1/ UNG THƯ VÚ Ở ĐÀN ÔNG. 
                                    
                                         Ở đàn ông, tỷ lệ mắc phải ung thư vú là  dưới 1% của tất cả các ung thư vú cọng lại (đàn ông và đàn bà). Ngược lại,trái  với ung thư vú của phụ nữ, hầu như không có một tiến bộ nào về tỷ lệ sống sót  được ghi nhận trong suốt 30 năm qua. Hiện tượng này có lẽ chủ yếu là do ung thu  vú ở đàn ông hiếm xảy ra, khiến không có những công trình nghiên cứu có quy mô  lớn,vì vậy điều trị ung thư vú ở đàn ông chủ yếu căn cứ trên những kiến thức  thu được từ bệnh ung thư vú của phụ nữ.Trên cơ sở những dữ kiện mới, Nahleh và  các cộng sự viên gợi ý rằng những dị biệt về sinh học có thể ảnh hưởng lên tỷ  lệ tử vong ở nam giới.Thí dụ các tác giả đã chứng tỏ rằng những bệnh nhân có  những khối u tương đối nhỏ hoặc những khối u chưa di căn đến các hạch bạch  huyết,có thời gian sống sót ngắn hơn so với các phụ nữ có cùng loại ung thư.Các  tác giả giải thích rằng cần phải biết rõ hơn về ung thư vú ở nam giới như vậy  mới có thể có những điều trị tốt hơn cho bệnh nhân.Các tác giả đã rút ra kết  luận từ các dữ kiện của Veterans’ Affairs.Các tác giả đã duyệt xét các dữ kiện  của 612 đàn ông được điều trị vì ung thư vú và so sánh chúng với các dữ kiện  của 2413 phụ nữ được điều trị vì cùng loại ung thư.Cac nhà nghiên cứu đã không  tìm thấy những khác nhau đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa đàn ông và đàn bà đối  với các ung thư vú trong giai đoạn muộn. 
 
(LE JOURNAL DU MEDECIN 22/5/2007) 
 
2/ NHỮNG NGƯỜI BÉO MẬP ÍT BỊ BỆNH THOÁT  VỊ HƠN. 
  
     Ruhl và các cộng sự viên đã nghiên cứu các  yếu tố nguy cơ làm dễ phát sinh thoát vị bẹn (hernie inguinale) nơi những người  Mỹ ở tuổi trưởng thành ( 5316 đàn ông và 8136 phụ nữ ).Những người này được  tuyển mộ trong công trình nghiên cứu First National Health and Nutrition  Examination Survey (1971-1975) và được theo dõi cho đến năm 1992-1993.Các tác  giả đã phát hiện mối nguy cơ gia tăng ở đàn ông so với phụ nữ.Nguy cơ gây bệnh  thoát vi cao hơn nơi những người lớn tuổi nhất và những người có tiền sử thoát  vị khe(hernie hiatale).Theo nghiên cứu này,các yếu tố bảo vệ chống thoát vị của  đàn ông là chủng tộc da đen, sự tăng quá mức thể trọng,chứng béo phì .Đối với  phụ nữ các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất là cao tuổi, sống ở thôn quê, thân  hình to lớn, ho mãn tính và các tiến sử thoát vị rốn (hernie ombilicale).Từ  đó,các tác giả đã kết luận rằng ở Hoa Kỳ chứng thoát vị thường xảy ra hơn ở đàn  ông,chủ yếu là ở người cao tuổi.Theo các nhà nghiên cứu, nguy cơ gây bệnh thấp  hơn được nhận thấy trong trường hợp gia tăng quá mức thể trọng (excès pondéral)  là đáng ngạc nhiên và cần thực hiện các nghiên cứu sâu hơn về điểm này. 
  
(LE JOURNAL DU MEDECIN 22/5/2007) 
 
3/ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2: CÀNG NGÀY  CÀNG NHIỀU. 
 
             Các nhà nghiên cứu người Anh đã  muốn đánh giá tỷ lệ mắc bệnh đái đường loại 2 ở các trẻ em dưới 17 tuổi và khảo  sát mối liên hệ giữa bệnh đái đường và chứng béo phì ngày càng gia tăng ở Vương  Quốc Anh và Cọng Hoà  Ái  NhĨ Lan. Giữa tháng 10 năm 2004 và tháng 10  năm 2005,các tác giả đã lên danh sách tất cả các trẻ em dưới 17 tuổi được chẩn  đoán mắc bệnh đái đường loại 2 và đã ghi nhận được 2.168 trường hợp.Trong số  các trẻ bị bệnh đái đường loại 2, thì 2,95 % trẻ bị thể trọng quá mức  (surpoids), 83% bị béo phì (obésité) và 84% có tiền sử gia đình về bệnh đái  đường. Kết luận : Bệnh đái đường  loại 2 luôn luôn ít xảy ra hơn bệnh đái đường loại 1 nơi các trẻ em người  Anh..Tuy nhiên, Haines và các cộng sự viên, các tác giả của nghiên cứu, đánh  giá rằng so sánh với các dữ kiện trước đây thì tần số mắc phải bệnh đái đường  tuồng như gia tăng.Như trước đây đã mô tả, ở Hoa Kỳ tỷ lệ mắc bệnh đái đường  loại 2 ở dân tộc thiểu số cao hơn nhiều so với dân da trắng.Ở Vương Quốc  Anh,chứng béo phì gia tăng và tiền sử gia đình bị bệnh đái đường loại 2 liên  kết rất rõ rệt với chẩn đoán bệnh này ở trẻ em.  
 
(LE JOURNAL DU MEDECIN  23/5/2007) 
 
4/ HỢP CHỨNG STOKES-ADAMS.                                  
                                     Hợp chứng Stokes-Adams nhằm chỉ sự ngất  xỉu (syncope) xảy ra đột ngột do thiếu máu não.Sự ngất xỉu này chỉ kéo dài vài  giây (đôi khi đến 1 phút) và sau đó bệnh nhân tỉnh lại hoàn toàn. Hợp chứng này  được đặt tên theo hai vị BS người Ái Nhĩ Lan của thế kỷ thứ XIX.Tốt nghiệp  Trinity College de Dublin (1810-1814), nhà phẫu thuật Robert Adams (1791-1875)  đã tạo một sự nghiệp hiển hách với chức vụ chủ tịch của Royal College of  Surgeons và của Dublin Pathological Society .Năm 1862, ông được bổ nhiệm làm BS  riêng của Hoàng Hậu Ái Nhĩ Lan. 
                                      Ở Đại Học Dublin nơi Adams hành nghề với  tư cách giáo sư, ông có một người đồng nghiệp tên là William Stokes  (1804-1878).Stokes đã học Y Khoa ở Meath Hospital de Dublin trước khi trở thành  chuyên khoa trong điều trị bệnh tim và bệnh phổi. Chính dưới ngòi bút của ông  mà các tác phẩm tham khảo đã được xuất bản : Chuyên luận về Chẩn đoán và Điều  trị Bệnh Ngực (A Treatise on the Diagnosis and Treatment of Diseases of the  Chest)  (1837) và Bệnh của Tim và Động  Mạch Chủ  (The Disease of the Heart and  Aorta)  ( 1854).Ông cũng là một trong  những tác giả đã mô tả cách sử dụng và lợi ích của ông nghe (stéthoscope). 
                                      Đối với hậu thế, ông được xem là người  đã nêu rõ vai trò chủ yếu của khám lâm sàng trước khi xác lập chẩn đoán.Tên của  Stokes cũng gắn liền với Nhịp Thở được goi là Cheyne-Stokes (Respiration de  Cheyne-Stokes).Đặc điểm của nhịp thở này là sự luân phiên của những thời kỳ hô  hấp có biên độ lớn với những thời kỳ ngừng thở (apnée) xảy ra ngắn ngủi.Nhịp  thở Cheyne-Stokes xảy ra là do sự kích thích không đầy đủ các trung tâm hô hấp.  
                                       
                                      (SEMPER 5/2007) 
                                       
                                      5/ CÁC ÔNG CHỒNG THAM GIA CÔNG TÁC NỘI TRỢ CÓ CÁC BÀ VỢ HẠNH  PHÚC HƠN. 
                                       
                                      Có một mối quan hệ có ý nghĩa giữa sự  tham gia của người chồng trong việc nội trợ và sức khỏe về mặt tâm lý xã hội  của bà vợ mình. Đây là kết quả nghiên cứu được thực hiện trên những cặp vợ  chồng sống trong những khu phố nghèo nàn nhất của Beyrouth (Liban). Marwan và  các công sự viên đã phân tích các dữ kiện của 2797 gia đình.Trên cơ sở 25 tiết  mục(items) tương quan với công việc nội trợ, các tác giả đã đánh giá sự tham  gia của ông chồng vào những công việc này. Sau đó,các nhà nghiên cứu đã đặt mối  tương quan giữa các dữ kiện này với sức khỏe tâm thần do các bà vợ báo cáo, mức  độ thỏa mãn trên bình diện lứa đôi,cũng như sự thoải mải nói chung.Các kết quả  của công trình này đã được công bố trong Am J Public Health (2007).So  với các phụ nữ có chồng tích cực tham gia vào nội trợ gia đình,thì các bà vợ có  chồng không hề tham gia sẽ có 1,6 lần nhiều hơn nguy cơ cảm thấy bị stress,2,96  lần nhiểu hơn nguy cơ cảm thấy bất hạnh trong cuộc sống lứa đôi, và 2,69 lần  nhiều hơn khả năng cảm thấy bất hạnh nói chung. Các tác giả kết luận rằng có  một mối liên hệ có ý nghĩa giữa sự dấn thân của người chồng vào công tác nội  trợ và sức khỏe về mặt tâm lý và xã hội của vợ mình 
                                        
                                      (LE JOURNAL DU MEDECIN 8/5/2007) 
                                     6/ MỐI QUAN HỆ NÀO GIỮA SỰ Ô NHIỄM VÀ  BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG? 
                                        
                                      Theo những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Nam  Triều Tiên, các chất gây ô nhiễm (polluants) và mỡ trong cơ thể có thể góp phần  làm phát sinh sự đề kháng với insuline và bệnh đái đường . Theo lý thuyết của  các tác giả này, sự tích tụ của polychlorophényls (PCBs) vàc các chất hữu cơ  gây ô nhiễm kéo dài (POPs=polluants organiques persistants) có tính chất quyết  định trong mối liên hệ giữa chứng béo phì và đái đường. 
                                    Mối liên hệ giữa trạng thái mập  (embonpoint) và nguy cơ mắc bệnh đái đường loại 2 đều đã được biết đến và là  đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu từ nhiều năm qua.Hơn 60% trường hợp  bệnh đái đường loại 2 là một hậu quả của chứng béo phì(obésité).Ngoài ra,số  trường hợp bệnh gia tăng tỷ lệ với chỉ số khối lượng cơ thể (indice de masse  corporelle).Mặc dầu cơ chế sinh lý và phân tử để giải thích bệnh đã phát triển  mạnh trong những năm vừa qua,nhưng vẫn còn không ít phỏng đoán về cơ chế sinh  lý bệnh chính xác khả dĩ giả thích mối liên hệ giữa chứng béo phì và bệnh đái  đường. 
                                    MỘT YẾU TỐ CHỦ YẾU :  CÁC CHẤT HỮU CƠ GÂY Ô NHIỄM KÉO DÀI. 
                                                                          Vào tháng 9 năm 2006,các nhà nghiên  cứu Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên đã chứng tỏ rằng 6 chất hữu cơ gây ô nhiễm kéo dài  (polluants organiques persistants ), được gọi là POPs, xuất hiện thường xuyên  hơn trong máu của những bệnh nhân đái đường hơn là trong máu của một nhóm kiểm  chứng.Chính các PCBs (polychlorophényls) là được tìm thấy nhiều nhất.Trong một  nghiên cứu theo dõi, các nhà nghiên cứu này đã chứng tỏ rằng các chất trừ sâu  bệnh (pesticides) nhất định và các PCBs cũng hiện diện với lượng lớn hơn nơi  những bệnh nhân đề kháng insuline ( insulino-résistance). Mặt khác,những người  béo phì có nhiều POPs trong máu tuồng như đề kháng với insuline hơn là những  người mảnh khảnh không có nồng độ POPs cao trong máu.Trong khi đó mối liên hệ  giữa chứng béo phì và sự đề kháng insuline biến mất hoàn toàn nơi những người  không có POPs trong máu. 
                                      Điều này là một lý lẽ mạnh mẽ để xác  định rằng các PCBs và những POPs tích tụ trong mô là yếu tố chủ yếu khiến nguy  cơ bị bệnh đái đường cao hơn,chớ không phải là do bệnh béo phì gây nên mối nguy  cơ này như là một yếu tố làm dễ. Duk Hee Lee, nhà nghiên cứu đã phát biểu như  vậy. 
                                        
                                      (LE JOURNAL DU MEDECIN 8/5/2007) 
                                       
                                      7/ TRÊN GIƯỜNG NGỦ, CÁC PHỤ NỮ CŨNG TỰ  GIẢI PHÓNG. 
                                        
                                       Đó  là một tiến triển lớn về mặt phong hoá (mœurs), nhất là ở các phụ nữ. Một đợt  điều tra lần thứ 3 về bản năng giới tính (sexualité) ở Pháp đã chứng tỏ như  vậy. Ngày nay tuổi « lần đầu tiên » của các thiếu nữ rất gần với tuổi « lần đầu  tiên » của các thiếu niên: 17,6 tuổi nơi thanh nữ so với 17,2 nơi thanh  niên.Thế còn nhịp độ làm tình thì sao? 12 lần giao hợp mỗi tháng đối với những  lứa đôi dưới 6 tháng, 8 lần sau 5 năm sống chung.Và 90% phụ nữ trên 50 tuổi  tuyên bố mới đây đã có một hoạt động tình dục. Vào năm 1970, tỷ lệ này chỉ có  53%! Về các kỹ thuật làm tình, các phụ nữ cũng bắt đầu thả lỏng. Dục tính bằng  đường miệng (sexualité orale) đã trở nên hiện hành trong đời sống tình dục lứa  đôi.  Nhưng vẫn còn một hố ngăn cách đáng  kể : về phía nữ, tình dục được liên kết với hôn nhân và tình cảm trong khi  đó ở nam giới thì đó là một nhu cầu và là một khoái lạc. Và số người phối ngẫu  được kê khai là 4,4 nơi các bà so với 11,6 nơi các ông. 
                                       
                                      (TOP SANTE 5/2007) 
                                        
                                      8/ THIẾU SẮT : COI CHỪNG TRÍ NHỚ VÀ KHẢ  NĂNG TẬP TRUNG 
                                        
                                      Một công trình nghiên cứu rộng rải của  Hoa Kỳ được tiến hành trên các phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ và như thế ở trong  tình huống dễ bị tình trạng thiếu sắt hơn(mất máu trong mỗi kỳ kinh) so với  những người cao niên .Kết quả đã cho thấy rằng các khả năng nhận thức như trí  nhớ hoặc năng lực tập trung bị giảm ở những phụ nữ bị thiếu máu.Những nghiên  cứu cũng đã cho phép ghi nhận rằng sự suy giảm này có thể được điều chỉnh bằng  cách cho thêm sắt bỏ sung. 
                                       
                                      (LA LIBRE MATCH 25/4-7/5/2007) 
                                       
                                      9/ NÃO BỘ CỦA CHÚNG TA TRƯỞNG THÀNH LÚC 11 TUỔI? 
                                       
                                      Theo một nghiên cứu mới của Hoa Kỳ,vùng  não bộ của chúng ta có quan hệ trong sự học tập (apprentissage) hầu như được  thành thục lúc 11 hoac 12 tuổi Như vậy có một sự gia tốc đột ngột trước tuổi  dậy thì. 
                                      Khoảng 500 trẻ sơ sinh và thiếu niên có  sức khoẻ tốt hiện được chụp IRM não bộ nhiều lần trong thời kỳ chúng đang tăng  trưởng, cũng như chịu một loạt xét nghiệm thích ứng với lứa tuổi: thương số  thông minh (QI),ngôn ngữ và trí nhớ. Các hình ảnh IRM đo lường sự phát triển và  sự tái tổ chức của các phần khác nhau của não bộ trong thời kỳ thơ ấu. Bằng  cách so sánh các hình ảnh này với các đường cong về hành vi (comportement) và  khả năng trí tuệ được đánh giá ở mỗi lứa tuổi, các nhà khoa học hy vọng vẽ nên  bản đồ về sự phát triển bình thường của não bộ trẻ em, điều này đã được mong  đợi từ lâu.Những kết quả đầu tiên được công bố làm sửng sốt.Những công việc  khác nhau, trí nhớ tích cực,ngữ vựng, sự định hướng trong không gian, sự suy  luận, sự tính toán được cải thiện nhanh chóng từ 6 đến 10 tuổi trước khi xuất  hiện một đoạn nằm ngang trên đường biểu diễn. “ Chúng tôi không biết tại sao “  . Deborah Waber,thuộc Bệnh Viện Nhi Đồng Boston  đã tuyên bố như vậy. Bài phân tích do ông thực hiện đã được đăng trên Le Journal de La Société  de Neuropsychologie . 
                                      Các nhà khoa học đã biết rằng trước năm  12 tuổi,não bộ phát triển với tốc độ rất nhanh, tạo nên nhiều nối kết  (connections) giữa các tế bào não bộ. Đến lượt các tế bào này lại làm lớn ra  các vùng sinh tử.Đó là lúc xảy ra một gia tốc đột ngột và đó là lý do tại sao  học một ngoại ngữ lúc còn bé dễ dàng hơn lúc ở tuổi trưởng thành.Sau tuổi dậy  thì,quá trình chậm lại,não bộ tập trung vào việc chương trình hoá  (programmation) những gì đã được thụ đắc.Một khi các nhà khoa học thêm những  kết quả scanner vào các thử nghiệm về khả năng của các trẻ em, họ sẽ có một ý  niệm tốt hơn về sự phát triển bình thường của một đứa trẻ.Khi đó họ sẽ có thể  cần đến những dữ kiện này để cố tìm hiểu điều gì không ổn trong não bộ của một  trẻ bị chứng tự kỷ ( autisme). 
                                        
                                      10/ NGƯỜI GIÀ HƠI MẬP SỐNG LÂU HƠN VÀ CÓ SỨC KHOẺ TỐT HƠN 
                                        
                                      Một nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng  những người cao niên hơi mập mạp (embonpoint),nhưng không béo phì (obèse) , sẽ có  nhiều khả năng sống lâu hơn và có sức khỏe tốt hơn những người gầy gò hoặc hoàn  toàn vạm vỡ. 
                                      Một nhóm các nhà nghiên cứu của Đaị Học  Texas vừa công bố trong Archives of Internal Medicine công trình nghiên cứu về  sự liên kết giữa chỉ số khối lượng cơ thể (BMI = Body Mass Index) với mức độ  tàn phế (invalidité) và tỷ lệ tử vong nơi những người Mỹ cao niên.Họ cũng đánh  giá tác dụng của BMI lên tuổi thọ mà không bị tàn phế thể chất. 
                                      Để thực hiện điều này,Soham Al  Smih và các cộng sự viên đã khảo sát 8359 người Mỹ trắng, 1931 Mỹ đen và 2435  Mỹ latin, tuổi 65 hoặc hơn và không bị tàn phế lúc được tuyển chọn để thực hiện  công trình.Các nhà nghiên cứu đo BMI, tình trạng sức khỏe và các hoạt động hàng  ngày của những người tham gia. 
                                      Các nhà nghiên cứu đã theo dõi những  người tham gia trong vòng 7 năm và các kết quả khá gây kinh ngạc.Thật vậy, các  nhà nghiên cứu cho thấy rằng chính những người có trị số BMI từ 25 đến 30 là có  ít nguy cơ bị tàn phế nhất.Trái lại, những người có BMI dưới 18,5 hoac trên 30  vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu,có nguy cơ bi tàn phế hơn trong thời gian  theo dõi. Sau cùng tuổi thọ cao nhất ở những người có BMI từ 25 đến 30. 
                                      Theo các tác giả, » vào lúc tuổi già,sự  mập mạp có lợi bởi vì góp phần làm giảm nguy cơ bị gãy xương háng do tác dụng  bảo vệ của mỡ và bởi vì những kilo dư thừa là nguồn dự trữ cần thiết lúc bị  bệnh » 
                                      Kết luận : tốt hơn là già lão với vài kg  dư thừa  (dĩ nhiên ở đây không phải là  béo phì bệnh hoạn) và sự việc hơi mập mạp lúc về già có lẽ không phải là điều  nghiêm trọng lắm 
                                       
                                      (LE JOURNAL  DU MEDECIN 8/5/2007) 
                                    BS NGUYỄN VĂN  THỊNH 
                                        (25/5/2007)  |