cứu của Olivier Delattre (Viện Curie, Paris) và của Pierre Chabord (Inserm,Tours) trên thực nghiệm đã buộc các tế bào ung thư tìm lại cương vị những tế bào gốc trung mô có khả năng biệt hóa thành những tế bào xương và  mỡ. Công trình nghiên cứu đã phát hiện những tế bào là nguồn gốc của sarcome.

(SCIENCES ET VIE 7/2007)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(17/7/2007)

Thông Tin Y Học

  • Thông tin Y học - Số 39 - Đại Linh
  • Thông tin Y học - Số 36 - Đại Linh
  • Cấp cứu Nội khoa số 5 -  BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 4 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 3 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 2 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Giới thiệu Dược phẩm mới số 1 -  Võ Đăng Đài
  •  Thông tin Y học - Số 35 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 34 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 33 - Đại Linh
  •  Cấp cứu Nội khoa số 1 - BS Nguyễn Văn Thịnh
  •  Thông tin Y học - Số 32 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 31 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 30 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 29 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 28 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 27 -Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 26 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 25 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 24 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 23 -  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 22 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 21 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 20 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 19 - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 18  - Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 17 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 16 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 15 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 14 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 13 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 12 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 11 -  Đại Linh
  •  Thông tin Y học - Số 10 -  Đại Linh
  •  La Circulation ExtraCorporelle - Bùi Phương
  • Bài vở , hình ảnh, dữ liệu đăng trên trang nhà của Y Khoa Huế Hải Ngoại (YKHHN) hoàn toàn có tính thông tin hay giải trí. Nội dung của tất cả bài vở, hình ảnh, và dữ liệu này do tác giả cung cấp, do đó trách nhiệm, không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chủ trương của trang nhà YKHHN.
    Vì tác quyền của mọi bài vở, hình ảnh, dữ liệu… thuộc về tác giả, mọi trích dịch, trích đăng, sao chép… cần được sự đồng ý của tác giả. Tuy luôn nỗ lực để độc giả được an toàn khi ghé thăm trang nhà YKHHN, chúng tôi không thể bảo đảm là trang nhà này hoàn toàn tránh được các đe dọa nhiễm khuẫn hay các adwares hay malwares… Vì chúng tôi không thể chịu trách nhiệm cho những tổn hại nếu có, xin quý độc giả cẩn trọng làm mọi điều có thể, ví dụ scanning, trước khi muốn sao chép, hoặc/và tải các bài vở từ trang nhà YKHHN xuống máy của quý vị.